Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam trên địa bàn các tỉnh miền đông nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.63 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN HÙNG

HOẠT ĐỘNG TÁI HỊA NHẬP CỘNG ĐỒNG
TẠI TRẠI GIAM TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH
MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN HÙNG

HOẠT ĐỘNG TÁI HỊA NHẬP CỘNG ĐỒNG
TẠI TRẠI GIAM TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH
MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hình sự - Mã số: 60.38.40

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Quang Vinh

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại
Trại giam trên địa bàn các tỉnh miền Đơng Nam bộ” là cơng trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả sử dụng trong Luận văn là hồn tồn
trung thực và có căn cứ.
Tác giả Luận văn

Nguyễn Văn Hùng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1- BLHS: Bộ luật hình sự.
2- BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
3- BLTHAHS: Bộ luật thi hành án hình sự
4- PLTHAPT: Pháp lệnh thi hành án phạt tù
5- TAND: Tòa án nhân dân
6- VKSND: Viện kiểm sát nhân dân.


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÁI HÒA NHẬP CỘNG
ĐỒNG TẠI TRẠI GIAM .................................................................................................... 6
1.1 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại trại
giam ....................................................................................................................................... 6
1.1.1 Khái niệm hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam ......................................... 6
1.1.2 Các đặc điểm của tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam ............................................. 9
1.1.3 Ý nghĩa của tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam .................................................... 12
1.2 Lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật về hoạt động chuẩn

bị tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam ........................................................................... 15
1.2.1 Chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về công tác tái hòa nhập cộng
đồng tại trại giam ................................................................................................................ 15
1.2.1.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988 .................................................................... 17
1.2.1.2 Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003 .................................................................... 18
1.2.1.3 Giai đoạn từ năm 2003 đến nay............................................................................... 21
1.3 Quy định của pháp luật một số nước về tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam .... 25
1.3.1 Tái hòa nhập cộng đồng đối với những người mãn hạn tù theo pháp luật của nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. .......................................................................................... 26
CHƯƠNG 2 : THỰC TIỄN VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TÁI HỊA NHẬP
ĐỒNG TẠI TRẠI GIAM CÁC TỈNH MIỀN ĐƠNG NAM BỘ TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY (TỪ 2006 ĐẾN 2010)..................................................................................... 33
2.1. Tình hình người chấp hành án phạt tù tại trại giam các tỉnh miền Đông Nam bộ
từ 2006 đến 2010. ............................................................................................................... 33
2.1.1. Tình hình người chấp hành án phạt tù được đưa vào trại giam từ 2006 đến 2010. .. 33
2.1.2. Tình hình người chấp hành xong án phạt tù ra khỏi trại giam từ 2006 đến 2010. ... 35
2.2. Thực trạng hoạt động giáo dục cải tạo phạm nhân hướng đến tái hòa nhập cộng
đồng tại trại giam các tỉnh miền Đông Nam bộ từ 2006 đến 2010. ............................... 36
2.2.1. Thực trạng hoạt động giáo dục ý thức pháp luật và ý thức xã hội của phạm nhân tại
trại giam các tỉnh miền Đông Nam bộ ................................................................................. 36


2.2.2 Thực trạng hoạt động cải tạo lao động ở trại giam các tỉnh miền Đông Nam bộ ..... 40
2.2.3 Thực trạng đời sống tinh thần của phạm nhân tại trại giam các tỉnh miền Đông Nam
bộ ......................................................................................................................................... 42
2.3 Đánh giá thực tiễn việc tổ chức hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam các
tỉnh miền Đông Nam bộ từ 2006 đến 2010....................................................................... 48
2.3.1. Kết quả đạt được ........................................................................................................ 48
2.3.2. Hạn chế ...................................................................................................................... 53
2.3.3. Nguyên nhân .............................................................................................................. 57

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỂU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG TÁI HÒA
NHẬP CỘNG ĐỒNG TẠI TRẠI GIAM CÁC TỈNH MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ................................................................................... 58
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật ............................................................................. 58
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam các
tỉnh Đông Nam bộ hiện nay. ............................................................................................. 60
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................ 69


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án hình sự nói chung và thi hành hình phạt tù nói riêng là một trong
những hoạt động rất quan trọng bởi hiệu quả của nó ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc
đấu tranh phịng chống tội phạm. Mục đích của việc áp dụng hình phạt tù đối với
người phạm tội cũng chỉ nhằm cải hóa họ trở thành người có ý thức tuân theo pháp
luật, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Do vậy, một trong những nội dung quan trọng của
thi hành án phạt tù là chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phạm nhân có thể tái hịa
nhập vào cộng đồng, thích ứng với mơi trường tự do nhưng đòi hỏi sự tự giác tuân
theo pháp luật. Trại giam là nơi chấp hành hình phạt tù của những người bị kết án tù
có thời hạn và tù chung thân nhằm giáo dục cảm hóa họ trở thành những cơng dân
lương thiện, có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ tái phạm tội. Trong quá trình chấp hành hình
phạt tù, nếu phạm nhân được giáo dục cải tạo tốt để có thể thích ứng với cuộc sống
lương thiện thì hạn chế được nguy cơ họ tái phạm tội. Do vậy hiệu quả của phòng
ngừa tội phạm phụ thuộc nhiều vào sự chuẩn bị cho phạm nhân tái hòa nhập vào
cộng đồng khi họ đang chấp hành án phạt tù tại trại giam.
Vai trò của cơng tác tái hịa nhập vào cộng đồng rất quan trọng nhưng trong
thực tiễn thi hành án phạt tù tại các trại giam cịn gặp khơng ít khó khăn, vẫn còn

bộc lộ nhiều hạn chế trong hoạt động cải tạo, giáo dục phạm nhân để hướng họ
thích ứng với sự trở lại cuộc sống tự do. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà tình
hình phạm nhân đưa vào chấp hành hình phạt tù tại các trại giam ngày càng tăng cả
về số lượng và tính chất phức tạp của các loại đối tượng. Phần lớn những phạm
nhân khi vào chấp hành án tại các trại giam đều có chung đặc điểm là đã nhận rõ tội
lỗi, ăn năn hối cải và quyết tâm thi đua chấp hành án để sớm trở về đồn tụ với gia
đình và cộng đồng xã hội. Một thực tế hiện nay cho thấy, có nhiều người đang chấp
hành hình phạt tù khi được hỏi sau khi mãn hạn tù thì họ làm gì, thì câu trả lời rất
chung chung và mơ hồ như cố gắng tìm kiếm cơng ăn, việc làm; khơng lêu lổng ăn
chơi đua địi; khơng tham gia các hoạt động tệ nạn… trong đó có một bộ phận rất ít
là tiếp tục học văn hóa hoặc tham gia các lớp học của hệ trung cấp, cao đẳng hoặc
đại học mà trước đó học bị gián đoạn. Do vậy việc Nhà nước có chính sách để tái
hịa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong hình phạt tù có ý nghĩa đặc biệt


