Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Pháp luật chống lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỐ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------

LÊ THÙY TRANG

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG NHẰM LOẠI BỎ
ĐỐI THỦ CẠNH TRANH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT THƯƠNG MẠI

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG NHẰM LOẠI BỎ
ĐỐI THỦ CẠNH TRANH

SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ THÙY TRANG
KHÓA: 36

MSSV: 1155010384

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Thạc sỹ Phạm Hồi Huấn


TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sỹ Phạm Hồi Huấn, đảm bảo
tính trung thực và tn thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cơ, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ
và động viên để tơi hồn thành Khóa luận tốt nghiệp này. Đặc biệt là sự hướng dẫn
tận tình của Thầy Phạm Hồi Huấn đã giúp tơi trong q trình định hướng và nghiên
cứu!
Người cam đoan


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

UNCTAD

United Nation Conference on Trade and
Development

OECD

Organization for Economic
Cooperation and Development


TP HCM

Thành phố Hồ Chí Minh


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG
NHẰM LOẠI BỎ ĐỐI THỦ CẠNH TRANH ...........................................................4
1.1. Một vài khái niệm có liên quan về vị trí thống lĩnh thị trường .....................4
1.1.1.

Vị trí thống lĩnh thị trường ..................................................................4

1.1.2.

Căn cứ để xác định vị trí thống lĩnh thị trường ...................................6

1.1.3.

Vai trị của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường với cạnh tranh
.............................................................................................................9

1.2. Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh tranh .............9
1.2.1.
trường

Khuynh hướng lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
.............................................................................................................9


1.2.2.
Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ
cạnh tranh ..........................................................................................................17
KẾT LUẬN CHƯƠNG I ..........................................................................................29
CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHỐNG LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG
LĨNH THỊ TRƯỜNG ĐỂ LOẠI BỎ ĐỐI THỦ CẠNH TRANH – THỰC TRẠNG
VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN ....................................................................................30
2.1. Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh tranh ................................................................30
2.2. Pháp luật Việt Nam về chống lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ
đối thủ cạnh tranh ..................................................................................................31
2.2.1.

Căn cứ để xác định vị trí thống lĩnh thị trường .................................31

2.2.2.
Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ
cạnh tranh ..........................................................................................................34
2.3. Những vấn đề còn tồn tại khi áp dụng pháp luật chống lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh tại Việt Nam ..............................38
2.4. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chống lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh tranh ..........................................46
2.4.1.
Nguyên tắc khi xây dựng và áp dụng các quy định chống lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh tranh ......................................47


2.4.2.


Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật chống lạm dụng vị trí thống lĩnh

thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh tranh ............................................................48
KẾT LUẬN CHƯƠNG II .........................................................................................53
KẾT LUẬN ...............................................................................................................54


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh được xác định là nền tảng cơ bản. Sự
ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh là động lực của sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Chính vì vậy, việc xây dựng một mơi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh, cụ
thể hơn là đảm bảo khuyến khích cuộc chạy đua giữa các chủ thể kinh doanh và kiểm
sốt độc quyền ln là vấn đề nhận được sự quan tâm hàng đầu của các quốc gia và
tổ chức kinh tế trên thế giới.
Ở Việt Nam, quá trình chuyển đổi từ chế độ tập trung bao cấp sang nền kinh tế
thị trường chỉ mới diễn ra từ hơn hai thập kỷ trước. Việc đẩy mạnh hội nhập và mở
cửa thu hút vốn đầu tư đã đưa về những doanh nghiệp nước ngồi có tiềm năng tài
chính, cơng nghệ lớn mạnh cùng với các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn tồn tại – là
những chủ thể có khả năng thống lĩnh thị trường. Những doanh nghiệp này ln có
xu hướng hành động nhằm duy trì và củng cố vị thế của mình trên thị trường liên
quan, thậm chí là những toan tính hạn chế cạnh tranh và độc chiếm thị phần. Đó là
nguy cơ tiềm ẩn cho khả năng phá vỡ cấu trúc và tương quan cạnh tranh trên thị
trường, triệt tiêu động lực phát triển của nền kinh tế, đe dọa sự ổn định và lành mạnh
của xã hội. Do đó, việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh, đặc biệt là hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ là một vấn đề có ý nghĩa to
lớn với nền kinh tế. Mặt khác, Việt Nam vẫn còn gặp nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn khi thực thi các quy định của pháp luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền. Xuất
phát từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Pháp luật chống lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh tranh” với mong muốn góp một

tiếng nói vào q trình hồn thiện pháp luật Việt Nam trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của
các tác giả. Ngay từ khi thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đã có hàng loạt những cơng trình khoa học mang tính định
hướng như “Các giải pháp kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh khơng lành
mạnh trong q trình chuyển đổi nền kinh tế ở Việt Nam – Viện Khoa học và Gía cả
(1994); “Xây dựng pháp luật cạnh tranh trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay” – Nguyễn Như Phát (1997), Tạp chí Nhà nước và Pháp luật…
Sau khi Luật Cạnh tranh 2004 ra đời, hàng loạt các cơng trình nghiên cứu về
các hành vi hạn chế cạnh tranh nói chung và pháp luật chống lạm dụng vị trí thống
1


lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh nói riêng ra đời, đi sâu vào từng khía cạnh cụ
thể của các hành vi như Nguyễn Như Phát, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Phân tích và
luận giải các quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, Nhà xuất bản Tư pháp; Nguyễn Ngọc
Sơn (2006), Luật cạnh tranh năm 2004 và hành vi lạm dụng quyền lực thị trường để
hạn chế cạnh tranh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; Nguyễn Ngọc Sơn (2008), Hành
vi Định giá hủy diệt và việc ứng dụng trong pháp luật cạnh tranh Việt Nam, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp; Trần Hồng Nga (2011), Pháp luật chống định giá lạm dụng
của EU, Hoa Kỳ, Việt Nam – So sánh và kinh nghiệm áp dụng cho Việt Nam, Luận
án Tiến sỹ Luật học; Chế Văn Tấn (2011), Lạm dụng vi trí thống lĩnh thị trường tại
Việt Nam – lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật; Phạm Hồi Huấn
(2012), Hành vi định giá hủy diệt trong pháp luật cạnh tranh, Tạp chí Nhà nước &
pháp luật; Nguyễn Thị Nhàn (2012), Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh theo Luật Cạnh
tranh, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật; Phạm Hoài Huấn, Nhữ Ngọc Tiến (2013),
Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh về giá, Nhà Xuất bản

Chính trị Quốc gia; Nguyễn Trần Thủy Ngân (2014), Pháp luật chống lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường về giá quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều 13 Luật Cạnh
tranh, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật…và một số cơng trình, bài báo có liên
quan.
3. Mục đích nghiên cứu
Những cơng trình, tác phẩm nói trên hầu hết tập trung vào hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh nhưng chưa đi sâu vào phân tích những
chiến lược loại bỏ đối thủ cạnh tranh nhằm độc chiếm thị phần, duy trì và củng cố vị
trí thống lĩnh trên thị trường liên quan. Do đó, trong phạm vi đề tài này, tác giả đi vào
phân tích nhóm những hành vi này trên cơ sở những luận giải kinh tế để thấy được
bản chất lạm dụng của chúng. Từ việc so sánh các quy định hiện hành của pháp luật
Việt Nam và một số quốc gia phát triển, kết hợp với tình hình kinh tế - xã hội thực tế
của nước ta để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật chống lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh tranh trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường của doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh, duy trì và củng cố vị thế
trên thị trường liên quan.

