BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HỒI NAM
HOẠT ĐỘNG PHỊNG NGỪA TỘI PHẠM
CỦA TÒA ÁN QUÂN SỰ QUÂN KHU 7
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hình sự - Mã số: 60.38.40
Người hướng dẫn khoa học: Ts. Nguyễn Bá Ngừng
TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HỒI NAM
HOẠT ĐỘNG PHỊNG NGỪA TỘI PHẠM
CỦA TÒA ÁN QUÂN SỰ QUÂN KHU 7
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hình sự - Mã số: 60.38.40
Người hướng dẫn khoa học: Ts. Nguyễn Bá Ngừng
TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án
quân sự Quân khu 7” là cơng trình nghiên cứu riêng của tơi.
Các số liệu nêu trong luận văn được sử dụng một cách trung thực. Kết quả
nghiên cứu được trình bày ở luận văn này chưa từng được công bố tại bất kỳ cơng
trình nào khác.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 02 năm 2012
Tác giả
Nguyễn Hoài Nam
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Các bảng thống kê:
1. Bảng thống kê số 1 về tình hình xét xử sơ thẩm và phúc thẩm
2. Bảng thống kê số 2 về tình hình xét xử lưu động, điển hình
3. Bảng thống kê số 3 về tình hình ban hành thơng báo xét xử
4. Bảng thống kê số 4 về tình hình nói chuyện pháp luật ở các đơn vị, địa phương
5. Bảng thống kê số 5 về tình hình viết tin bài pháp luật
6. Bảng thống kê số 6 về tình hình kiểm tra, giám đốc các vụ án
7. Bảng thống kê số 7 về tình hình giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân
8. Bảng thống kê số 8 về tình hình tổng kết thực tiễn xét xử
9. Bảng thống kê số 9 về tình hình viết chuyên đề và tin bài nghiên cứu khoa học pháp lý
10. Bảng thống kê số 10 về tình hình tội phạm từ 2004 đến 2010
11. Bảng thống kê số 11 về hệ số tình hình tội phạm
12. Bảng thống kê số 12 về phân tích các vụ án đồng phạm, phạm tội có tổ chức
13. Bảng thống kê số 13 về cơ cấu tình hình tội phạm
14. Bảng thống kê số 14 về các nhóm tội phạm có tỉ trọng trong cơ cấu tình hình tội phạm
15. Bảng thống kê số 15 về phân tích các vụ án theo cơng cụ phạm tội
16. Bảng thống kê số 16 về phân tích người bị kết án theo đối tượng quản lý
17. Bảng thống kê số 17 về phân tích giới tính của người bị kết án
18. Bảng thống kê số 18 về phân tích các trường hợp tái phạm
19. Bảng thống kê số 19 về phân tích tuổi của người bị kết án
20. Bảng thống kê số 20 về phân tích các vụ án theo sự thiệt hại do tội phạm gây ra
21. Bảng thống kê số 21 về phân tích các vụ án theo địa bàn nơi xảy ra hành vi phạm tội
22. Bảng thống kê số 22 về phân tích các vụ án theo hoàn cảnh nơi xảy ra hành vi phạm
tội
23. Bảng thống kê số 23 về phân tích chi phí cho xét xử các vụ án
Các biểu đồ:
24. Biểu đồ 1 về diễn biến tình hình tội phạm theo số lượng vụ án và người bị kết án
25. Biểu đồ 2 về cơ cấu tình hình tội phạm
26. Biểu đồ 3 về diễn biến các nhóm tội phạm có tỉ trọng trong cơ cấu tình hình tội phạm
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chƣơng 1.NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
CỦA TÒA ÁN QUÂN SỰ ....................................................................................... 8
1.1.Nhận thức chung về phòng ngừa tội phạm .......................................................... 8
1.1.1. Khái niệm về phòng ngừa tội phạm ........................................................... 8
1.1.2. Đặc điểm của phòng ngừa tội phạm ........................................................11
1.1.3. Nội dung phòng ngừa tội phạm ...............................................................12
1.1.4. Ý nghĩa của phòng ngừa tội phạm ...........................................................12
1.2. Tòa án quân sự - Chủ thể phòng ngừa tội phạm ..............................................13
1.2.1. Tòa án quân sự ........................................................................................13
1.2.2. Vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ của Tịa án quân sự ........................13
1.2.3. Cơ sở pháp lý về trách nhiệm của Tồ án qn sự trong phịng
ngừa tội phạm ....................................................................................................14
1.2.4. Nội dung hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tồ án qn sự .............15
1.2.5. Đặc trưng hoạt động phịng ngừa tội phạm của Toà án quân sự ............25
1.3. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả phịng ngừa tội phạm của
Tịa án qn sự..........................................................................................................36
1.3.1. Các tiêu chí về lượng ...............................................................................36
1.3.2. Các tiêu chí về chất ..................................................................................37
1.3.3. Một số tiêu chí khác .................................................................................39
Chƣơng 2.ĐẶC ĐIỂM CỦA TOÀ ÁN QUÂN SỰ QUÂN KHU 7 VÀ THỰC TRẠNG
PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM TỪ 2004 ĐẾN 2010 .............................................40
2.1. Đặc điểm của Toà án quân sự Quân khu 7 liên quan đến phòng ngừa
tội phạm ..................................................................................................................40
2.1.1. Khái quát về Tòa án quân sự Quân khu 7 ...............................................40
2.1.2. Đặc điểm về địa bàn hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án
quân sự Quân khu 7 ...........................................................................................42
2.2. Thực trạng phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự Quân khu 7 từ năm 2004 đến
năm 2010 .................................................................................................................45
2.2.1. Tình hình tiến hành hoạt động phịng ngừa tội phạm của Tòa án
quân sự Quân khu 7 từ năm 2004 đến năm 2010 ..............................................45
2.2.2. Chuyển biến tình hình tội phạm sau khi Tòa án quân sự Quân khu 7
tiến hành hoạt động phòng ngừa tội phạm từ năm 2004 đến năm 2010 ............ 57
2.3. Đánh giá thực trạng phòng ngừa tội phạm của Toà án quân sự Quân khu 7
từ năm 2004 đến năm 2010 .....................................................................................71
2.3.1. Những thành công trong hoạt động phịng ngừa tội phạm của Tồ án
qn sự Quân khu 7 từ năm 2004 đến năm 2010 .............................................71