2

quan trọng, ảnh hưởng lớn đến chính sách kinh tế, văn hóa, an sinh xã hội. Với
mong muốn góp tiếng nói vào mục đích chung là tạo điều kiện thuận lợi cho người
chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống, phòng ngừa
tái phạm và vi phạm pháp luật. Chính vì vậy tác giả chọn nghiên cứu đề tài: Hoạt
động tái hòa nhập cộng đồng tại Trại giam trên địa bàn các tỉnh miền Đông
Nam bộ. Hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở lý luận để góp phần cùng các nhà
khoa học, các đồng nghiệp đang công tác trong thực tiễn cùng đưa ra các giải pháp
nâng cao chất lượng công tác giáo dục, cải tạo tại các trại giam trên cả nước nói
chung, trong đó có các trại giam trên địa bàn các tỉnh miền Đơng Nam bộ.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam có ý nghĩa rất
lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn bởi đây là một vấn đề đang được dư luận toàn xã
hội quan tâm trong thời gian qua, thậm chí đây cịn được xem là vấn đề mấu chốt

trong việc kéo giảm tình hình tái phạm tội đã và đang diễn ra hết sức phức tạp. Đặc
biệt là trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
đồng thời nước ta đang hội nhập sâu rộng với các nước trên thế giới nên luôn nhận
được quan tâm của cộng đồng quốc tế bởi có liên quan đến vấn đề dân chủ và nhân
quyền.
Hiện nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết của các nhà khoa học,
các luật gia có liên quan đến vấn đề này như Luận văn Thạc sỹ Luật học “Thi hành
án phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên trong giai đoạn hiện nay”
của Vũ Quốc Doanh (năm 2007) đã đi sâu nghiên cứu một cách tổng quan trong
việc tổ chức thi hành án phạt tù đối với đối tượng được xã hội quan tâm đó là người
chưa thành niên. Luận văn đã nêu lên được thực trạng và giải pháp nhằm góp phần
nâng cao hoạt động tổ chức thi hành án phạt tù cho đối tượng này, nhưng chưa đề
cập nhiều đến hoạt động tái hòa nhập cộng đồng cho họ ngay trong thời gian chấp
hành án tại trại giam. Luận văn Thạc sỹ Luật học “Bảo đảm quyền con người
trong thi hành án phạt tù tại Việt Nam” của Phạm Thị Tuyết Mai đã nghiên cứu
một cách khá toàn diện về vấn đề đảm bảo quyền con người trong thi hành án phạt
tù. Hoặc là tạp chí Thơng tin Khoa học pháp lý – Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý
, Bộ Tư pháp, chuyên đề “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái hòa nhập
cộng đồng của công dân sau thời gian cải tạo, giam giữ” (2001) đã nghiên cứu
một cách khá tồn diện về tái hịa nhập cộng đồng nhưng là của công dân sau thời


3

gian cải tạo giam giữ. Ngồi ra cịn có một số cơng trình nghiên cứu, bài viết, tài
liệu có đề cập đến các hoạt động tổ chức thi hành án phạt tù ở Việt Nam và một số
nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam. Các cơng trình khoa học, các bài
viết này hoặc khái quát, hoặc đi sâu phân tích, luận giải một số nội dung có liên
quan đến một chừng mực nhất định về hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại trại

giam. Vấn đề tái hòa nhập cộng đồng trong trại giam là vấn đề chưa được quan tâm
nghiên cứu và cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn khía cạnh này để nâng cao hiệu
quả phịng ngừa tội phạm nói chung và phịng ngừa người mãn hạn tù tái phạm tội
nói riêng.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục tiêu:
Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận về tái hịa nhập cộng đồng trong thi hành án
hình sự, mục tiêu của đề tài là đánh giá thực trạng việc tổ chức tái hịa nhập cộng
đồng tại trại giam trong tình hình hiện nay và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam hay nói cách khác là các hoạt động
của trại giam nhằm chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sau khi người chấp hành
xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng xã hội một cách nhanh nhất, đạt hiệu quả
cao nhất.
- Nhiệm vụ
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam và
những đặc điểm của nó.
+ Đánh giá thực trạng pháp lý và thực tiễn tổ chức hoạt động tái hòa nhập vào
cộng đồng đối với phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại trại giam.
+ Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tái hòa nhập cộng đồng
tại trại giam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng:
Luận văn nghiên cứu các hoạt động tái hòa nhập cộng đồng đối với người
đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam bộ
gồm trại giam Thủ Đức; trại giam Đại Bình; trại giam Xuyên Mộc; trại giam An
Phước; trại giam Tống Lê Chân; trại giam Cây Cầy và trại giam Xuân Lộc do Bộ
Công an quản lý từ năm 2006 đến 2010.
+ Phạm vi:



4

Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng bao gồm nhiều đối tượng, nhiều chủ thể
cùng tham gia với những mức độ khác nhau. Luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu hoạt
động tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam chứ khơng đi sâu nghiên cứu tái hịa nhập
cộng đồng đối với người cai nghiện ma túy hoặc chấp hành các biện pháp xử lý
hành chính như Cơ sở Giáo dục, Trường Giáo dưỡng hoặc các Trung tâm cai
nghiện…
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp nghiên cứu duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như Phân tích –
tổng hợp, khảo sát, so sánh, đối chiếu tổng hợp, thống kê, hệ thống nhằm tiếp cận
và lý giải những vấn đề đặt ra.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách tổng quan và trực tiếp
hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam với cương vị của người làm công tác
thực tiễn trong lĩnh vực thi hành án hình sự nhằm mục đích đưa ra những luận cứ
khoa học, đánh giá những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế cho
việc đề ra những giải pháp nâng cao hiệu quả về hoạt động này.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy,
học tập và đặc biệt là phục vụ cho công tác thực tiễn, nhất là trong lĩnh vực Thi
hành án hình sự, mà cụ thể là trong việc tổ chức hoạt động tái hòa nhập phạm nhân
tại các trại giam trong thời gian tiếp theo. Ngồi ra đây là tài liệu tham khảo có ý
nghĩa cho đối tượng đang học tập, nghiên cứu pháp luật Thi hành án hình sự, Nghị
định của Chính phủ quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với
người chấp hành xong án phạt tù, các Thông tư hướng dẫn thi hành Luật THAHS.
Đồng thời cũng là tài liệu tham khảo nghiên cứu trong việc sửa đổi Luật TTHS,
Luật HS…Tuy nhiên những đánh giá, các nhóm giải pháp nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả của hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam mới chỉ mang tính chất
gợi mở vấn đề, rất cần được bổ sung, hoàn thiện.

7. Yếu tố mới của luận văn
- Tổng kết thực tiễn và đánh giá thực trạng tổ chức hoạt động tái hòa nhập
cộng đồng tại trại giam để từ đó chỉ ra những tồn tại, yếu kém, khó khăn vướng mắc
trong lĩnh vực này.