2


Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung, khóa luận này chỉ tập trung nghiên cứu các
hành vi nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh như định giá hủy diệt, chèn ép lợi nhuận, tạo
nên các rào cản tư để duy trì sức mạnh thị trường trong sự so sánh đối chiếu giữa
pháp luật Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới; kết hợp với phân tích một vài
vụ việc trên thực tế và tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam để từ đó kiến nghị một
số giải pháp phù hợp. Do sự giới hạn về thời gian và khối lượng cơng trình, những
nội dung về căn cứ xác định vị trí thống lĩnh thị trường tác giả chỉ trình bày một cách
khái qt.

Về mặt khơng gian, Khóa luận có sự tìm hiễu pháp luật Cạnh tranh của một số
quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Khối EU … về các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh tranh.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Khóa luận này được hồn thành trên cơ sở tiếp thu và vận dụng phương pháp
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lenin và các chủ trương, đường lối của
Đảng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
Những phân tích và lập luận mà tác giả đưa ra là sự kết hợp các phương pháp:
phân tích và bình luận, so sánh đối chiếu, chứng minh… trong đó phương pháp so
sánh là phương pháp chủ yếu để làm sáng tỏ các luận điểm chính của quá trình nghiên
cứu, cụ thể là sự khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới.
6. Bố cục tổng quát của khóa luận
Kết cấu của khóa luận gồm hai chương:
Chương I: Lý luận về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ
cạnh tranh. Trong chương này, tác giả đi vào tìm hiểu, phân tích các quy định của
pháp luật chống lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh tranh
của một số quốc gia trên cơ sở đánh giá bản chất lạm dụng của hành vi và biểu hiện
trên thực tế của chúng. Đây là cơ sở cho việc phân tích và so sánh với các quy định
của pháp luật Việt Nam ở chương tiếp theo.
Chương II: Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh
tranh theo pháp luật Việt Nam – thực trạng và hướng hồn thiện. Phân tích cấu
thành các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh tranh
theo pháp luật Việt Nam và một số vụ việc trên thực tế để thấy được những hạn chế
và đề xuất một số kiến nghị nhằm giải quyết những vấn đề này.

3


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH
THỊ TRƯỜNG NHẰM LOẠI BỎ ĐỐI THỦ CẠNH TRANH


1.1.

Một vài khái niệm có liên quan về vị trí thống lĩnh thị trường

1.1.1. Vị trí thống lĩnh thị trường
Cạnh tranh có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành và phát triển của kinh
tế thị trường. Như Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Như Phát từng nhận định: Nếu quan
hệ cung cầu là cái cốt vật chất, giá cả là diện mạo thì cạnh tranh là linh hồn của thị
trường1. Thật vậy, dưới tác động của mình, cạnh tranh đã làm thay đổi căn bản bộ
mặt của đời sống xã hội, đem lại cho nền kinh tế sức sống mạnh mẽ cùng những bước
chuyển động linh hoạt. Cùng với việc thúc đẩy xã hội phát triển, cạnh tranh cịn góp
phần phân bổ lại các nguồn lực theo hướng tập trung vào những chủ thể sử dụng có
hiệu quả, đưa tới sự hình thành các doanh nghiệp có tiềm lực lớn mạnh mà kinh tế
học gọi là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường.
Khái niệm vị trí thống lĩnh thị trường (dominant position) đã xuất hiện trong
các quy định và chính sách về Cạnh tranh của nhiều quốc gia và các tổ chức kinh tế
như Canada, Ấn Độ, EU, UNCTAD... Luật Mẫu về Cạnh tranh của UNCTAD đưa ra
định nghĩa về vị trí thống lĩnh thị trường là trường hợp “khi một doanh nghiệp bằng
chính khả năng của nó hoặc cùng hành động với các doanh nghiệp khác để có được
vị trí có thể kiểm sốt một hoặc một nhóm hàng hóa, dịch vụ”2. Điều 79 Luật Cạnh
tranh Canada quy định chỉ được xem xét hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
khi một hoặc nhiều doanh nghiệp về cơ bản hoặc hồn tồn kiểm sốt một loại hình,
một phân đoạn kinh doanh, trên tồn lãnh thổ Canađa hay tại bất kỳ khu vực nào của
nó”. Tịa án Tư pháp Châu Âu trong Án lệ United Brands v Commission3 xác định
đó là vị trí của sức mạnh kinh tế mang lại cho doanh nghiệp thụ hưởng khả năng
ngăn cản hiệu quả cạnh tranh được duy trì trên thị trường liên quan và hành động
một cách độc lập gây ảnh hưởng đến các đối thủ cạnh tranh, khách hàng và cuối
cùng là người tiêu dùng. Ở Hoa Kỳ, thuật ngữ độc quyền hoặc vị trí độc quyền
(monopoly) được dùng chung để chỉ những thực thể kinh tế mà hành động của nó có

Nguyễn Như Phát, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Phân tích và luận giải các quy định của Luật Cạnh tranh về
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, Nhà xuất bản Tư pháp,
tr. 10
1

2

UNCTAD: Model Law on Competition, p.2

3

United Brands v Commission, Case 27/76 [1978] ECR 207, [1978] 1 CMLR 429

4


khả năng loại bỏ cạnh tranh trên thị trường. Nhìn chung, dù được tiếp cận với nhiều
góc độ khác nhau thì vị trí thống lĩnh thị trường cũng đều được nhìn nhận là vị trí của
sức mạnh kinh tế gần như tuyệt đối cho phép doanh nghiệp kiểm soát thị trường, đồng
thời gây ảnh hưởng đến các đối thủ cạnh tranh và thoát khỏi cạnh tranh thực chất.
Liên quan đến vị trí thống lĩnh thị trường, khơng thể khơng đề cập đến sức mạnh
thị trường (market power). UNCTAD định nghĩa: “quyền lực thị trường biểu thị khả
năng của một hoặc một nhóm các doanh nghiệp nâng giá hoăc duy trì mức giá cao
hơn mức phổ biến khi có cạnh tranh trong một khoảng thời gian nhất định”4. Bộ Tư
pháp và Uỷ ban Thương mại công bằng Mỹ đưa ra khái niệm tương tự: “quyền lực
thị trường là khả năng duy trì giá cả trên mức giá cạnh tranh trong một giai đoạn
đáng kể mà vẫn thu được lợi nhuận”5. Một doanh nghiệp thống lĩnh phải nắm giữ
sức mạnh thị trường đáng kể trong một khoảng thời gian nhất định thì mới có khả
năng chi phối thị trường. Thực tế, trong điều kiện cạnh tranh khơng hồn hảo, các
chủ thể ít nhiều đều có thể tác động đến giá cả sản phẩm. Tuy nhiên, để đạt đến mức