2.3.2. Những hạn chế trong hoạt động phòng ngừa tội phạm của Toà án quân sự
Quân khu 7 từ năm 2004 đến năm 2010 ............................................................73
Chƣơng 3.NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ, DỰ BÁO VÀ CÁC BIỆN
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHỊNG NGỪA TỘI PHẠM CỦA
TỒ ÁN QUÂN SỰ QUÂN KHU 7 ....................................................................83
3.1. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động phòng ngừa tội phạm của
Tòa án quân sự Quân khu 7 từ năm 2004 đến năm 2010 ........................................83
3.1.1. Những tác động từ nội tại của Tòa án quân sự Quân khu 7 ...................83
3.1.2. Những tác động từ tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trên địa bàn .........85
3.1.3. Nhưng tác động từ các quy định của pháp luật ........................................87
3.2. Dự báo tình hình tội phạm liên quan đến Quân đội trên địa bàn Quân khu 7 trong thời
gian tới .....................................................................................................................94
3.2.1. Những yếu tố tiếp tục tác động tới tình hình tội phạm liên quan đến
Quân đội trên địa bàn Quân khu 7 ...................................................................94
3.2.2. Những thay đổi trong tương lai của tình hình tội phạm liên quan đến Quân đội
trên địa bàn Quân khu 7 ....................................................................................98
3.2.3. Khả năng tiến hành hoạt động phòng ngừa tội phạm của
Tòa án quân sự Quân khu 7 ............................................................................. 100
3.3. Những định hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả phịng ngừa
tội phạm của Tồ án qn sự Qn khu 7 ........................................................... 100
3.3.1. Những định hướng để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm ......... 101
3.3.2. Các biện pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm ..... 105
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 123
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Phòng ngừa tội phạm là việc sử dụng hệ thống các biện pháp mang tính xã hội
và tính Nhà nước nhằm khắc phục những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm, hạn chế và loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Phòng ngừa tội phạm đem
lại ý nghĩa nhân đạo và tiến bộ xã hội, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại về
kinh tế mà tình hình tội phạm gây ra trong xã hội và qua đó, Nhà nước có thể kiểm sốt
được tình hình tội phạm, nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý của Nhà nước và
tăng cường hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của các Cơ quan bảo vệ pháp luật. Chỉ thị
số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác phịng, chống tội phạm trong tình hình mới (Chỉ thị số 48-CT/TW) nêu
rõ mục đích: “Trong thời gian tới, cơng tác phịng, chống tội phạm phải kiềm chế, làm
giảm các loại tội phạm, nhất là các tội phạm nghiêm trọng, tội phạm mới; tạo ra môi
trường lành mạnh, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ
cuộc sống hạnh phúc và bình yên của nhân dân” và yêu cầu: Một là, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng, chống tội phạm và phát huy sức mạnh tổng
hợp của cả hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ giữa cơng tác phịng, chống tội phạm
với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; Hai là, cơng tác phịng, chống tội phạm phải
được thực hiện trong tiến trình cải cách tư pháp, phải tôn trọng quyền dân chủ, quyền,
lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân và phải lấy chủ động phịng ngừa là chính,
kết hợp chặt chẽ với tích cực tấn cơng trấn áp tội phạm; Ba là, thường xuyên tuyên
truyền giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân về
phòng, chống tội phạm để mỗi người thấy được quyền lợi, nghĩa vụ, tích cực tham gia
cơng tác này; Bốn là, tập trung điều tra, khám phá, xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại
tội phạm, nhất là tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về tham nhũng, tội phạm có
tổ chức, các loại tội phạm về ma túy, mua bán người, lừa đảo chiếm đoạt lớn tài sản
nhà nước,…Năm là, nâng cao hiệu quả công tác phịng, chống tội phạm của các cơ
quan chun mơn; phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn với các cơ quan
khác, các tổ chức quần chúng trong phòng, chống tội phạm.
Quân đội nhân dân Việt Nam (Quân đội) là một bộ phận cấu thành lực lượng vũ
trang nhân dân, là cơng cụ chun chính của Đảng và Nhà nước, là đội quân chiến đấu,
đội quân công tác, đội qn lao động sản xuất, có vị trí, vai trị rất quan trọng trong sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân,
do dân, vì dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Quân đội đang tiến hành xây
dựng theo hướng cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại nhằm khơng
ngừng tăng cường quốc phịng, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp
phần ổn định chính trị, giữ vững an ninh trật tự và phát triển kinh tế xã hội của đất
nước, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
1
minh. Trong phòng ngừa tội phạm, Quân đội phải phối hợp với lực lượng Công an và
các ngành thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm theo quy định của pháp
luật; nâng cao hiệu quả các hoạt động phòng ngừa và đấu tranh các loại tội phạm, nhất
là tội phạm có tổ chức, tội phạm hình sự nguy hiểm, tội phạm mua bán, vận chuyển trái
phép ma tuý, mua bán người, buôn lậu tại các địa bàn được phân công, khu vực biên
giới, trên biển, đảo; đổi mới công tác phối hợp tuyên truyền, vận động nhân dân nâng
cao nhận thức và chấp hành tốt pháp luật, tích cực tham gia phòng, chống tội phạm;
phối hợp với các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương triển khai các đề án phát triển kinh tế-xã hội, ổn định và nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho đồng bào ở khu vực biên giới, trên biển, đảo1. Với mục đích, yêu
cầu và nhiệm vụ nêu trên, Quân đội trở thành lực lượng xung kích đi đầu thực hiện
nghiêm pháp luật của Nhà nước, chủ động đấu tranh phịng, chống tội phạm, tích cực
giáo dục nâng cao ý thức pháp luật trong quân nhân và quần chúng nhân dân, góp phần
quan trọng làm trong sạch bộ máy Nhà nước, phát triển kinh tế, ổn định chính trị, trật
tự kỷ cương, an tồn xã hội của đất nước.