5

- Nêu lên những định hướng và đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động tái hòa nhập cộng đồng cho phạm nhân tại các
trại giam.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Nhận thức chung về hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại
trại giam
Chương 2: Thực tiễn việc tổ chức hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại
trại giam các tỉnh miền Đông Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay (từ 2006 đến
2010).
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động tái hòa nhập cộng
đồng tại trại giam các tỉnh Đông Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay.


6

CHƯƠNG 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG TẠI TRẠI GIAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại
trại giam

1.1.1. Khái niệm hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam
Pháp luật của Việt Nam quy định trại giam là nơi thi hành án phạt tù của
người bị kết án tù có thời hạn và tù chung thân, đồng thời trại giam cũng là nơi
giam giữ, giáo dục, cải tạo, lao động, học tập, sinh hoạt của người chấp hành án
phạt tù. Điều 3 – BLHS 1999 có quy định: “…Đối với người bị phạt tù thì buộc họ
phải chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao động, học tập để trở thành người
có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt.
Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương
thiện, hồ nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án
tích….”.
Trại giam của Bộ Công an hiện nay do Tổng cục Cảnh sát thi hành án hình
sự và hỗ trợ tư pháp (Tổng cục VIII) quản lý (theo Nghị định số 77/2009/NĐ-CP
ngày 15/9/2009 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ
Công an).
Giáo dục người phạm tội là một trong những mục đích của hình phạt được
quy định tại Điều 27 Bộ luật Hình sự năm 1999: “Hình phạt khơng chỉ nhằm trừng
trị người phạm tội mà cịn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức
tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ
phạm tội mới. Hình phạt cịn nhằm giáo dục người khác tơn trọng pháp luật, đấu
tranh phịng ngừa và chống tội phạm”. Như vậy mục đích của hình phạt khơng chỉ
trừng trị mà cịn giáo dục, cải tạo người phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Mục
đích của hình phạt là yếu tố có tính chất quyết định, quy định nội dung, phương
pháp, hình thức, tiêu chí, biện pháp kiểm tra, đánh giá kết quả của thi hành án hình
sự. Việc khơng để người phạm tội sau khi chấp hành xong hình phạt (mà chủ yếu là
hình phạt tù), quyết tâm trở thành người lương thiện là một trách nhiệm rất nặng nề
và cũng là vấn đề mang tính nhân văn sâu sắc trong chính sách hình sự của Nhà


7


nước ta, đây cũng là lý do tại sao phải tổ chức các hoạt động tái hòa nhập cộng đồng
đối với người phạm tội.
Giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội là q trình nhằm
làm thay đổi những quan điểm, nhận thức không đúng đắn của người phạm tội, cải
tạo các thói quen, hành động sai trái đã hình thành ở người phạm tội. Những nhận
thức, hành động sai trái của người phạm tội không phải là bản tính vốn có của họ,
mà là do ảnh hưởng của những yếu tố không lành mạnh trong mơi trường gia đình,
nhà trường, xã hội, của những điều kiện thuận lợi cho tội phạm phát sinh, phát triển,
những thiếu sót trong quản lý xã hội của các cơ quan chức năng... Những nhận thức,
thói quen xấu ở người phạm tội hồn tồn có thể cải tạo được, nếu được tổ chức
một cách đúng đắn, có khoa học và theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định.
“Theo quan niệm chung của Việt Nam, vấn đề tái hòa nhập cộng đồng chỉ
đặt ra với người vi phạm pháp luật hình sự, hành chính mà bị cách ly khỏi cộng
đồng xã hội trong một thời gian”.1 Những người đó bao gồm: Người bị kết án tù có
thời hạn, tù chung thân; Người bị đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; Người
bị đưa vào trường giáo dưỡng (biện pháp này chỉ áp dụng đối với người chưa thành
niên). Như vậy chỉ có người bị kết án tù có thời hạn và tù chung thân mới bị đưa
vào trại giam để chấp hành án phạt tù. Theo Điều 3, Luật THAHS năm 2010 quy
định: “Người chấp hành án là người bị kết tội và phải chịu hình phạt theo bản án đã
có hiệu lực pháp luật”. Do vậy người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, tù
chung thân tại trại giam được gọi là phạm nhân. Từ đó khẳng định đối tượng thực
hiện các hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam là phạm nhân. Trong phạm
vi đề tài nghiên cứu này chỉ tập trung vào người bị kết án tù có thời hạn và tù chung
thân, không đề cập đến các đối tượng khác như: Người bị đưa vào cơ sở giáo dục,
cơ sở chữa bệnh; Người bị đưa vào trường giáo dưỡng…
Trại giam là một mơi trường, mà tại đó, ngồi việc được giáo dục cải tạo do
hành vi phạm tội trước đó, phạm nhân cịn được chuẩn bị những điều kiện cần thiết
để họ nhanh chóng hịa nhập với cộng đồng xã hội sau khi chấp hành xong án phạt
tù. Trong môi trường này luôn đan xen giữa những yếu tố tích cực và yếu tố tiêu
cực. Các yếu tố tích cực như xây dựng cho phạm nhân lối sống trật tự, kỷ cương,

1

Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý (2001), Thông tin Khoa học pháp lý số chuyên đề:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái hòa nhập cộng đồng của công dân sau thời gian
cải tạo, giam giữ, Bộ Tư pháp, tr.8.


8

biết tôn trọng danh dự nhân phẩm của bản thân và của người khác; ln tích cực
thực hiện nghĩa vụ lao động, có ý thức tự giác trong lao động, học nghề; rèn luyện
phẩm chất, tư cách đạo đức của một người cơng dân… Song bên cạnh đó cũng có
những yếu tố tiêu cực như tạo cho phạm nhân tính thụ động, sự ỷ lại, trông chờ vào
sự giúp đỡ của người khác hay nói cách khác thiếu tính năng động để cư xử phù
hợp với sự thay đổi không ngừng của mơi trường sống mà ở đó phải phù hợp với
các chuẩn mực của pháp luật và đạo đức của xã hội; những kiến thức về văn hóa,
khoa học, trình độ nghề nghiệp mà phạm nhân được học trong trại giam thường là
lạc hậu so với những gì đang diễn ra ở ngồi xã hội hay nói cách khác việc học
trong trại giam mang nặng tính lý thuyết hơn là thực hành.
Xuất phát từ mục đích của hình phạt và yếu tố môi trường chấp hành án phạt
tù của người bị kết án như trên thì thấy rằng việc phải tổ chức các hoạt động tái hòa
nhập cộng đồng tại các trại giam là việc làm hết sức cần thiết và mang đậm chất
nhân văn sâu sắc.
Các hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam hiện nay có nhiều giai
đoạn khác nhau. Nếu xét theo nghĩa rộng thì gồm các giai đoạn như: Các hoạt động
dành cho phạm nhân mới đến trại chấp hành án phạt tù; Các hoạt động dành cho
phạm nhân đang chấp hành án phạt tù và sau cùng là các hoạt động dành cho phạm
nhân sắp chấp hành xong án phạt tù.
Còn nếu xét theo nghĩa hẹp thì có 2 giai đoạn. Một là các hoạt động chuẩn bị
cho phạm nhân tái hòa nhập cộng đồng trước khi họ chấp hành xong án phạt tù. Hai