thao túng thị trường và chi phối giá cả thì sức mạnh kinh tế mà doanh nghiệp sở hữu
phải đủ lớn và tồn tại lâu dài. Hay nói cách khác, quyền lực thị trường phải được xem
xét ở mức độ có thể khuynh đảo cạnh tranh cùng với độ bền của nó. Bởi lẽ những tổn
thất mà xã hội gánh chịu phải tỷ lệ thuận với khả năng tồn tại quyền lực thị trường
của doanh nghiệp thống lĩnh mới là hợp lý. Trong tất cả các cuộc điều tra về hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vấn đề đầu tiên phải được xem xét đó là xác
định sức mạnh thị trường mà doanh nghiệp nắm giữ.
Lý luận về Cạnh tranh không chỉ thừa nhận vị trí thống lĩnh thị trường của một
doanh nghiệp mà còn nghiên cứu khả năng khống chế thị trường của nhóm các doanh
nghiệp cùng hành động. Luật mẫu về Cạnh tranh của UNCTAD đã đề cập đến trường
hợp nhóm các doanh nghiệp cùng hành động để có vị trí có thể kiểm sốt trên thị
trường liên quan đối với một hoặc một nhóm hàng hóa, dịch vụ nhất định.
Xem xét “cùng hành động” dưới góc độ là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường và trong thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có gì khác biệt? Điểm mấu chốt để
phân định giữa hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của nhóm các doanh
nghiệp và một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất ý chí để hành động tập
thể. Các doanh nghiệp có quyền lực thị trường hành động tương tự nhằm hạn chế
cạnh tranh trong cùng một khoảng thời gian nhưng khơng có thỏa thuận thì được xem

UNCTAD, tlđd (2), Box 8: Abuse dominant position and abuse of market power, p.55
Market power & Monopoly power: truy cập
ngày 10/5/2015
4
5

5


là nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Mặt khác, mục đích mà nhóm
các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hướng đến là một thị trường “độc quyền nhóm,

nơi mà hai hoặc nhiều doanh nghiệp kiểm soát phần lớn thị trường, tạo nên và tận
hưởng những điều kiện mà họ có thể kiểm sốt hoặc điều khiển thị trường như trong
trường hợp độc quyền6.
Dưới ảnh hưởng bởi sự vận động của thị trường và nỗ lực cạnh tranh lành mạnh,
doanh nghiệp/nhóm doanh nghiệp hồn tồn có thể đạt được vị thế chi phối và kiểm
soát thị trường liên quan. Đó là quyền lợi chính đáng mà pháp luật trao cho các chủ
thể kinh doanh, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên, việc lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh – tiêu biểu là việc loại bỏ các đối thủ
cạnh tranh nhằm độc chiếm thị trường là những hành vi cần thiết phải bị lên án và
xóa bỏ để đảm bảo một mơi trường cạnh tranh bình đẳng.
1.1.2. Căn cứ để xác định vị trí thống lĩnh thị trường
1.1.2.1.

Thị trường liên quan

Xác định thị trường liên quan là một trong những bước phân tích quan trọng để
kiểm tra và đánh giá khả năng gây hạn chế cạnh tranh của một doanh nghiệp. Trong
các cuộc điều tra về hành vi hạn chế cạnh tranh, nếu thị trường có quy mơ nhỏ và
doanh nghiệp có mức thị phần lớn thì có thể xác định nó có vị trí thống lĩnh. Nói cách
khác, thị trường liên quan là cơ sở để đánh giá sức mạnh thị trường của doanh nghiệp.
Thị trường liên quan, theo quan điểm của UNCTAD “là những điều kiện chung
nhất trong q trình trao đổi hàng hóa giữa người bán và người mua; nó ngụ ý về
những ranh giới xác định của nhóm người mua và người bán một loại hàng hóa cụ
thể và khơng có sự cạnh tranh từ các khu vực khác. Nó địi hỏi sự mô tả về sản phẩm
và khu vực địa lý với một nhóm hàng hóa và những người bán, người mua tương tác
với nhau để hình thành nên giá cả và đầu ra. Thị trường liên quan bao gồm tất cả
những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế nhau một cách hợp lý và những đối thủ cạnh
tranh kế cận mà người tiêu dùng có thể chuyển sang trong ngắn hạn nếu có sự hạn
chế hoặc tăng giá mang tính lạm dụng”7.
Như vậy, thị trường liên quan là một nhóm những hàng hóa, dịch vụ được các

doanh nghiệp sản xuất trong một khu vực nhất định. Nó được cấu thành từ hai thành
tố cơ bản: thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan.

6
7

UNCTAD, tlđd (2), p.37
UNCTAD, tlđd (2), p.4

6


Thị trường sản phẩm liên quan
Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể
thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả. Thực chất việc xác định
thị trường sản phẩm liên quan là xem xét tính hợp lý của khả năng thay thế và độ co
giãn của nhu cầu: Có hay khơng những sản phẩm tương tự về tính chất được người
tiêu dùng sẵn sàng lựa chọn thay thế khi có sự tăng giá sản phẩm trong một thời gian
nhất định. Tóm lại, những hàng hóa, dịch vụ sẽ được xem xét hai yếu tố sau để xác
định khả năng thay thế:
Tính chất của sản phẩm: bao gồm đặc tính và mục đích sử dụng. Hàng hóa, dịch
vụ được coi là có thể thay thế nhau về đặc tính nếu nó có nhiều tính chất hóa học, vật
lý, tính năng kỹ thuật, tác dụng phụ đối với người sử dụng giống nhau. Việc xem xét
này đòi hỏi phải phân tích các yếu tố vật chất cấu thành nên sản phẩm để tìm ra những
đặc trưng lý hóa giống hệt hoặc tương đồng giữa các sản phẩm. Tương tự đối với mục
đích sử dụng, phải chứng minh được rằng mục đích sử dụng của các hàng hóa, dịch
vụ thay thế là hoàn toàn giống nhau. Việc xem xét này phải dựa trên quan điểm của
người tiêu dùng – là chủ thể trực tiếp sử dụng các sản phẩm. Bản chất của việc xem
xét tính chất của các hàng hóa thay thế là “nhằm mục đích tìm kiếm sự tương tự nhau
giữa các sản phẩm khác nhau, từ đó để đáp ứng cho chúng đều có cùng một nhu cầu

sử dụng”8.
Xác định phản ứng của người tiêu dùng khi có sự thay đổi về giá cả của hàng
hóa, dịch vụ: thực tế là xác định độ co giãn của nhu cầu thơng qua việc phân tích thái
độ của người tiêu dùng khi có một giả định tăng giá đối với các sản phẩm đang đặt
trong nghi vấn về khả năng thay thế. Xác định khả năng thay thế về giá của sản phẩm
cũng đóng vai trị hết sức quan trọng vì những sản phẩm dù có nhiều đặc tính, công
dụng giống nhau nhưng giá cả chênh lệch quá lớn thì cũng khơng thể xem là có thể
thay thế. Điều kiện đặt ra cho phép kiểm tra này là các hàng hóa, dịch vụ đã có sự
tương đồng về các đặc tính lý hóa và được người tiêu dùng thừa nhận là có chungmột
mục đích sử dụng. Trong trường hợp khách hàng cho thấy thái độ sẵn sàng đổi hướng
tiêu dùng khi có một sự thay đổi về giá thì kết hợp với sự tương đồng về tính chất,
kết luận cuối cùng là các sản phẩm này thuộc cùng một thị trường sản phẩm liên quan.