Quân khu 7 là đơn vị vũ trang nhân dân đóng quân trên địa bàn chiến lược quan
trọng ở các tỉnh, thành phố phía Nam của Tổ quốc, gồm: Thành phố Hồ Chí Minh và
các tỉnh Long An, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước,
Bình Thuận, Lâm Đồng. Lực lượng vũ trang Quân khu 7 là lực lượng nòng cốt trong
việc xây dựng nền quốc phịng tồn dân và thế trận chiến tranh nhân dân, giữ vững sự
ổn định về an ninh quốc phòng phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
của các địa phương trên địa bàn. Thực hiện nhiệm vụ của Quân đội, Lực lượng vũ trang
Quân khu 7 đang nỗ lực xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, tăng cường sức mạnh,
khả năng sẵn sàng chiến đấu và chủ động tiến hành hoạt động phịng ngừa tội phạm
trên địa bàn. Trong đội hình Qn khu 7, Tòa án quân sự Quân khu 7 (Tòa án quân sự
cấp quân khu và cấp khu vực) là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, được tổ chức trong Quân đội nhân dân và biên chế trực thuộc Quân khu 7,
một trong những chủ thể phòng ngừa tội phạm chuyên trách trên địa bàn Quân khu 7,
tiến hành hoạt động phòng ngừa tội phạm theo chức năng, nhiệm vụ luật định, chủ yếu
là xét xử, làm giảm tình trạng vi phạm pháp luật, tội phạm ở các đơn vị Quân đội và địa
phương trên địa bàn, góp phần quan trọng cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của Lực lượng vũ trang Quân khu 7 nói riêng và Qn đội nói
chung.
Thời gian qua, tình hình tội phạm vẫn cịn diễn biến phức tạp2 đã có những tác
động uy hiếp đến sự phát triển vững mạnh của các đơn vị Quân đội và gây ảnh hưởng
1
Quyết định số 282/QĐ-TTg ngày 24/2/2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số
48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng, chống
tội phạm trong tình hình mới.
2
Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác
phịng, chống tội phạm trong tình hình mới.
2
xấu đến an ninh trật tự ở các địa phương trên địa bàn Quân khu 7. Các loại tội phạm
hình sự xảy ra do quân nhân hoặc các đối tượng dân sự thực hiện với tính chất, mức độ
nguy hiểm khác nhau, đã để lại hậu quả khó lường, gây thiệt hại về nhiều mặt đối với
xã hội và các đơn vị Quân đội. Từ năm 2004 đến năm 2010, Tòa án quân sự Quân khu
7 đã xét xử 316 vụ án hình sự với 496 người bị kết án, đa số là các vụ án xâm phạm an
tồn cơng cộng, trật tự công cộng (32,91%), các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm (26,94%) và các vụ án xâm phạm sở hữu (21,51%),… Các loại tội
phạm này đã làm 165 người chết, 248 người bị thương, thiệt hại về tài sản ước tính
hàng trăm tỷ đồng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỷ cương phép nước, kỷ luật Qn
đội, phá vỡ tình đồn kết u thương gắn bó đồng chí đồng đội, tình qn dân, làm
giảm sức mạnh chiến đấu của các đơn vị vũ trang nhân dân và tạo ra sự bất ổn đối với
tình hình trị an trên địa bàn. Mặc dù, trong hoạt động phòng ngừa tội phạm, Tòa án
quân sự Quân khu 7 đã nỗ lực đạt được những kết quả tích cực, tích lũy được nhiều
kinh nghiệm hoạt động nghiệp vụ, song cũng tồn tại khơng ít thiếu sót, nhược điểm cần
phải nghiên cứu tổng kết. Những hạn chế cụ thể là: số bản án có sai sót cịn đáng kể, kỹ
năng điều khiển phiên toà chưa cao; áp dụng quy định pháp luật chưa chính xác; tổ
chức phiên tịa xét xử lưu động, điển hình chưa nổi bật; chưa làm rõ nguyên nhân, điều
kiện phạm tội, cũng ít kiến nghị biện pháp khắc phục cụ thể; nói chuyện pháp luật thiếu
chiều sâu, đơn điệu, thiếu kết hợp chặt chẽ với biện pháp phòng ngừa của người chỉ
huy Quân đội; kiểm tra các vụ án chưa thường xuyên, thiếu chính xác; tổ chức tiếp
công dân, giải quyết đơn thư chưa hợp lý; báo cáo nặng về số liệu, không đề xuất, kiến
nghị gì; tổ chức học tập chưa được đầu tư kỹ, ít gợi mở, hình thức; ít có bài viết trao
đổi, nghiên cứu khoa học pháp lý,…Những hạn chế này đã làm chậm lại sự chuyển
biến tích cực của tình hình tội phạm liên quan đến Quân đội trên địa bàn Quân khu 7 và
làm ảnh hưởng đến hiệu quả phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự Quân khu 7.
Trong thời gian tới, tình hình tội phạm sẽ còn tiếp tục diễn biến phức tạp3 và
đứng trước yêu cầu “Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và
bảo vệ quyền con người”4, trên cơ sở thực hiện các Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới (Nghị quyết số 08/NQ-TW); Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49/NQ-TW);
Chỉ thị số 48-CT/TW; Nghị quyết số 67-NQ/ĐUQSTƯ ngày 08/3/2007 của Đảng ủy
quân sự Trung ương về lãnh đạo thực hiện chiến lược cải cách tư pháp trong Quân đội
đến năm 2020 (Nghị quyết số 67-NQ/ĐUQSTƯ); Quyết định số 282/QĐ-TTg ngày
24/2/2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 483
Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác
phịng, chống tội phạm trong tình hình mới.