là các hoạt động được thực hiện ở giai đoạn phạm nhân chính thức tham gia tái hịa
nhập với cộng đồng, giai đoạn này bắt đầu từ ngày họ chấp hành xong hình phạt tù.
Cho dù ở mức độ nào thì các chương trình tái hịa nhập cộng đồng cho người đang
chấp hành án phạt tù đều xác định mục tiêu là phải đảm bảo quá trình mang tính
xuyên suốt, liền mạch càng tốt từ trại giam về gia đình và cộng đồng. Từ đó những
gì tốt đẹp nhất mà họ được học tập, tiếp cận trong quá trình chấp hành án sẽ được
phát huy tác dụng tại cộng đồng.
Như vậy hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam được hiểu là toàn bộ
các hoạt động của cơ quan thi hành án phạt tù (trại giam) nhằm giúp người phạm tội
sau một thời gian chấp hành án phạt tù hòa nhập với cộng đồng trở thành cơng dân
lương thiện có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ tái phạm tội. “Đối với cá nhân đối tượng thì tái
hịa nhập cộng đồng là quá trình tự bản thân họ nhận thức điều chỉnh tư duy và hành


9

vi cho phù hợp với quy định của pháp luật và chuẩn mực của cộng đồng, đồng thời
thông qua lao động và giao tiếp, họ dần dần thích nghi với sinh hoạt chung của cộng
đồng”2. Hay nói cách khác đây là quá trình làm cho hình phạt đạt được mục đích
vốn có của nó, góp phần cho sự ổn định của xã hội.
Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại tại trại giam bao gồm các hoạt động
như tổ chức quản lý, giam giữ phạm nhân đến các hoạt động khác như tổ chức cho
phạm nhân ăn, ở, sinh hoạt, khám chữa bệnh, vui chơi giải trí, lao động, học tập,
học nghề, tư vấn về tâm lý, giữ mối liên lạc giữa phạm nhân với thân nhân gia đình
họ, bàn giao người chấp hành xong hình phạt tù cho chính quyền địa phương nơi cư
trú….
1.1.2. Các đặc điểm của tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam
Xuất phát từ bản chất của chính sách hình sự của nước ta là nhấn mạnh yếu tố
giáo dục, cải tạo nhằm giúp đỡ người vi phạm pháp luật dễ dàng tái hòa nhập cộng

đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù. Mặt khác chính sách hình sự của Đảng và
Nhà nước ta luôn xem người đang chấp hành án phạt tù cũng là những “con người”,
mà đã là “con người” thì “các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa
được tơn trọng” (Điều 50 của Hiến pháp năm 1992). Hiện nay các đặc điểm của
hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam vẫn còn mang tính lý luận, có nhiều
quan điểm khác nhau nhưng xét đến cùng thì có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất: Các hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam là nhằm khuyến
khích người chấp hành án ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo, tự
nguyện bồi thường thiệt hại. Đây là nguyên tắc của thi hành án hình sự, qua nguyên
tắc này cho ta thấy muốn cơng tác tái hịa nhập cộng đồng đạt hiệu quả thì trước hết
người chấp hành án phải ăn năn hối cải, tự cải tạo bản thân mình là chính, thơng qua
các hoạt động giáo dục cảm hóa để làm tăng quyết tâm của họ trong việc tự cải tạo
giáo dục để từ bỏ quá khứ tội lỗi và quay trở về với cuộc sống lao động chân chính.
Cho nên các hoạt động giáo dục tại trại giam phải tác động trúng vào ý chí và nhận
thức của phạm nhân thì mới có thể mang lại hiệu quả.
Thứ hai: Hoạt động tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam được thực hiện theo
thẩm quyền và trình tự do pháp luật quy định. Tức là từ nội dung đến trình tự tiến
2

Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý (2001), Thông tin Khoa học pháp lý số chuyên đề:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái hòa nhập cộng đồng của công dân sau thời gian
cải tạo, giam giữ, Bộ Tư pháp, tr.9.


10

hành được quy định trong Luật THAHS, Pháp lệnh THAPT, Quy chế trại giam và
các văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền. Việc luật hóa trình tự, thủ tục
đối với hoạt động tái hòa nhập cộng động tại trại giam thể hiện quan điểm nhất quán
của Đảng và Nhà nước ta là luôn tôn trọng quyền tự do, dân chủ của người dân,

ngay cả khi họ vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo sự công bằng trong xã hội. Đặc
biệt là trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền như hiện nay thì vấn đề tuân
thủ pháp luật trong việc tổ chức hoạt động tái hòa nhập cộng đồng cho phạm nhân
tại trại giam là một yêu cầu bức thiết hơn bao giờ hết. Một khi yêu cầu này được
thực hiện trong thực tế thì hoạt động tái hòa nhập cộng đồng đi vào thực chất hơn vì
đối với người chấp hành án phạt tù rất cần sự an ủi, động viên, chia sẻ từ vật chất
đến tinh thần của đội ngũ những người trực tiếp quản lý, giáo dục họ cho đến thân
nhân gia đình và cộng đồng xã hội, các yếu tố đó sẽ là động lực để họ vượt qua mọi
khó khăn thử thách để tự cải tạo mình trở thành người lương thiện.
Thứ ba: Phải được tiến hành theo từng giai đoạn phù hợp với đặc điểm giới
tính, trình độ văn hóa, tay nghề, điều kiện về sức khỏe, mức án và một số đặc điểm
khác. Tức là phạm nhân phải được phân loại, mục đích của việc phân loại người bị
kết án là bảo đảm sự tác động giáo dục, cải tạo phải phù hợp, tương xứng với từng
nhóm người bị kết án, giúp cho người bị kết án nhận thức được hành vi sai trái của
mình, thấy được hậu quả mà họ đã gây ra cho xã hội, gia đình và bản thân, từ đó có
suy nghĩ, hành động đúng về sau. Nếu khơng làm được như vậy, thì các biện pháp
giáo dục, cải tạo sẽ vô tác dụng, hoặc sẽ xảy ra tình trạng người phạm tội lần đầu, ít
nghiêm trọng được người phạm tội chuyên nghiệp, có nhiều tiền án xúi giục hoặc
chỉ cho các kinh nghiệm đối phó với cơ quan thi hành pháp luật, làm cho người bị
kết án bi quan, thất vọng, mất lòng tin ngay tại môi trường được xem là giáo dục cải
tạo người phạm tội. Việc phân loại người bị kết án theo các tiêu chí nói trên đã được
quy định trong nhiều văn bản pháp luật về thi hành án hình sự của Nhà nước ta. Ví
dụ: Điều 8 Quy chế trại giam được ban hành kèm theo Nghị định số 113/NĐ- CP
ngày 28/10/2008 của Chính phủ đã quy định: “… Ngay sau khi vào trại giam, Y tế
của trại giam phải khám sức khoẻ cho phạm nhân, xác định tình trạng sức khoẻ,
bệnh tật của họ để lập hồ sơ sức khoẻ phục vụ cho việc giam giữ, lao động, học tập
và phịng chữa bệnh…… Căn cứ vào tính chất tội phạm, mức án, độ tuổi, giới tính,
sức khoẻ và các đặc điểm nhân thân khác của phạm nhân, Giám thị trại giam quyết
định việc phân loại và tổ chức giam giữ phạm nhân theo loại theo quy định của Bộ
trưởng Bộ Cơng an, Bộ trưởng Bộ Quốc phịng. Đối với phạm nhân thường xuyên