Nguyễn Ngọc Sơn (2005), “Xác định thị trường liên quan theo Luật Cạnh tranh năm 2004”, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, 11(63)/2005, tr.27
8

7


Thị trường địa lý liên quan
Thị trường địa lý liên quan là một trong hai vấn đề mấu chốt cần được làm rõ
khi xác định thị trường liên quan. Thị trường địa lý liên quan được hiểu là một khu
vực nơi bán những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau. Nó được giới hạn
trong phạm vi một tỉnh – thành phố hoặc một khu vực gồm nhiều tỉnh, thành phố kết
hợp.
Tương tự thị trường sản phẩm liên quan, phương pháp xác định thị trường địa
lý liên quan cũng dựa vào nhu cầu của người tiêu dùng. Nó bao gồm những cơ sở sản
xuất, các đia điểm phân phối hàng hóa, cung ứng dịch vụ mà khách hàng thường
xuyên mua sắm những sản phẩm có khả năng thay thế. Câu hỏi đặt ra là liệu khách

hàng mua lẻ của doanh nghiệp có chuyển sang mua hàng của các cửa hàng bán lẻ
khác trong khu vực nếu như giá bán lẻ được tăng q 5% hay khơng9. Ngồi ra, một
khu vực được xác định là thị trường địa lý liên quan cũng cần có sự tương đối phù
hợp với nhau về các yếu tố như chính sách pháp luật, chi phí vận chuyển hàng hóa
trong khu vực, sở thích của người tiêu dùng v.v…
Thị trường liên quan suy cho đến cùng được giới hạn trong phạm vi một khoảng
không gian nhất định, nơi kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ có khả năng thay thế lẫn
nhau. “Xác định thị trường liên quan là một giai đoạn rất quan trọng trong các cuộc
điều tra về hành vi lạm dụng. Bởi lẽ, thị phần chỉ được tính tốn khi những ranh giới
của thị trường đã được xác định”10.
1.1.2.2.

Thị phần

Cùng với thị trường liên quan, thị phần là một yếu tố quan trọng trong việc xác
định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. “Thị phần của một doanh nghiệp
đối với một hàng hóa, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của
doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại
hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số
mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh
nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng,
quý, năm”11. Thị phần của doanh nghiệp phản ánh khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thị trường liên quan. Một doanh nghiệp chiếm phần lớn thị phần sẽ là nhà
9

UNCTAD, tlđd (2), p.9

David Harbord và Georg von Gravenitz, Định nghĩa thị trường trong các vụ điều tra cạnh tranh trong
thương mại, Tài liệu hội thảo, Hà Nội, 2004 – Theo Nguyễn Ngọc Sơn, tlđd (8), tr.26
10


11

Khoản 5 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004

8


cung ứng/người mua chủ yếu trên thị trường. Nhờ đó, doanh nghiệp hồn tồn có khả
năng tác động vào giá cả, kiểm soát sản lượng sản xuất trên thị trường đó. Hay nói
cách khác, doanh nghiệp sở hữu thị phần lớn sẽ có sức mạnh thị trường đáng kể.
Pháp luật Cạnh tranh của hầu hết các nước đều sử dụng thị phần làm căn cứ chủ
yếu để xác định quyền lực thị trường của doanh nghiệp. Mức thị phần đó là bao nhiêu
tùy thuộc vào quan điểm lập pháp của các quốc gia. Luật Hà Lan quy định: “Doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường khi có thị phần vượt quá 40%; Luật Mông Cổ
và Ukraine xác định mức 50% thị phần trở lên là cơ sở để xác định doanh nghiệp
hoặc nhóm doanh nghiệp cùng hành động có vị trí thống lĩnh thị trường”12…
1.1.3. Vai trị của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường với cạnh tranh
Việc nắm giữ phần lớn cung/cầu trên thị trường liên quan đem lại cho doanh
nghiệp thống lĩnh vai trò quan trọng đối với cạnh tranh. Trong một chừng mực nhất
định, doanh nghiệp thống lĩnh thị trường có khả năng điều tiết cạnh tranh trên thị
trường liên quan theo năng lực và nhu cầu của mình. Đó được xem là hệ quả của việc
nắm giữ mức thị phần lớn. Theo hướng tích cực, doanh nghiệp thống lĩnh thị trường
là người phát động những cuộc chạy đua thu hút khách hàng buộc các doanh nghiệp
khác phải tìm ra phương án kinh doanh hiệu quả nhất, cung cấp ra thị trường những
sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành thấp, mẫu mã hiện đại. Trong trường hợp này,
người tiêu dùng là người được hưởng lợi khi có cơ hội tiếp cận với những hàng hóa
giá rẻ và có chất lượng.
Tuy nhiên, thực tế đã ghi nhận những trường hợp doanh nghiệp thống lĩnh lạm
dụng khả năng chi phối giá cả trên thị trường liên quan để loại bỏ các doanh nghiệp

đối thủ, hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Đó là những hành động như cắt giảm giá
thành để đẩy các doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường, duy trì và tạo dựng các rào
cản tư nhằm ngăn cản sự gia nhập mới, bán giá cao để bóc lột khách hàng… Trong
trường hợp này, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường đã làm giảm, sai lệch và
cản trở cạnh tranh – động lực và nền tảng của sự phát triển kinh tế.
1.2.

Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh tranh

1.2.1. Khuynh hướng lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
Như đã đề cập, vị trí thống lĩnh thị trường khơng là đối tượng bị lên án nếu nó
là kết quả của những nỗ lực cạnh tranh lành mạnh. Đối tượng mà Pháp luật Cạnh
tranh hướng tới là sự lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, gây nguy hại cho mơi
12

UNCTAD, tlđd (2), p.48

9


trường cạnh tranh và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Phân tích cơ chế định
giá của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường so với các doanh nghiệp bình
thường sẽ làm rõ được khuynh hướng lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nhằm thu
lợi bất chính của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh; trên cơ sở đó lý giải được bản chất
của chiến lược loại bỏ đối thủ cạnh tranh mà doanh nghiệp thống lĩnh thị trường sử
dụng để duy trì và củng cố vị thế của mình trên thị trường liên quan.
1.2.1.1.