4
Ban tuyên giáo Trung ương (2011), Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của
Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 139.
3
CT/TW (Quyết định số 282/QĐ-TTg) và Kế hoạch số 4334/KH-CCTP ngày 10/8/2007
của Bộ Quốc phòng về thực hiện Nghị quyết số 67/NQ-ĐUQSTƯ (Kế hoạch số
4334/KH-CCTP), theo kế hoạch hàng năm của Bộ Tư lệnh Quân khu 7 và Tòa án quân
sự Trung ương, Tòa án quân sự Quân khu 7 đang tập trung thực hiện kế hoạch cải cách
tư pháp với trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của của mình, nâng
cao chất lượng xét xử và đạt được hiệu quả phòng ngừa tội phạm cao hơn nữa.
Về phương diện lý luận, phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự là những hoạt
động cụ thể theo chức năng, nhiệm vụ của một chủ thể phòng ngừa tội phạm. Tuy vậy,
cho đến nay vẫn chưa có tài liệu chỉ dẫn tồn diện về các hoạt động của Tòa án quân sự
trong phòng ngừa tội phạm, đặc biệt ở Tòa án quân sự cấp quân khu và khu vực.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, việc hệ thống tồn diện về lý luận phịng ngừa
tội phạm của Tòa án quân sự và nghiên cứu thực trạng phòng ngừa tội phạm của Tòa
án quân sự Quân khu 7 trở nên cấp thiết.
Vì vậy, tơi chọn nghiên cứu đề tài: “Hoạt động phòng ngừa tội phạm của
Tòa án quân sự Quân khu 7”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua, một số cơng trình đã nghiên cứu về phòng ngừa tội phạm trên địa
bàn Quân khu 7, nhưng chủ yếu tiếp cận ở góc độ tội phạm cụ thể, như:
- Tội phạm về tham nhũng và đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng tại
Thành phố Hồ Chí Minh (tác giả: Nguyễn Thành Vinh - Luận văn thạc sĩ luật Khóa 5,
Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh).
- Phịng, chống tội phạm hình sự do người nước ngồi thực hiện trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh (tác giả: Phan Thị Bích Hiền - Luận văn thạc sĩ luật Khóa 8,
Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh).
- Đấu tranh phòng, chống tội tuyên truyền chống Nhà nước Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội (tác giả: Trần Thanh Long Luận văn thạc sĩ luật Khóa 11, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh).
- Phịng, chống tội phạm giao thơng đường bộ bằng pháp luật hình sự - từ thực
tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh (tác giả: Dương Bửu Chánh - Luận văn thạc sĩ luật
Thành ủy Khóa 1, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh).
- Đấu tranh phòng, chống tội phạm chứa mại dâm và thực tiễn xét xử tại Thành
phố Hồ Chí Minh (tác giả: Hà Thúy Yến - Luận văn thạc sĩ luật Thành ủy Khóa 2, Đại
học Luật Tp. Hồ Chí Minh).
- Nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe
của Lực lượng Điều tra hình sự Quân khu 7 (tác giả: Từ Sơn Hải - Luận văn thạc sĩ luật
2009, Đại học Cảnh sát nhân dân).
Những kết quả nghiên cứu trên đều đề cập đến nhóm tội phạm, tội phạm cụ thể,
hoặc đối tượng phạm tội. Có thể nói, cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu về
thực trạng phòng ngừa tội phạm của Tịa án qn sự Qn khu 7. Vì vậy, với cách
4
nghiên cứu và tiếp cận riêng, đề tài “Hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân
sự Quân khu 7” tiến hành khơng trùng với bất kì đề tài khoa học nào.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
- Làm rõ thực trạng phịng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự Quân khu 7 từ
năm 2004 (Bộ luật tố tụng hình sự 2003 có hiệu lực thi hành5) đến năm 2010.
- Đưa ra một số kiến nghị về định hướng và các biện pháp nâng cao hiệu quả
phòng ngừa tội phạm do Tòa án quân sự Quân khu 7 tiến hành trong tương lai.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận liên quan đến phòng ngừa
tội phạm do Tòa án quân sự thực hiện.
- Nghiên cứu đặc điểm của Tòa án quân sự Quân khu 7 và thực trạng phòng
ngừa tội phạm từ năm 2004 đến năm 2010.
- Nghiên cứu tìm nguyên nhân của những hạn chế, dự báo và đề xuất các biện
pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự Quân khu 7.
4. Đối tƣợng nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu chính là những vấn đề lý luận liên quan đến phòng ngừa
tội phạm của Tòa án quân sự, thực trạng và các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng
ngừa tội phạm của Tòa án quân sự Quân khu 7, nhất là tập trung vào thực trạng phòng
ngừa tội phạm của Tòa án quân sự Quân khu 7.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Về nội dung: Đề tài nghiên cứu về phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự
Quân khu 7 theo chức năng xét xử và không đề cập đến cơng tác thi hành án hình sự
nữa, vì hoạt động này đã chuyển giao cho Cơ quan Điều tra hình sự theo quy định của
Luật số 53/2010/QH12 ngày 17/6/2010 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam về thi hành án hình sự (Luật thi hành án hình sự 2010) có hiệu lực ngày
01/7/2011.
- Về địa bàn: 09 tỉnh, thành phố thuộc địa bàn Quân khu 7.
- Về thời gian: Từ năm 2004 đến năm 2010.
6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và
pháp luật, về cải cách tư pháp. Đồng thời, đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: khảo sát thực tế, thống kê, phân tích, tổng hợp, diễn giải, quy nạp, so
sánh, lịch sử, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tọa đàm trao đổi với những cán bộ, chuyên gia
trực tiếp thực hiện cơng tác phịng ngừa tội phạm trên địa bàn Quân khu 7.
7. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
5
Luật số 19/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về Tố tụng
hình sự.
5
Đề tài là cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ
thống về hoạt động phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự Quân khu 7. Những kết
quả nghiên cứu đạt được sẽ bổ sung, hồn thiện lý luận về phịng ngừa tội phạm của
Tịa án nói chung và Tịa án qn sự nói riêng. Những kết quả này có khả năng ứng
dụng thực tiễn cao, giúp lãnh đạo ngành Tòa án quân sự định hướng, chỉ dẫn tham khảo
trong việc tổ chức, triển khai các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm
của Tòa án quân sự Quân khu 7 trong thời gian tới, đáp ứng với yêu cầu cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay, đồng thời còn giúp lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị Quân đội hiểu rõ
hơn diễn biến tình hình tội phạm trên địa bàn Qn khu 7, từ đó chủ động xây dựng chương
trình, kế hoạch và tổ chức, chỉ đạo hoạt động phòng ngừa tội phạm ở đơn vị mình trong
tình hình mới.
Đề tài cịn có thể tạo nền cho các cơng trình nghiên cứu khoa học khác nhau tiếp
theo, đồng thời dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho cán bộ làm cơng tác đấu
tranh phịng, chống tội phạm trong và ngồi Qn đội, cũng như phục vụ cơng tác
giảng dạy và xây dựng pháp luật.
8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục các bảng, biểu và danh mục tài
liệu tham khảo, đề tài được cơ cấu trúc gồm 3 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tội phạm của Tòa án
quân sự.
- Chương 2. Đặc điểm của Tòa án quân sự Quân khu 7 và thực trạng phòng ngừa
tội phạm từ 2004 đến 2010.
- Chương 3. Nguyên nhân của những hạn chế, dự báo và các biện pháp nâng cao
hiệu quả phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự Quân khu 7.
6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÒNG NGỪA
TỘI PHẠM CỦA TÒA ÁN QUÂN SỰ
1.1. Nhận thức chung về phòng ngừa tội phạm
1.1.1. Khái niệm về phòng ngừa tội phạm
Tội phạm là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng La tinh “Crimen”6. Trong khoa học
Luật hình sự, dù cịn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về nội dung lẫn nội hàm của
khái niệm tội phạm7, nhưng quan điểm chung nhất về tội phạm chính là cơ sở pháp lý
để phân biệt nó với hành vi phạm pháp luật khác, hành vi trái đạo đức, hoặc là
trường hợp không phải tội phạm, qua đó bảo vệ pháp chế, duy trì trật tự pháp
luật, góp phần đấu tranh phịng, chống tội phạm để bảo vệ một cách hữu hiệu lợi
ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do vậy,
khái niệm tội phạm cần nhìn ở 02 góc độ:
Điều 8 Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được
sửa đổi, bổ sung 2009 (Bộ luật hình sự 2009)8 quy định:“ Tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ Luật hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật
tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”. Định nghĩa này có những đặc điểm cơ bản sau: Một
là, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; Hai là, tội phạm được quy định trong
Bộ Luật hình sự; Ba là, tội phạm do người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự
thực hiện; Bốn là, người thực hiện hành vi phạm tội một cách có lỗi (cố ý hoặc vơ
ý); Năm là, tội phạm xâm phạm đến một hoặc nhiều quan hệ xã hội được Luật
Hình sự ghi nhận và bảo vệ.
Với tội phạm học, tội phạm nghiên cứu “với tư cách là một hiện tượng tiêu cực
nhất trong xã hội, có quy luật phát sinh, tồn tại và phát triển nhất định, có ngun nhân
và điều kiện, địi hỏi có sự cần thiết phải phịng ngừa tội phạm, đồng thời khái niệm tội
phạm lại được mô tả xem như là hành vi phạm tội trong mối liên hệ với các hiện tượng,
9
nhân tố và quá trình tác động khác nhau” .
6
Http://www.en.wikipedia.org/wiki/criminology, ngày 2/5/2007.
Trịnh Tiến Việt (2008), “Khái niệm phòng ngừa tội phạm dưới góc độ tội phạm học”, Tạp chí khoa học
ĐHQGHN, Kinh tế-Luật 24, tr 186.
8
Luật số 15/1999/QH10 ngày 21/12/1999 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về Bộ luật
hình sự và Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự.
9
Trịnh Tiến Việt (2008), tlđd 7, tr 187.
7
7
Quan niệm về phịng ngừa tội phạm đã có rất lâu trong lịch sử lồi người nhằm
bảo vệ, duy trì trật tự và cơng bằng xã hội, góp phần bảo vệ các lợi ích chung của cộng
đồng, của xã hội. Chủ nghĩa Mác-Lê Nin cho rằng: trong chế độ xã hội chủ nghĩa, tội
phạm phát sinh và tồn tại do những nguyên nhân và điều kiện khác nhau, nhưng “với
bản chất tốt đẹp của mình, Nhà nước xã hội chủ nghĩa hồn tồn có khả năng tiến
hành cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm có kết quả. Trong Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm phải được coi là một bộ phận của cuộc
đấu tranh giai cấp và trong cuộc đấu tranh đó, phải đặc biệt quan tâm đến cơng tác
phịng ngừa tội phạm…”10.