11

vi phạm nội quy, quy chế trại giam phải giam riêng”. Tức là hoạt động này bám vào
việc phân loại tổ chức giam giữ, quản lý từng loại đối tượng ngay tại trại giam bởi
mỗi loại đối tượng đều có đặc điểm tâm lý, hoàn cảnh phạm tội, đặc điểm nhân thân
khác nhau cho nên cần phải có sự lựa chọn hình thức, nội dung giáo dục khác nhau
thì mới mang lại hiệu quả.
Thứ tư: Tất cả các hoạt động tái hòa nhập cộng đồng đối với người phạm tội
được chia thành các giai đoạn như khi mới đến trại, trong thời gian ở trại và giai
đoạn sắp chấp hành xong hình phạt. Đặc điểm này cho thấy sự liền mạch, kết nối
của các hoạt động này phải từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp và gắn với sự
diễn biến tâm lý của phạm nhân trong từng giai đoạn cụ thể trong quá trình chấp
hành hình phạt tù. Điểm này thể hiện tính khoa học của cơng tác tái hòa nhập cộng
đồng tại trại giam, khắc phục quan điểm nóng vội hoặc quan điểm quan liêu thiếu
sự sâu sát đến tâm tư, nguyện vọng của người chấp hành án phạt tù. Việc giáo dục
cải tạo người phạm tội với thời gian dài trong trại giam sẽ làm tăng khả năng khó
hịa nhập của họ với cộng đồng xã hội, do làm tăng khả năng ngừng liên hệ với tập
thể lao động trước đây, liên lạc với thân nhân của họ, cịn đối với những người đã
có vợ hoặc chồng thì sẽ làm tăng tình trạng ly dị trong quan hệ hôn nhân. Do vậy
muốn đạt hiệu quả cao thì phải sớm rút ngắn thời hạn chấp hành hình phạt tù để họ
trở về với mơi trường sống trước khi phạm tội.
Thứ năm: Kết hợp một cách nhuần nhuyễn yếu tố giáo dục, thuyết phục với
cưỡng chế và trừng trị. Lý do đề cập đến vấn đề này là bởi trong thực tế mặc dù
chính sách hình sự của Nhà nước ta luôn khoan hồng, nhân đạo với người phạm tội,
song có nhiều đối tượng sau khi chấp hành xong hình phạt tù, mặc dù đã được giáo
dục cảm hóa nhưng vẫn cịn cố tật “Ngựa quen đường cũ” tức là ngay sau khi chấp
hành xong án phạt tù thì lại tái phạm tội, mà một khi đã tái phạm tội thì thường là ở
mức độ nghiêm trọng hơn (tái phạm nguy hiểm), sau đó lại tiếp tục được đưa vào

trại giam và tham gia các chương trình lao động, học tập. Như vậy đối với những
đối tượng này địi hỏi phải có một chương trình lao động, học tập khác hơn để họ
thấy được tính nghiêm khắc của chính sách pháp luật mà tu chí chỉnh sửa chính bản
thân họ để khơng tái phạm tội. Hay nói cách khác là luôn khoan hồng, nhân đạo với
những người biết ăn năn, hối cải, đồng thời phải nghiêm khắc, trừng trị những đối
tượng ngoan cố, chống đối quyết liệt nhằm thể hiện tính nghiêm minh của pháp
luật.


12

Thứ sáu: Phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước ở từng giai
đoạn lịch sử nhất định. Hiện nay chính sách của nhà nước ta là quan tâm đến vấn đề
an sinh xã hội, chăm lo cho các đối tượng chính sách, những người có cơng với
nước, người tàn tật, người có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, người sống ở vùng sâu,
vùng xa do mức sống của các đối tượng nói trên cịn rất thấp, trong khi các chính
sách hỗ trợ đối với những đối tượng này cịn nhiều hạn chế thì các chế độ chính
sách dành cho người phạm tội tại các trại giam chỉ nên dừng lại ở một mức độ nhất
định, không thể cao hơn hoặc quá thấp so với mức sống chung xã hội.
1.1.3. Ý nghĩa của tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam
Trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam, người chấp hành án thường
rơi vào trạng thái rất thụ động, thậm chí họ khơng định hình được bản thân phải làm
gì để sớm được trở về với cộng đồng xã hội và người thân. Chính vì vậy các hoạt
động mang tính giáo dục, hỗ trợ về mặt pháp lý; tư vấn, định hướng nghề nghiệp;
nâng cao năng lực tìm kiếm việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù là cần
thiết và có ý nghĩa rất quan trọng. Cho nên hoạt động tái hịa nhập cộng đồng tại trại
giam có các ý nghĩa sau:
- Tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam giúp tăng cường năng lực thích ứng
với xã hội, góp phần rút ngắn thời gian hòa nhập vào cộng đồng của họ.
Cơng tác tái hịa nhập cộng đồng cho những người sắp mãn hạn tù sẽ có lợi

trong việc bồi dưỡng, tăng cường năng lực thích ứng với xã hội của họ. Do những
đối tượng này sau một thời gian chấp hành án phạt tù trở về với cộng đồng sẽ gặp
những khó khăn trở ngại chủ yếu như: Một là, những vấn đề do sự thay đổi của môi
trường sống đem lại bởi trong thời gian chấp hành án phạt tù trong trại giam họ
được lao động và học tập theo chế độ cưỡng chế và chịu sự quản lý theo quy định
của pháp luật, những nhu cầu cơ bản của cuộc sống như ăn, ở, mặc đều được bảo
đảm. Tuy nhiên sau khi quay về với xã hội, họ phải dựa vào chính bản thân để tự
mưu cầu cuộc sống. Trong sự thay đổi lớn này, khó tránh khỏi những người cảm
thấy hoang mang, khơng tìm được việc làm dẫn đến nản lịng, lùi bước trước những
khó khăn thử thách. Hai là, những khó khăn do biến động xã hội đem lại. Trong
thực tế có những người chấp hành xong án phạt sau nhiều năm ở trong trại giam,
thậm chí có người sau hàng chục năm, cách biệt với xã hội bên ngồi, khi trở về họ
có tâm lý mặc cảm với xã hội. Ba là, những ảnh hưởng bất lợi do tâm lý mắc lỗi của
người mãn hạn tù. Họ quay về với xã hội mỗi người có một tâm trạng riêng. Phần
lớn đều mong muốn có một cuộc sống mới, mong được người khác hiểu và giúp đỡ,