Cơ chế định giá của doanh nghiệp


Kinh tế học đã chứng minh rằng, cơ chế định giá của một doanh nghiệp luôn
chịu sự tác động của hai yếu tố: quy luật cung – cầu và chiến lược giá của doanh
nghiệp.
Quy luật cung – cầu
“Cầu về một loại hàng hóa biểu thị những khối lượng hàng hóa mà người tiêu
dùng mong muốn và sẵn sàng mua tương ứng với các mức giá xác định”13. Như vậy,
với từng mức giá cụ thể sẽ có một lượng hàng hóa mà người tiêu dùng quyết định
mua. Cầu thực chất là mối quan hệ giữa các mức giá và lượng hàng hóa mà người
tiêu dùng mong muốn và có khả năng chi trả. Kinh tế học gọi lượng hàng hóa mà
người tiêu dùng sẵn lịng mua ở một mức giá nhất định là lượng cầu hay mức cầu về
hàng hóa. Người ta dùng biểu đồ sau để mô tả vể mối quan hệ giữa giá cả và lượng
cầu:

Hình 1: Đường cầu về một loại hàng hóa
Tại mức giá P1 lượng cầu là Q1
mức giá P2 lượng cầu là Q2
13

Đại học Kinh tế Quốc dân (2009), Giáo trình Kinh tế vi mô, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.51

10


Gỉa sử các điều kiện là khơng thay đổi. Hình trên cho ta thấy đường cầu D là
một đường thẳng dốc xuống, biểu thị sự phụ thuộc của lượng cầu Q vào mức giá P:
khi mức giá P giảm từ P1 xuống P2 thì lượng cầu sẽ tăng từ Q1 lên Q2. Nói cách
khác, lượng cầu về một hàng hóa sẽ tăng khi mức giá của nó giảm xuống và ngược
lại. Quy luật này được lý giải trên cơ sở Cầu là một đại lượng cho khả năng của người
tiêu dùng. Khi giá cả hàng hóa giảm xuống, một cách tương đối giá cả của hàng hóa
đó sẽ giảm so với các hàng hóa khác nên nhu cầu sử dụng hàng hóa đó để thay thế sẽ

tăng lên (hiệu ứng thay thế). Mặt khác, giá của hàng hóa giảm nhưng thu nhập của
người tiêu dùng không thay đổi nên thu nhập của người tiêu dùng được xác định là
tăng so với giá hàng hóa đó, vì vậy mức tiêu thụ hàng hóa đó nhiều hơn (hiệu ứng thu
nhập). Ngược lại, khi giá của hàng hóa tăng lên, sẽ là tăng so với thu nhập của người
tiêu dùng và tăng so với các hàng hóa tương tự khác, xu hướng chung là lượng cầu
của nó sẽ giảm, người tiêu dùng sẽ tìm đến các sản phẩm thay thế.
“Cung về một loại hàng hóa cho ta biết số lượng hàng hóa mà nhà sản xuất sẵn
sàng cung cấp và bán ra tương ứng với các mức giá khác nhau”14. Gắn với từng mức
giá xác định là một lượng hàng hóa mà người bán sẵn lịng cung cấp – kinh tế học
gọi đó là lượng cung hay mức cung hàng hóa. Thực chất, Cung biểu thị cho mối quan
hệ giữa lượng cung và các mức giá cụ thể. Tương tự như Cầu, người ta cũng dùng
biểu đồ để biểu thị mối quan hệ giữa hai đại lượng này:

Hình 2: Đường cung về một loại hàng hóa
Với mức giá P1 lượng cung là Q1
mức giá P2 lượng cung là Q2

14

Đại học Kinh tế Quốc dân (2009), tlđd (13), tr. 55

11


Gỉa sử các điều kiện khác được giữ nguyên. Lượng cung về một hàng hóa sẽ
tăng lên khi mức giá của nó tăng lên và ngược lại. Đường cung S là một đường dốc
lên phản ánh sự tăng của lượng cung Q1 lên Q2 tương ứng với mức giá P1 tăng lên
P2. Trên phương diện của nhà sản xuất, mục tiêu cuối cùng là thu lợi nhuận. Khi mức
giá tăng, lợi nhuận của người bán cũng tăng theo và vì thế họ sẽ cung ứng ra thị
trường nhiều sản phẩm hơn. Mặt khác, lợi nhuận cao sẽ thu hút các nhà đầu tư mới

gia nhập thị trường mà ta đang đề cập. Ngược lại, nếu giá cả thấp, lợi nhuận ít thì các
nhà sản xuất sẽ có xu hướng giảm sản lượng cung ứng.
Khái quát từ hai quy luật nói trên, ta đi đến kết luận rằng: xu hướng vận động
của người mua và người bán, giữa cung và cầu trên thị trường là trái ngược nhau. Với
người mua, giá rẻ sẽ mua nhiều, nếu mức giá quá cao sẽ giảm mức hàng hóa mà mình
muốn mua. Ngược lại, người bán có khuynh hướng tăng sản lượng cung ứng khi giá
cao nhằm thu được nhiều lợi nhuận; khi giá thấp sẽ giảm sản lượng. Sự tương tác
giữa hai lực lượng này làm cho thị trường vận động về trạng thái cân bằng, nơi tổng
lượng cung mà nhà sản xuất bán ra bằng tổng lượng cầu của người tiêu dùng. Chính
ở đó, hình thành nên mức giá thị trường.

Hình 3: Cân bằng cung – cầu trên thị trường
Trên một thị trường có tính cạnh tranh, có nhiều người mua, nhiều người bán,
đồng thời khơng có sự can thiệp của nhà nước, giá cả thị trường sẽ có xu hướng hội
tụ về mức cân bằng – mức giá mà tại đó, lương cầu bằng chính lượng cung15.

15

Đại học Kinh tế Quốc dân (2009), tlđd (13), tr. 59

12


Chiến lược giá của doanh nghiệp
Cơ chế định giá của doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng của quy luật cung
– cầu mà còn phụ thuộc vào chiến lược giá của doanh nghiệp trong mỗi thời kỳ nhất
định. Nếu cung – cầu là các yếu tố thuộc về thị trường thì chiến lược giá lại hình
thành trên ý chí chủ quan của doanh nghiệp, trên cơ sở đánh giá chi phí sản xuất và
tương quan cạnh tranh trên thị trường.
Chi phí sản xuất

Tổng chi phí (Total Cost – TC) để sản xuất một khối lượng hàng hóa nhất định
là tồn bộ chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra hay gánh chịu khi sản xuất một số
lượng hàng hóa, trong một điều kiện kỹ thuật hay công nghệ nhất định16. Khoản chi
phí này thơng thường sẽ bao gồm:
1. Ngun liệu, nhiên liệu
2. Chi trả cho người lao động và các phúc lợi khác
3. Chi phí vận chuyển
4. Tiền mua máy móc, thiết bị
5. Chi phí nhà xưởng
6. …
Tùy thuộc vào khối lượng hàng hóa muốn sản xuất, doanh nghiệp phải đầu tư
mức chi phí cho ngun vật liệu, tiền cơng cho người lao động…tương ứng. Kinh tế
học gọi những khoản phí thay đổi theo sản lượng là chi phí biến đổi (Variable Cost –
VC). Sản lượng càng lớn, VC càng cao và ngược lại. Trong khi đó, đầu tư của doanh
nghiệp vào mặt bằng, nhà xưởng sản xuất, máy móc thiết bị lại là những chi phí khơng
thay đổi theo sự biến động của sản lượng – chúng được gọi chung là chi phí cố định
(Fixed Cost – FC).
Trong ngắn hạn, tổng chi phí sản xuất sẽ bằng chi phí biến đổi cộng với chi phí
cố định:
TC = VC + FC
Trên thực tế khi đề cập đến chi phí sản xuất, người ta ln nói đến mức chi phí
trung bình để tạo ra một đơn vị sản phẩm cụ thể. Kinh tế học gọi đây là chi phí bình
qn (Average Total Cost). Chi phí bình qn bao gồm chi phí cố định bình qn và
chi phí khả biến bình qn hay:

16

Đại học Kinh tế Quốc dân (2009), tlđd (13), tr.139

13



ATC = AFC + AVC
Tương quan cạnh tranh trên thị trường
Tương quan cạnh tranh trên thị trường là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến
chiến lược giá của doanh nghiệp. Nó phản ánh mức độ cạnh tranh và giúp doanh
nghiệp nhận định được vị trí của mình trong cuộc ganh đua với các đối thủ khác.
Chính vì vậy, chiến lược giá của mọi doanh nghiệp luôn và phải dựa trên sự phân
tích, đánh giá kỹ lưỡng tương quan cạnh tranh trên thị trường.
Trên thị trường thiếu vắng cạnh tranh, mức giá mà doanh nghiệp đưa ra sẽ bao
gồm chi phí và một khoản lợi nhuận thích hợp. Ngược lại, trong điều kiện cạnh tranh
gay gắt, chiến lược giá của doanh nghiệp phải vừa đảm bảo lợi nhuận vừa duy trì
được vị trí của mình trên thị trường liên quan. Doanh nghiệp sẽ phải cân nhắc một
mức giá cạnh tranh được với các đối thủ mà vẫn đảm bảo bù đắp được chi phí sản
xuất và có lời. Có thể nói, tương quan về cạnh tranh trên thị trường là xuất phát điểm
cho những chiến lược giá mà doanh nghiệp xây dựng và thực thi trên thực tế. Xu
hướng chung của doanh nghiệp khi phải đối mặt với cạnh tranh là bán hàng giá thấp,
chấp nhận một mức lợi nhuận ít hơn để bán được sản phẩm. Tuy nhiên, sẽ có sự khác
biệt giữa hành vi hạ giá của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường và các doanh
nghiệp bình thường. Tùy vào mong muốn của doanh nghiệp về tương quan cạnh tranh
sau khi thực hiện hành vi mà mức giá chỉ dừng lại ở việc gây khó khăn cho đối thủ
hay thậm chí là loại bỏ đối thủ ra khỏi thị trường17.
1.2.1.2.

Bản chất lạm dụng trong hành vi loại bỏ đối thủ cạnh tranh của doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường

Sự phân tích ở trên cho thấy dưới sức ép của cạnh tranh, doanh nghiệp muốn
tồn tại phải định giá sát với mức cân bằng – là kết quả tương tác giữa tất cả những
người bán và người mua trên thị trường. Trường hợp doanh nghiệp tăng giá quá cao,

người tiêu dùng sẽ chuyển sang mua của những nhà cung ứng khác với mức giá thấp
hơn. Hay nói cách khác, trong điều kiện cạnh tranh, “một đường cầu nằm ngang có
tính co giãn hồn hảo, doanh nghiệp có thể bán tất cả hàng hóa mình muốn với giá
thị trường, nhưng nếu nó nâng giá lên cao hơn giá thị trường thì doanh thu sẽ rớt
xuống mức số khơng”18.

Phạm Hồi Huấn, Nhữ Ngọc Tiến (2013), Pháp luật chống lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để
hạn chế cạnh tranh về giá, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr.35
18
E. Thomas Sullivan, Jeffrey L.Harrison (2003), Antitrust Economic, Understanding antitrust and its
economic implications, chapter 2
17

14


Cơ chế định giá của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường có sự khác biệt cơ bản
với các doanh nghiệp bình thường. Dưới góc độ kinh tế, khi doanh nghiệp sản xuất
và bán thêm được một đơn vị sản phẩm đầu ra sẽ làm tăng doanh thu, phần tăng lên
này được gọi là doanh thu biên. Gỉa sử khi bán một lơ hàng gồm 10 sản phẩm, doanh
nghiệp có thể đặt giá là 10 USD/sản phẩm. Tổng doanh thu của lơ hàng này là 10
USD/sản phẩm × 10 sản phẩm = 100 USD. Trong trường hợp sản xuất thêm một sản
phẩm nữa, doanh nghiệp phải đặt giá thấp hơn để đảm bảo sẽ bán hết hàng, cụ thể là
9,5 USD/sản phẩm. Khi đó, tổng doanh thu sẽ là 9,5 USD/sản phẩm × 11 sản phẩm
= 104,5 USD. Như vậy, doanh thu biên của sản phẩm thứ 11 sẽ là 4,5 USD. Có thể
thấy, doanh nghiệp phải hạ giá trong trường hợp muốn tăng sản lượng bán ra vì bản
chất của đường cung là một đường dốc xuống. Qúa một ngưỡng nhất định, khi chi
phí biên tăng cùng với đà tăng của sản lượng thì tương ứng doanh thu biên cũng sẽ
giảm xuống19. Do đó, doanh nghiệp muốn thu được lợi nhuận cao nhất phải tính tốn
mức sản lượng đảm bảo rằng doanh thu biên vẫn tăng.

Để xác định chắc chắn mức sản lượng làm tối đa hóa lợi nhuận của mình, doanh
nghiệp thống lĩnh thị trường áp dụng nguyên tắc doanh thu biên bằng chi phí biên20.
Với mỗi sản phẩm bán ra, mức gia tăng trong tổng doanh thu từ việc bán một đơn vị
hàng hóa lớn hơn mức gia tăng tổng chi phí sản xuất để sản xuất ra đơn vị hàng hóa
đó. Trong điều kiện thiếu vắng cạnh tranh, doanh nghiệp thống lĩnh thị trường hồn
tồn có thể ấn định một mức giá phù hợp với sản lượng làm tối đa lợi nhuận. Bởi lẽ,
người tiêu dùng bắt buộc phải mua hàng của doanh nghiệp thống lĩnh, ngay cả khi
mức giá đó cao hơn so với giá thị trường vì những nhà cung ứng khác khơng đáp ứng
đủ nhu cầu. Bằng việc nắm giữ phần lớn thị phần trên thị trường liên quan, doanh
nghiệp thống lĩnh thị trường đã đặt người tiêu dùng vào thế khơng cịn sự lựa chọn
nào khác là phải chấp nhận giá mà nó đưa ra, cho dù đó là mức cao khơng hợp lý. Dễ
thấy mức lợi nhuận mà doanh nghiệp thống lĩnh thị trường thu được sẽ lớn hơn rất
nhiều so với những doanh nghiệp bình thường trong điều kiện cạnh tranh hồn hảo.
Tuy nhiên, đó là nguồn lợi bất chính, khơng phải là kết quả của những nỗ lực kinh
doanh hợp pháp như cải tiến công nghệ, nâng cao năng suất lao động mà thơng qua
việc lợi dụng tình trạng lệ thuộc của khách hàng để áp đặt các điều kiện thương mại
khơng chính đáng. Trong kinh doanh, lợi nhuận ln là đích đến cuối cùng. Nhưng
việc thu lợi từ khả năng khống chế các yếu tố của thị trường như nguồn cung, vật
liệu, giá cả … là những hành động mang đậm tính bóc lột, đi ngược lại với cạnh tranh,
gây nguy hại nghiêm trọng cho sự vận động và phát triển của kinh tế thị trường. Đó
19
20