Ở Việt Nam, ngay khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến cơng tác phịng ngừa tội phạm. Người nói “Xét xử là
tốt, nhưng nếu khơng phải xét xử thì càng tốt hơn”11. Đây chính là phương châm cơ
bản cho đường lối xử lý „lấy giáo dục, phòng ngừa là chính, phịng ngừa tốt cũng chính
là chống tội phạm tốt‟ của Nhà nước ta, yêu cầu đặt ra là phải ngăn chặn, phòng ngừa
tội phạm ngay từ đầu, làm giảm tội phạm, tiến tới không xảy ra tội phạm; coi việc
chống hay xử lý tội phạm chỉ là hãn hữu, bất đắc dĩ và lấy việc tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật làm trọng tâm, hàng đầu. Theo đó, trong nội dung chính sách hình
sự của Đảng và Nhà nước ta, phòng ngừa tội phạm được coi là một bộ phận quan trọng
của cuộc đấu tranh giai cấp, là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của
tất cả các cơ quan, tổ chức, trong đó các cơ quan bảo vệ pháp luật là lực lượng nòng
cốt, trung tâm, đặc biệt là ngành Tịa án. Lời nói đầu của Bộ luật hình sự nêu rõ “Pháp
luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phịng ngừa và
chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự an tồn
xã hội, trật tự quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường
xã hội và sinh thái an tồn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao. Đồng thời, pháp luật
hình sự góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới và sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội cơng bằng, văn minh…Bộ luật hình sự thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và
kiên quyết đấu tranh chống tội phạm và thơng qua hình phạt để răn đe, giáo dục, cảm
hóa, cải tạo người phạm tội trở thành người lương thiện; qua đó, bồi dưỡng cho mọi
cơng dân tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật, chủ động tham
gia phòng ngừa và chống tội phạm”. Đây chính là đường lối “lấy giáo dục, phịng
ngừa là chính, kết hợp với răn đe, giữ nghiêm kỷ cương, đề cao tính nhân đạo xã hội
chủ nghĩa, bản chất ưu việt của chế độ ta và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phát huy
10
11
Trịnh Tiến Việt (2008), tlđd 7, tr 191.
Trịnh Tiến Việt (2008), tlđd 7, tr 191.
8
vai trị quần chúng và các đồn thể nhân dân chủ động tham gia phòng chống tội
phạm…”12.
Theo Từ điển tiếng Việt “Hoạt động là làm những việc khác nhau với mục đích
nhất định trong đời sống xã hội”13; “Phịng là tìm cách ngăn ngừa, đối phó với điều
khơng hay có thể xảy ra, gây tai hại cho mình”, “Phịng ngừa là phịng khơng cho điều
bất lợi, tai hại xảy ra”14, kết hợp với khái niệm tội phạm, suy ra Phòng ngừa tội phạm
có thể hiểu là hoạt động nhằm ngăn ngừa, đối phó khơng cho hiện tượng tiêu cực trong
xã hội hoặc hành vi phạm tội xảy ra. Hiện nay, trong khoa học hình sự Việt Nam
nghiên cứu về tội phạm cịn có nhiều quan điểm khác nhau, chẳng hạn GS.TS. Nguyễn
Xuân Yêm “Phòng ngừa tội phạm là tổng hợp các biện pháp có quan hệ tác động lẫn
nhau, được tiến hành bởi cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội nhằm mục đích ngăn
chặn tội phạm và hạn chế, loại trừ những nguyên nhân sinh ra tội phạm”; PGS.TS.
Nguyễn Chí Dũng: “Phịng ngừa tội phạm là sử dụng các phương pháp, chiến thuật,
biện pháp, phương tiện nghiệp vụ cần thiết, với sự tham gia của các lực lượng nhằm
khắc phục mọi nguyên nhân, điều kiện không để tội phạm phát sinh, phát triển”15;
“Phịng ngừa tình hình tội phạm là việc áp dụng một cách tổng thể các biện pháp kinh
tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật,…do các cơ quan, các tổ chức và công dân tiến hành
dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vơ hiệu hóa các ngun nhân, điều kiện
phạm tội; khơng để cho tội phạm xảy ra; làm giảm tội phạm và tiến tới loại trừ hồn
tồn tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội ”16… Có quan điểm hiểu theo nghĩa
rộng, ngoài việc ngăn cản tội phạm xảy ra còn sử dụng các biện pháp để phát hiện xử lý
tội phạm kịp thời17. Có quan điểm hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ tập trung vào việc ngăn cản
tội phạm xảy ra, khắc phục lọai bỏ nguyên nhân điều kiện18. Cũng có quan điểm được
phân tích, tổng hợp từ những đặc điểm cụ thể của phòng ngừa tội phạm “Phòng ngừa
tội phạm là hoạt động của tất cả các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, các cơ quan
Nhà nước và tổ chức xã hội và của mọi công dân trong xã hội áp dụng tổng hợp và
đồng bộ các biện pháp khác nhau hướng vào thủ tiêu những nguyên nhân và điều kiện
phạm tội, cũng như loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình hình thành
phẩm chất cá nhân tiêu cực, đồng thời từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội
phạm ra khỏi đời sống xã hội”19. Về thuật ngữ, các Nhà khoa học Việt Nam sử dụng cả
“Phòng ngừa tội phạm” lẫn “Phịng ngừa tình hình tội phạm” (“Situational Crime
Prevention” – Viết tắt: SCP)20.
12
Trịnh Tiến Việt (2008), tlđd 7, tr 194.
Nguyễn Như Ý (2008), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, tr 724.
14
Nguyễn Như Ý (2008), tlđd 13, tr 1263.
15
Trịnh Tiến Việt (2008), tlđd 7, tr 195.
16
Đại học Luật Hà nội (2003), Giáo trình tội phạm học, Nxb CAND, Hà Nội, tr 204.
17
Đại học Luật Hà nội (2007), Giáo trình tội phạm học, Nxb CAND, Hà Nội, tr 208.
18
Đại học Luật Tp.HCM (2010), Tập bài giảng Tội phạm học, Khoa Luật hình sự (lưu hành nội bộ), tr 120.
19
Trịnh Tiến Việt (2008), tlđd 7, tr 197.
20
Đại học Luật Tp.HCM (2010), tlđd 18, tr 119; Đại học Luật Hà nội (2007), tlđd 17, tr 207.