13

nhưng cũng có những người mang tâm lý xấu hổ, tự ti, lo lắng, hồi nghi… và cũng
khơng ít người mang thái độ hận thù, thêm vào đó những khó khăn trắc trở ban đầu
trong cuộc sống lại càng khiến họ lo lắng, mất đi lịng tin phấn đấu. Chính vì vậy
mà những người chấp hành xong hình phạt tù rất cần sự quan tâm giúp đỡ của cộng
đồng xã hội. Bằng các biện pháp tác động thích hợp sẽ giúp họ nâng cao khả năng
thích ứng với cuộc sống xã hội. Tuy nhiên như phần đặc điểm đã đề cập hiệu quả
của các biện pháp này còn phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực của cá nhân đối tượng.
- Mức độ tái hòa nhập cộng đồng phát huy hiệu quả của việc áp dụng hình
phạt
Theo Điều 26 – BLHS 1999: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm

tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tịa án quyết định”. “Khi
nói đến hình phạt cần đặt trong mối liên hệ giữa ba phạm trù Nhà nước – Tội phạm
– Hình phạt. Nhà nước xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị nên đã quy định
những hành vi thực sự nguy hiểm cho lợi ích của giai cấp thống trị là tội phạm”.3
Nhà nước quy định những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc áp dụng đối với người
đã thực hiện tội phạm thì đó gọi là hình phạt. “Do vậy, hình phạt mang bản chất giai
cấp sâu sắc”.4 Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong khi hình
phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước. Cho nên hình phạt chỉ
thật sự có ý nghĩa khi nó mang lại lợi ích cho nhân dân, chính vì vậy kết quả của
hoạt động tái hịa nhập cộng đồng là thước đo giá trị hiệu quả của hình phạt.
Hiệu quả của việc áp dụng hình phạt khơng chấm dứt khi đối tượng chấp
hành xong bản án, quyết định của Tòa án. Thực tế cho thấy, việc áp dụng hình phạt
chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó hướng đến người phạm tội bằng việc cải tạo, giáo dục
họ trở thành người lương thiện. Xét về khía cạnh cá nhân người phạm tội thì hiệu
quả của việc áp dụng hình phạt, hiệu quả của quá trình học tập, lao động, cải tạo tại
các trại giam được thể hiện rõ nhất trong môi trường xã hội, chỉ đến khi đối tượng
khơng tái phạm, tích cực tạo lập cuộc sống lương thiện thì mới có thể coi là việc áp
dụng hình phạt phát huy tối đa được hiệu quả. Xét về khía cạnh khác thì các biện
3

TS Trần Thị Quang Vinh và ThS Vũ Thị Thúy (2008), Luật HS Việt Nam (phần chung), Nxb Trẻ, TP.HCM,
trang 234.
4
TS Trần Thị Quang Vinh và ThS Vũ Thị Thúy (2008), Luật HS Việt Nam (phần chung), Nxb Trẻ, TP.HCM,
trang 234.


14


pháp tái hịa nhập cộng đồng mang nhiều tính thuyết phục được áp dụng tại trại
giam như giữ mối liên hệ giữa phạm nhân và với gia đình; tìm hiểu tâm tư, nguyện
vọng của phạm nhân; giáo dục đạo đức, tư tưởng, pháp luật, kỹ năng sống … sẽ làm
thức tỉnh họ và tạo động lực cho họ tự nguyện cải tạo, từ đó rút ngắn thời gian chấp
hành án.
- Tái hòa nhập cộng đồng là phương thức hữu hiệu trong cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm và ngăn ngừa tình trạng tái phạm.
Khi quy định và áp dụng hình phạt, Nhà nước khơng chỉ đặt mục đích ngăn
chặn khơng để người phạm tội tiếp tục gây hậu quả cho xã hội, mà cịn góp phần
trong cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm và ngăn ngừa tình trạng tái phạm tội.
Đây là hai mặt không thể tách rời của mục đích hình phạt và có quan hệ biện chứng
với nhau. Có nhiều ngun nhân tình trạng người chấp hành xong án phạt tù phạm
tội trở lại hay còn gọi là tái phạm, nếu việc này xảy ra sẽ làm rối loạn thêm tình
hình an ninh trật tự xã hội, mục đích cuối cùng của hình phạt khơng đạt được. Để
xảy ra tình trạng trên thì có rất nhiều ngun nhân, ngồi ngun nhân do chế tài áp
dụng hình phạt khơng có tác dụng, do sự thiếu đồng bộ của hệ thống các cơ quan
tham gia thi hành án hình sự, sự bất cập của hệ thống pháp luật về quản lý xã hội,
chính sách hình sự khơng phù hợp với xu thế phát triển trong nước và trên thế
giới… thì cơng tác tái hịa nhập cộng đồng cũng là một trong những nguyên nhân để
xảy ra tình trạng tái phạm tội. Có thể đưa ra đây một số lý do dẫn đến tình trạng tái
phạm hiện nay có liên quan trực tiếp đến cơng tác tái hịa nhập cộng đồng tại trại
giam như: Một là, rất nhiều người sau khi mãn hạn tù khơng tìm được việc làm,
ngun nhân ở đây do cơ chế lao động hiện nay, do sự yếu kém về kỹ năng lao
động, nghề nghiệp của bản thân người chấp hành xong án phạt tù và thái độ phân
biệt, kỳ thị, coi thường của một bộ phận nơi sử dụng lao động nên đã gây nhiều khó
khăn cho những người này khi họ muốn làm lại cuộc đời; những nghề mà họ được
học hoặc được thực hành trong trại giam khơng có hoặc có nhưng rất ít phổ biến ở
ngồi xã hội. Hai là, đối tượng khơng nhận được sự giúp đỡ, giáo dục của gia đình
và xã hội hoặc là nếu có thì chỉ mang nặng tính nghiệp vụ của lực lượng Cơng an,
thậm chí cịn chịu sự xa lánh, bỏ mặc của những người thân. Ba là, việc quản lý

người chấp hành xong án phạt tù trở về không hiệu quả. Trên thực tế hiện nay, có
những trường hợp mà cả trại giam, UBND cơ sở nơi cư trú trước đây của họ không
nắm được là hiện tại họ đang sinh sống ở đâu. Bốn là, các biện pháp giáo dục nhằm
thay đổi nhận thức sai trái của phạm nhân chưa thật phát huy hiệu quả, thậm chí để