Đại học Kinh tế Quốc dân (2009), tlđd (13), tr.161
Phạm Hoài Huấn, Nhữ Ngọc Tiến (2013), tlđd (17), tr.38

15


là những hành vi không bao giờ được thừa nhận và cần thiết phải được xóa bỏ để bảo

vệ mơi trường cạnh tranh lành mạnh.
Những lợi ích to lớn mà vị trí thống lĩnh thị trường đem lại khiến doanh nghiệp
thống lĩnh ln có ý thức củng cố và duy trì vị thế của mình trên thị trường liên quan
trước những đối thủ đang hiện hữu cũng như những doanh nghiệp có ý định gia nhập
thị trường. Khoản lợi nhuận siêu ngạch từ việc bán hàng giá cao không chỉ khiến các
doanh nghiệp khác nâng mức sản lượng mà còn thôi thúc sự tham gia thị trường của
những đối thủ cạnh tranh mới. Nếu khơng có những chiến lược loại bỏ và/hoặc ngăn
cản gia nhập, khi mức độ tập trung cao của thị trường khơng cịn, doanh nghiệp thống
lĩnh sẽ phải đối mặt với cạnh tranh và không thể áp dụng các điều kiện thương mại
mang tính bóc lột để thu lợi bất chính từ khách hàng được nữa. Một cách khái quát,
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh tranh có những
đặc trưng sau:
1. Đối tượng bị tác động bởi hành vi là các đối thủ cạnh tranh của doanh
nghiệp. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh tranh
hướng tới những doanh nghiệp cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh, nhằm mục đích loại bỏ hoạt động kinh doanh của họ, từ đó duy trì và củng cố
thế chủ đạo của mình trên thị trường liên quan. Doanh nghiệp bị loại bỏ thường có
tiềm lực tài chính, cơng nghệ…yếu kém, chi phí sản xuất cao nên khơng thể tiếp tục
sản xuất trước thủ đoạn hạ giá, tẩy chay của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường.
2. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh tranh
có thể khơng mang lại lợi ích trực tiếp cho doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường. Thật vậy, cấu thành của một hành vi hủy diệt ln địi hỏi hai yếu tố: (1) sự
hi sinh những lợi ích ngắn hạn trong hiện tại và (2) khả năng bù đắp trong tương lai.
Khi thực hiện chiến lược loại bỏ, doanh nghiệp thống lĩnh thị trường cũng phải gánh
chịu những thiệt hại nhất định – chẳng hạn kinh doanh khơng có lời vì hành vi định
giá thấp hơn chi phí. Song, doanh nghiệp xem đó là một khoản đầu tư cho việc thu
lợi nhuận độc quyền dài hạn sau này. Một chiến lược loại bỏ với động lực duy trì,
củng cố thế chủ đạo trên thị trường, thậm chí là để vươn đến vị trí độc quyền địi hỏi
sự hi sinh trong ngắn hạn với hứa hẹn về mức lợi nhuận siêu ngạch trong tương lai
sau khi cấu trúc thị trường được tái thiết. Trong khoảng thời gian chiến lược được

thực hiện, người tiêu dùng chính là chủ thể hưởng lợi duy nhất khi có cơ hội mua
hàng hóa, được cung ứng dịch vụ với giá rẻ. Nhưng sau khi việc loại bỏ đã thành
công, doanh nghiệp quay trở lại bóc lột những giá trị thặng dư mà người tiêu dùng
đáng ra được hưởng để bù đắp những mất mát mà nó đã hi sinh trước đó.
16


1.2.2. Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh tranh
Một chiến lược loại bỏ đối thủ cạnh tranh cần có những điều kiện tiền đề sau:
1. Đối tượng của chiến lược loại bỏ đối thủ cạnh tranh phải là những doanh
nghiệp có năng lực yếu hoặc chi phí sản xuất cao. Do đó, họ rất nhạy cảm
với những tác động tiêu cực của cạnh tranh và dễ dàng bị doanh nghiệp
thống lĩnh thị trường thao túng. Nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng,
một hành động hủy diệt có thể là bất khả thi nếu những nạn nhân của nó
dựa vào tiềm lực tài chính để thốt khỏi cắt giảm giá21.
2. Cấu trúc thị trường sau khi thực hiện chiến lược loại bỏ phải được tái thiết
theo hướng mà doanh nghiệp thống lĩnh thị trường đã dự trù trước. Bằng
việc hủy diệt các đối thủ cạnh tranh, thị phần của doanh nghiệp sẽ tăng lên
và sức mạnh thị trường cũng theo đó mà trở nên lớn mạnh, một thị trường
có tính tập trung cao độ sẽ dễ bị chi phối hơn.
3. Lợi nhuận độc quyền khi thị trường được tái cấu trúc phải lớn hơn những
lợi ích hiện tại mà doanh nghiệp đã hi sinh để thực hiện chiến lược loại
bỏ. Như đã trình bày, doanh nghiệp thống lĩnh thị trường thực hiện chiến
lược loại bỏ các đối thủ cạnh tranh với mong muốn sẽ thu được lợi nhuận
độc quyền trong tương lai. Mức lợi nhuận ấy, phải cao hơn rất nhiều so với
những gì họ đã mất đi thì chiến lược loại bỏ mới có ý nghĩa.
Một cách khái quát, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để loại bỏ đối thủ cạnh
tranh luôn là sự kết hợp chặt chẽ hai chiến lược:
-


Chiến lược giá

-

Tạo nên các rào càn tư để duy trì sức mạnh thị trường

1.2.2.1.

Hành vi định giá hủy diệt (Predatory Pricing)

Dạng phổ biến của chiến lược loại bỏ đối thủ cạnh tranh là định giá hủy diệt.
Luật Mẫu về Cạnh tranh của UNCTAD xác định “hành động nhằm hủy diệt đối thủ
cạnh tranh, chẳng hạn định giá dưới mức chi phí sản xuất để buộc các doanh nghiệp
đối thủ phải rời khỏi thị trường là hành vi nhằm duy trì và củng cố vị trí thống lĩnh
thị trường”22. Cùng quan điểm này, OECD cho rằng “định giá hủy diệt là hành vi
của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, áp đặt mức giá thấp đủ để buộc các
đối thủ cạnh tranh phải rời bỏ thị trường và/hoặc ngăn cản sự gia nhập của các đối