13
9
Tuy nhiên, cả lý luận lẫn thực tiễn đều đòi hỏi khái niệm phòng ngừa tội phạm
phải được sử dụng với thuật ngữ phù hợp ngữ nghĩa tiếng Việt, ngắn gọn, đầy đủ và
không bị giới hạn ở nghĩa hẹp. Chính vì vậy, bản thân đồng quan điểm với khái niệm:
“Phòng ngừa tội phạm là việc sử dụng hệ thống các biện pháp mang tính xã hội và tính
nhà nước nhằm khắc phục những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, hạn
chế và loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội”21.
1.1.2. Đặc điểm của phòng ngừa tội phạm
Phịng ngừa tội phạm có một số đặc điểm cơ bản được thể hiện dưới đây:
Thứ nhất, phòng ngừa tội phạm là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Theo đó mọi
cơ quan, tổ chức, mọi ngành, lĩnh vực đều có nhiệm vụ phịng ngừa tội phạm. Đặc biệt,
các cơ quan bảo vệ pháp luật có trách nhiệm thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của
mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan, tổ chức, cơng dân khác tham gia đấu
tranh phịng ngừa và chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng
đồng.
Thứ hai, phòng ngừa tội phạm là tổng thể các biện pháp về chính trị-tư tưởng,
kinh tế-xã hội, văn hóa, giáo dục, pháp luật, quản lý Nhà nước…tác động vào quy luật
phát sinh, tồn tại và phát triển của tội phạm, đồng thời khắc phục được các nguyên
nhân và điều kiện phạm tội, những tồn tại trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ ba, phòng ngừa tội phạm được dựa trên cơ sở nghiên cứu khoa học về tội
phạm, nắm bắt thông tin đầy đủ, nhận diện những diễn biến tội phạm, khả năng xuất
hiện, thay đổi của tội phạm cũ và mới, diễn biến và quy luật của q trình tội phạm
hóa-phi tội phạm hóa, hình sự hóa-phi hình sự hóa, cũng như những biến đổi của đời
sống xã hội khác để giải quyết tốt đường lối xử lý về hình sự, đề xuất những giải pháp
mang tính chủ động, tích cực và có hiệu quả trong cơng tác đấu tranh phịng và chống
tội phạm.
Thứ tư, phòng ngừa tội phạm được đặt trong mối quan hệ lợi ích kinh tế của Nhà
nước, các tổ chức, cơ quan và mỗi cơng dân trong xã hội, theo đó không để tội phạm
gây ra hậu quả (thiệt hại) to lớn, đồng thời tiết kiệm được chi phí, tiền của, sức lực
trong việc phát hiện, xử lý người phạm tội và khắc phục hậu quả.
Thứ năm, phòng ngừa tội phạm hướng đến không để bất kỳ công dân nào trong
xã hội phải bị xử lý, bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình phạt. Nếu vẫn
cịn tội phạm xảy ra thì bảo đảm khơng bỏ lọt tội phạm, tránh làm oan người vơ tội;
giải quyết nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật về trách nhiệm hình sự và hình phạt
của người phạm tội; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công
dân.
1.1.3. Nội dung phòng ngừa tội phạm
Nội dung phòng ngừa tội phạm là tất cả các vấn đề, các khía cạnh cần tiến hành
trong phòng ngừa tội phạm. Cụ thể là:
21
Đại học Luật Tp.HCM (2010), tlđd 18, tr 121.
10
Thứ nhất, tiến hành các hoạt động ngừa tội phạm (biện pháp mang tính xã hội).
Đó là việc khắc phục những nguyên nhân và điều kiện phạm tội thông qua cải thiện các
quan hệ xã hội, hoàn thiện hệ thống pháp luật để tình hình tội phạm khơng có cơ sở để
phát sinh và tồn tại; là sự kết hợp giáo dục, thuyết phục, giúp đỡ các thành viên trong
cộng đồng xóa bỏ các tình huống, hồn cảnh phạm tội nhằm loại trừ khả năng phát sinh
các tội phạm cụ thể. Đây là biện pháp cơ bản, nền tảng, cốt lõi, lâu dài, mang tính tích
cực, chủ động, đem lại hiệu quả cao, nên cần ưu tiên nghiên cứu và áp dụng trong đời
sống xã hội.
Thứ hai, tiến hành các hoạt động cưỡng chế tội phạm (biện pháp mang tính nhà
nước). Đó là việc phát hiện, xử lý tội phạm mà trọng tâm là các hoạt động điều tra, xét
xử, thi hành án hình sự. Tác dụng ngừa tội phạm phát huy ngay khi áp dụng biện pháp
ngăn chặn, tiến hành đúng các thủ tục tố tụng, đặc biệt là hiệu quả răn đe phịng ngừa
riêng, phịng ngừa chung có từ việc áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự. Bên
cạnh đó, các biện pháp trách nhiệm hành chính, nhất là việc xử phạt hành chính, cũng
góp phần quan trọng vào việc ngăn ngừa nhiều loại hành vi nguy hiểm có khả năng
phát triển thành tội phạm. Đây là biện pháp rất cần thiết, bởi lẽ không phải lúc nào biện
pháp mang tính xã hội cũng đem lại hiệu quả tuyệt đối.
1.1.4. Ý nghĩa của phòng ngừa tội phạm
Tội phạm gây ra thiệt hại rất lớn cho các quan hệ xã hội. Do vậy, phòng ngừa tội
phạm là hoạt động mang tính tất yếu và có ý nghĩa về nhiều mặt.