15

xảy ra tình trạng các đối tượng đã cấu kết, hình thành các nhóm phạm tội ngay tại
trại giam. Do vậy nếu việc tổ chức tốt các hoạt động tái hịa nhập cộng đồng tại trại
giam là góp phần trong cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm, ngăn ngừa tình trạng
tái phạm tội. Ngược lại nếu không làm tốt công tác này sẽ là một trong những
nguyên nhân dẫn đến cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm thêm gay go, quyết
liệt.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật về hoạt động
chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam
1.2.1. Chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về công tác tái hịa nhập
cộng đồng tại trại giam
Chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với phạm nhân là một bộ phận rất
quan trọng trong hệ thống chính sách hình sự, nó được xây dựng, sửa đổi, bổ sung
cùng với sự phát triển của đất nước qua từng giai đoạn lịch sử. Cho dù ở bất cứ giai
đoạn lịch sử nào thì chủ trương chung là đối xử nhân đạo đối với phạm nhân, tôn
trọng quyền con người, tạo mọi điều kiện thuận lợi để người phạm tội phấn đấu cải
tạo thành người lương thiện, sớm trở về tái hòa nhập với cộng đồng xã hội. Hệ
thống các chính sách đó cịn có những tiêu chí pháp lý đánh giá kết quả quá trình
tiếp thu sự giáo dục cải tạo của mỗi phạm nhân, đồng thời nó cũng là những chuẩn
mực, phương tiện để chủ thể tiến hành các hoạt động tái hòa nhập cộng đồng (lực
lượng Cảnh sát trại giam nay là Cảnh sát THAHS và HTTP- Luật THAHS năm
2010) áp dụng trong thực tiễn cơng tác.
Do hồn cảnh lịch sử, điều kiện chính trị, kinh tế của đất nước ở mỗi giai

đoạn có sự khác nhau, nên việc pháp luật có quy định về hoạt động nhằm chuẩn bị
tái hòa nhập cộng đồng đối với người phạm tội cũng có sự khác nhau. Tuy nhiên
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc tổ chức các hoạt động tái hịa nhập
cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù và được quy định trong nhiều
văn bản pháp luật như: Sắc lệnh số 150/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày
7/11/1950; BLHS năm 1985 (được sửa đổi bổ sung năm 1989, 1991, 1992, 1997 và
được sửa đổi cơ bản toàn diện năm 1999); BLTTHS năm 1988 (được sửa đổi bổ
sung năm 1990, 1992); BLTTHS năm 2003; Pháp lệnh THAPT năm 1993; Pháp
lệnh sửa đổi một số điều của Pháp lệnh THAPT năm 2007; Quy chế trại giam ban
hành kèm theo Nghị định số 60/CP ngày 16/9/1993 của Chính phủ; Quy chế trại
giam ban hành kèm theo Nghị định số 113/CP ngày 28/10/2008 của Chính phủ và


16

gần đây nhất là Luật Thi hành án hình sự được ban hành ngày 17/6/2010, có hiệu
lực ngày 01/7/2011.
Các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên là sự thể chế
hóa và qn triệt chính sách lớn của Đảng có nêu: “Đối xử nhân đạo với người bị
phạt tù. Có chương trình dạy nghề cho phạm nhân và giới thiệu việc làm cho họ sau
khi ra tù, giúp họ nhanh chóng tái hịa nhập cộng đồng”5. “Cần kết hợp và phát huy
vai trò, trách nhiệm của gia đình phạm nhân, của các cấp chính quyền, mặt trận tổ
quốc và đoàn thể quần chúng, các tổ chức Đảng và cộng đồng dân cư trong việc
nhận giúp đỡ, quản lý giáo dục, tạo điều kiện cho những người mãn hạn tù hoặc
được hưởng đặc xá tha tù trở về. Giao trách nhiệm cho mỗi tổ chức, đoàn thể xã hội
(Thanh niên, Phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân, Mặt trận) ở mỗi cấp, nhận
giúp đỡ một số đối tượng được tha tù, coi đây là một chỉ tiêu đánh giá kết quả hàng
năm, đồng thời gắn việc thực hiện chủ trương này với các phong trào xây dựng làng
văn hóa mới, cụm dân cư đồn kết vững mạnh”. 6
Thực hiện chủ trương của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị

số 10/2002/CT-TTg ngày 19/3/2002 về việc triển khai thực hiện Nghị quyết 08/NQTW của Bộ Chính trị có nêu: “Bộ Cơng an: Chủ trì, phối hợp với Bộ lao động –
Thương binh và xã hội, Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Y tế và các cơ quan hữu quan
khảo sát, đánh giá hiệu quả hoạt động cải tạo phạm nhân; Xây dựng Đề án đổi mới
hoạt động giam giữ, cải tạo phạm nhân, tạo điều kiện cho các phạm nhân tái hòa
nhập cộng đồng sau khi mãn hạn cải tạo”.
Các biện pháp tái hịa nhập cộng đồng ở Việt Nam hiện nay khơng chỉ được
áp dụng sau khi người bị kết án mãn hạn tù mà cịn có nhiều hoạt động được thực
hiện ngay khi họ đang chấp hành án. Cho nên tại trại giam, phạm nhân được tham
gia các hoạt động nhằm hướng đến việc giúp cho họ biết ăn năng hối cải, tự giác rèn
luyện để trở thành người có ích cho xã hội, có kỹ năng tiềm kiếm việc làm, hịa
nhập với cộng đồng. Hay nói cách khác đây chính là các hoạt động nhằm chuẩn bị
cho việc tái hòa nhập cộng đồng của người bị phạm tội sau thời gian chấp hành án
phạt tù. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật về hoạt động
chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng tại trại giam có 3 giai đoạn đáng chú ý sau:
5

Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8
khóa VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội).
6
Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53/CT-TW ngày 21/3/2000 của Bộ
Chính trị về một số cơng việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000).


17

1.2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành cơng, để bảo vệ chính quyền còn non trẻ,
Đảng và Nhà nước ta mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng pháp luật
như là một công cụ sắc bén nhằm trấn áp, đè bẹp các hoạt động ngoại xâm, sự
chống phá của các thế lực phản động. “Do điều kiện vừa mới được thành lập, chưa

thể xây dựng ngay được một hệ thống chính sách pháp luật đầy đủ cho một Nhà
nước kiểu mới nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành sắc lệnh ngày 10/10/1945
giữ tạm thời các luật lệ cũ đang hiện hành ở Bắc, trung, Nam bộ cho đến khi ban
hành luật lệ mới thống nhất cho cả nước” 7. Lúc này Nhà nước ta cơ bản là tiếp quản
các trại giam của chính quyền cũ, giải phóng tù chính trị, giam giữ những phần tử
phản cách mạng, cường hào ác bá, số tội phạm hình sự có tội ác với nhân dân. Về
chế độ đối xử, Nhà nước ta đảm bảo và duy trì cuộc sống cho họ trong điều kiện
chung của đất nước, họ được quan tâm giáo dục để giác ngộ và được đối xử một
cách nhân đạo.
Tại tuyên ngôn độc lập năm 1945 có nêu “Tất cả mọi người sinh ra đều bình
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Trong hồn cảnh rất khó khăn, đất nước
rơi vào cảnh lầm than nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến quyền con người
từ rất sớm, trong đó người nhấn mạnh quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc. Ở đây chúng ta có thể hiểu ngay cả những người vi phạm pháp luật thì
các quyền của họ vẫn phải được bảo đảm.
Vào những năm 1946 đến 1954, đây là thời kỳ cả nước tiến hành cuộc kháng
chiến trường kỳ chống thực dân pháp. Trong thời gian này các cơ quan đầu não của
Đảng và Nhà nước được rút vào hoạt động bí mật, sơ tán lên vùng chiến khu, do
vậy mà đại bộ phận các trại giam cũng phải sơ tán theo vào vùng căn cứ địa cách
mạng, trong thời gian này Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật dưới
hình thức như Sắc lệnh, Nghị định… làm cơ sở cho việc quản lý trại giam và đây
cũng đặt nền móng để hình thành và thực hiện các chính sách đối với phạm nhân.
Cụ thể:
Sắc lệnh số 150/SL được ra đời, đây được xem là văn bản pháp lý đầu tiên của
Nhà nước ta về công tác quản lý, giam giữ và giáo dục người phạm tội, tại Điều 1
7