21
22

OECD, Predatory Pricing, p.7
UNCTAD, tlđd (2), p.39

17


thủ cạnh tranh mới”23. Đối với Hoa Kỳ, hành vi nhằm duy trì và củng cố thế độc
quyền vi phạm Điều 2 Luật Sherman đòi hỏi ba yếu tố: “(1) hành động hạn chế cạnh
tranh,; (2) mục tiêu nhằm kiểm soát giá cả và hủy diệt đối thủ và (3) hậu quả nguy

hiểm chắc chắn xảy ra nếu hành vi thành cơng”24. Tóm lại, định giá hủy diệt được
xác định là hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường định giá ở mức
thấp, nhằm mục đích loại bỏ đối thủ cạnh tranh khỏi thị trường liên quan. Những tổn
thất từ việc hạ giá sẽ được bù đắp trong tương lai, khi cấu trúc thị trường được tái
thiết theo mong muốn của doanh nghiệp.
Có hai vấn đề cần phân tích khi có nghi vấn về một chiến lược giá nhằm loại bỏ
đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường: (1) mức giá mang tính hủy
diệt và (2) khả năng bù đắp những thiệt hại trong tương lai.
Xác định mức giá mang tính hủy diệt
Khi xem xét nghi vấn định giá hủy diệt, người ta làm phép so sánh giữa giá bán
của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường với chi phí sản xuất. Khái niệm cơ
bản của hầu hết các quốc gia và tổ chức kinh tế về định giá hủy diệt là hành vi định
giá thấp hơn chi phí. Dưới góc độ kinh tế, chi phí sản xuất một đơn vị sản lượng hay
tổng chi phí (ATC) được cấu thành từ chi phí cố định bình qn (AFC) và chi phí khả
biến bình qn (AVC). Ngồi ra, phần chi phí tăng lên nếu doanh nghiệp sản xuất
thêm một đơn vị sản lượng được gọi là chi phí biên (Marginal Cost – MC). Vấn đề
đặt ra là mức chuẩn chi phí nào trong các loại trên là ranh giới giữa mức giá cạnh
tranh và giá hủy diệt là hợp lý.
Hoa Kỳ sử dụng chi phí khả biến bình qn làm mức chuẩn chi phí để xác định
định giá hủy diệt. Trong vụ việc Brook Group25, phán quyết của Tòa án Tối cao Hoa
Kỳ đòi hỏi một trong hai điều kiện tiên quyết để có hành vi định giá hủy diệt là “mức
giá bị khiếu nại phải thấp hơn một mức chuẩn hợp lý về chi phí trong ngắn hạn của
bị đơn”. Phán quyết này được đưa ra trên cơ sở phép kiểm tra Gía và Chi phí do hai
giáo sư Areeda và Turner đề xuất. Cụ thể, “một mức giá thấp hơn chi phí khả biến
bình qn là giá hủy diệt, cịn mức giá cao hơn chi phí khả biến bình qn đó thì
khơng phải là giá hủy diệt”26. Cùng quan điểm với Hoa Kỳ, EU cũng sử dụng chi phí
khả biến bình quân làm ranh giới giữa giá cạnh tranh và giá hủy diệt. Trong vụ Azko

OECD, tlđd (21), p.8
OECD, tlđd (21), p.41

25
Brook Group Ltd. v. Brown & Williamson Tobacco Corp., 509 U.S. (1993)
26
Areeda Phillip & Turner, Donald, Predatory Pricing and Related Practices Under Section 2 of Sherman Act,
(1975) 88 Harv. LR 697
23
24

18


v. Commission27, Tịa án Tư pháp EU giải thích cho việc sử dụng chi phí khả biến
bình qn: “một doanh nghiệp thống lĩnh thị trường khơng được lợi ích gì khi áp dụng
mức giá đó ngoại trừ việc tiêu diệt đối thủ cạnh tranh để có thể sau đó tăng giá khai
thác lợi thế của vị trí độc quyền”. Tuy nhiên cũng theo EU, một mức giá cao hơn chi
phí khả biến bình qn nhưng thấp hơn giá thành tồn bộ vẫn có thể bị xem là định
giá hủy diệt nhưng địi hỏi thêm các chứng cứ về mục đích hủy diệt đối thủ28. Phán
quyết của Tòa án Tối cao EU trong vụ Tetra Pak29 khẳng định rằng “một mức giá
thấp hơn giá thành toàn bộ nhưng cao hơn chi phí khả biến bình qn phải bị xem là
định giá lạm dụng nếu xác định được đó là một phần của kế hoạch tiêu diệt đối thủ.
Mức giá đó có thể đẩy ra khỏi thị trường những doanh nghiệp có hiệu quả kinh tế
tương đương doanh nghiệp thống lĩnh nhưng vì nguồn lực tài chính nhỏ hơn nên
khơng thể chống cự lại một cuộc cắt giảm giá nhằm chống lại họ”. Như vậy, hầu hết
các quan điểm đều thống nhất rằng nếu mức giá bán bị khiếu nại của doanh nghiệp
có quyền lực thị trường thấp hơn chi phí biến đổi bình qn thì hành vi đó được xem
là định giá hủy diệt. Dưới góc độ kinh tế, việc sử dụng chi phí khả biến bình qn
làm mức chuẩn là hợp lý, bởi lẽ chi phí biến đổi bình qn là mức chi phí thực tế thấp
nhất mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất hàng hóa. Với mức giá thấp hơn so với
chi phí khả biến bình qn, rõ ràng là doanh nghiệp không thể thu được lợi nhuận và
sẽ là hợp lý khi lý giải cho hành động này bằng một âm mưu loại bỏ đối thủ nhằm

độc chiếm thị trường liên quan.
Trong thực tế, việc doanh nghiệp định giá thấp để tăng doanh số bán hàng, tiêu
thụ sản phẩm tồn kho, vì tính tốn sai sản lượng là không hiếm thấy. Pháp luật cạnh
tranh của các quốc gia đều thừa nhận một mức giá thấp gây lỗ nhưng có lý do chính
đáng là một hành động khơng vi phạm luật Cạnh tranh. Như Tịa án Tối cao Hoa Kỳ
nhấn mạnh rằng “cần thiết phải phân biệt hành vi giảm giá cạnh tranh và hành vi
định giá hủy diệt bởi vì hành vi giảm giá nhằm tăng doanh số bán hàng là một hành
vi có tác động thúc đẩy cạnh tranh”30. Ở nhiều nước, người ta thậm chí cịn cho rằng
một mức giá chỉ bị xem là định giá hủy diệt khi nó thấp hơn chi phí biên. Bởi lẽ, mức
giá này sẽ khiến doanh nghiệp chịu lỗ khi bán thêm một đơn vị sản phẩm. Chi phí
biên theo kinh tế học tương đương với giá trị tài sản cố định (FC) mà doanh nghiệp
27

EU Law – text, Case & Material – third Edition – Paul Craig, Grainee de Burca – Oxford – Case C – 62/86,

Azko Chemie, BV v. Commission (1991) ECRI 3359
Trần Hoàng Nga (2011), Pháp luật chống định giá lạm dụng theo Pháp luật EU, Hoa Kỳ, Việt Nam – So
sánh và áp dụng kinh nghiệm thực tiễn cho Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật Học, tr.99
29
Tetra Pak SA v Commission (1996) C-333/94P
30
UNCTAD, tlđd (2), p.14
28

19


×