Trường Đại học Cảnh sát năm (1999), Giáo trình Chính sách của Nhà nước đối với phạm nhân, trại viên,
học sinh Trường giáo dưỡng, Hà Nội.



18

của Sắc lệnh này có nêu: “Phạm nhân phải giam giữ trong các trại giam để trừng trị
và giáo hoá”. Việc giam giữ người phạm tội phải gắn liền giữa trừng trị và giáo hóa,
tức là giáo dục và cảm hóa họ trở thành người có ích cho xã hội. Như vậy vấn đề
giáo dục, cải tạo người phạm tội đã được pháp luật Việt Nam quy định rất sớm.
Ngày 12/6/1951 liên Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) và Bộ tư pháp ban hành Nghị
định số 181-NV/6 ấn định những chi tiết về sự thiết lập, tổ chức và kiểm sốt trại
giam. Theo đó, Nghị định này có quy định “…trong thời gian bị giam cầm phạm
nhân được ăn đủ theo mức sống tối thiểu, cần thiết, tùy theo hoàn cảnh kinh tế của
mỗi địa phương … phạm nhân được giáo dục tư tưởng, tư cách, nghề nghiệp, được
đọc sách báo, học văn hóa, chính trị, được dạy nghề…”
Sau giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975) để cải tạo số ngụy
quân, ngụy quyền nên các trại giam được mở rộng ở các tỉnh phía Nam. Thời điểm
này mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, song Nhà nước ta vẫn đối xử nhân đạo đối với
số đối tượng này và tổ chức nhiều lớp học tập cải huấn để họ hiểu chính sách của
Nhà nước ta, qua đó đã dần dần trả tự do cho số tù nhân này trở về đồn tụ với gia
đình, cùng tham gia vào cộng cuộc xây dựng, tái thiết đất nước.
Kế thừa những thành tựu cách mạng trước đó, ngày 28/6/1988 Quốc hội khóa
VIII đã ban hành BLTTHS năm 1988, đây là Bộ luật đầu tiên quy định trình tự, thủ
tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Theo đó Điều 278 – BLTTHS năm 1988 quy định: “Người chưa thành niên bị kết
án phải được học nghề hoặc học văn hóa trong thời gian chấp hành hình phạt tù …
Đối với người chưa thành niên đã chấp hành xong hình phạt tù, Ban giám thị trại
giam phải phối hợp với chính quyền và tổ chức xã hội ở xã, phường, thị trấn để giúp
người đó trở về sống bình thường trong xã hội”.
Như vậy BLTTHS năm 1988 đã đề cập vấn đề tổ chức thi hành án hình sự,
trong đó có tổ chức các hoạt động tái hịa nhập cộng đồng cho người bị kết án phạt

tù.
1.2.1.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003
Sau giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, do cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp đã ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, dẫn đến kinh tế trì trệ, đất
nước ta rơi vùng khủng hoảng nghiêm trọng. Do vậy mà đã ảnh hưởng rất lớn đến
công tác quản lý, giam giữ ở các trại giam. Song cũng chính giai đoạn này mà công
tác trại giam được Quốc hội, Nhà nước và toàn thể xã hội quan tâm và tập trung
tháo gỡ những khó khăn.


19

Điều 50 của Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam có quy định: “Ở nước Cộng
hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hố và xã hội được tơn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định
trong Hiến pháp và luật”. Việc Hiến pháp nước ta ghi nhận các quyền con người,
trong đó kể cả người phạm tội là một minh chứng cho chính sách giáo dục cảm hóa
người phạm tội. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, đến ngày 8/3/1993 Ủy ban thường
vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh THAPT, có thể nói đây là văn bản pháp luật có
giá trị pháp lý cao nhất về lĩnh vực Thi hành án phạt tù. Ngày 16/9/1996 Chính phủ
ban hành Quy chế trại giam kèm theo Nghị định số 60/CP; Quyết định số
458/BNV(V19) ngày 10/8/1995 ban hành Nội quy trại giam. Đặc biệt là BLTTHS
năm 2003 quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự. Những văn bản trên đã quy định rõ các chế độ chính sách đối với phạm
nhân trên tất cả các mặt, trong đó có các hoạt động tái hịa nhập cộng đồng như:
- Trách nhiệm của trại giam trong tái hòa nhập cộng đồng
Theo Điều 32 và 33 Pháp lệnh Thi hành án phạt tù năm 1993 có quy định:
“Giám thị trại giam có trách nhiệm định kỳ thơng báo tình hình chấp hành hình phạt
của người đang chấp hành hình phạt tù cho thân nhân người đó và yêu cầu thân
nhân của họ tham gia giáo dục người đang chấp hành hình phạt tù; Hai tháng trước

khi người bị kết án tù hết thời hạn chấp hành hình phạt tại trại giam, giám thị trại
giam phải thông báo cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi họ sẽ về cư
trú…”.
Theo đó pháp luật trong giai đoạn này có quy định trách nhiệm của Giám thị
trại giam ký và cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt tù và giới thiệu
họ về Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, đơn vị nơi họ cư trú hoặc cơ quan, tổ
chức nơi họ làm việc … cấp tiền tàu xe, tiền ăn trong thời gian đi đường và một bộ
quần áo thường (nếu người chấp hành xong hình phạt tù khơng có quần áo riêng
mang theo) để họ trở về nơi cư trú hoặc nơi làm việc.
Người chấp hành xong hình phạt tù được trả lại đầy đủ những đồ vật, tiền đã
gửi lưu ký tại trại giam và tiền thưởng lao động trong thời gian chấp hành án (nếu
có). Trường hợp người chấp hành xong hình phạt tù khơng rõ q qn, khơng cịn
người thân thích hoặc cơ quan, đơn vị cũ không tiếp nhận và bản thân họ cũng
khơng có chỗ ở khác thì Giám thị liên hệ với chính quyền địa phương, cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội... hoặc trại có thể tiếp nhận họ sinh sống và lao động theo
nguyện vọng.


×