Thứ nhất, Phòng ngừa tội phạm đem lại ý nghĩa nhân đạo và tiến bộ xã hội. Bởi
lẽ, phòng ngừa tội phạm khơng có nghĩa là trừng phạt hay trả thù người phạm tội mà là
ngăn ngừa tình trạng một người thực hiện hành vi phạm tội, phải chịu hình phạt và
những hậu quả pháp lý khác. Sự việc phạm tội có nguyên nhân một phần từ cá nhân,
nhưng chủ yếu ở mơi trường xã hội, vì vậy Nhà nước cần loại trừ nguyên nhân và điều
kiện phạm tội bằng việc cải thiện điều kiện kinh tế, xã hội, bảo đảm cho mọi người
sống trong mơi trường an tồn, không bị rủi ro do hành vi phạm tội.
Thứ hai, phòng ngừa tội phạm đem lại hiệu quả kinh tế nhất định. Phòng ngừa
tội phạm sẽ hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại về kinh tế do tội phạm gây ra
cho xã hội, kể cả những thiệt hại gián tiếp mà Nhà nước, xã hội phải chi phí để khắc
phục hậu quả. Mặt khác, nếu phòng ngừa tội phạm làm giảm được tỷ lệ phạm tội, thì sẽ
kéo theo việc giảm ngân sách của Nhà nước dành cho hoạt động điều tra, xét xử và thi
hành án.
Thứ ba, phòng ngừa tội phạm là một “kênh” quản lý xã hội có hiệu quả. Thơng
qua các hoạt động trong phịng ngừa tội phạm, Nhà nước có thể kiểm sốt được một
“mảng tối” của đời sống xã hội, đó là tình hình tội phạm. Mặt khác, khi tiến hành các
biện pháp phòng ngừa tội phạm, các cơ quan chức năng sẽ đổi mới chất lượng hoạt
động chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước để duy trì
ổn định trật tự xã hội.
11
1.2. Tòa án quân sự - Chủ thể phòng ngừa tội phạm
1.2.1. Tòa án quân sự
Theo quy định pháp luật22, “Các Toà án quân sự là những cơ quan xét xử của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc hệ thống Toà án nhân dân được tổ
chức trong Qn đội”. Hệ thống Tịa án qn sự, gồm có: Toà án quân sự trung ương;
các Toà án quân sự quân khu và tương đương (cấp quân khu); các Toà án qn sự khu
vực.
1.2.2. Vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ của Tịa án qn sự
1.2.2.1. Vị trí, vai trị của Tịa án qn sự
Tịa án nói chung, Tịa án quân sự nói riêng là cơ quan xét xử duy nhất của
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy
Nhà nước. Nghị quyết số 49-NQ/TW đã khẳng định: “Toà án có vị trí trung tâm và xét
xử là hoạt động trọng tâm”, theo đó Tịa án qn sự với hoạt động chủ yếu là xét xử, có
vị trí trung tâm trong các Cơ quan tư pháp Quân đội.
Toà án qn sự có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc giữ vững an ninh quốc
phịng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; giữ nghiêm kỷ luật, nâng cao sức mạnh
chiến đấu của Quân đội, của Lực lượng vũ trang nhân dân; bảo vệ Đảng, chính quyền
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần tạo môi trường ổn định cho sự phát
triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, Tồ án qn
sự cịn là chỗ dựa, niềm tin của mọi quân nhân và của nhân dân trong việc bảo vệ công
lý, bảo đảm quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm, vi phạm pháp
luật.
1.2.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Toà án quân sự
Tịa án qn sự có chức năng là xét xử những vụ án hình sự, với hai nhiệm vụ
chủ yếu23, là:
- Bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền
làm chủ của nhân dân; bảo vệ an ninh quốc phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của
Quân đội; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài
sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của qn nhân, cơng chức, cơng nhân quốc phịng và
của các cơng dân khác.
- Góp phần giáo dục qn nhân, cơng chức, cơng nhân quốc phịng trung thành
với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, điều lệnh của Quân đội, tôn trọng
những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,
các vi phạm pháp luật khác.
22
Điều 127 Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992; Điều 1, 34 Luật số 33/2002/QH10
ngày 02/4/2002 của Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về Tổ chức Tòa án nhân dân; Điều 1, 2
Pháp lệnh số 04/2002/PL-UBTVQH11 ngày 04/11/2002 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về việc Tổ chức Toà án quân sự.
23
Điều 1 và khoản 1, Điều 3 Pháp lệnh số 04/2002/PL-UBTVQH11 ngày 04/11/2002 của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc Tổ chức Toà án quân sự.
12
1.2.3. Cơ sở pháp lý về trách nhiệm của Toà án quân sự trong phòng ngừa tội
phạm
Chủ thể phòng ngừa tội phạm là những cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền và
nghĩa vụ tham gia phịng ngừa tội phạm24. Trách nhiệm phòng ngừa tội phạm của Tòa
án quân sự được quy định tại các Điều 127 Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam 1992 (Hiến pháp 1992)25; Điều 4 Bộ luật hình sự 2009; Điều 10, 12, 25, 26,
27, 31 Luật số 19/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về Tố tụng hình sự (Bộ luật tố tụng hình sự 2003); Điều 1, 34 Luật
số 33/2002/QH10 ngày 02/4/2002 của Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về Tổ chức Tòa án nhân dân (Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002); Khoản 5 Điều
32 Luật số 39/2005/QH11 ngày 14/6/2005 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về Quốc phòng (Luật Quốc Phòng 2005) và Điều 1, 2, 3, 4, 5, 16, 17,
18, 23, 24, 27, 28, 29 Pháp lệnh số 04/2002/PL-UBTVQH11 ngày 04/11/2002 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội về Tổ chức Toà án quân sự (Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân
sự 2002). Với những quy định này, Tòa án quân sự được xác định là một trong những
chủ thể chuyên trách, tiến hành hoạt động phòng ngừa tội phạm theo chức năng, nhiệm
vụ luật định, giữ vai trị chính trong phòng ngừa tội phạm liên quan đến Quân đội trên
địa bàn Quân khu 7
1.2.4. Nội dung hoạt động phòng ngừa tội phạm của Toà án quân sự
Theo quy định của pháp luật, nội dung phòng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự
được thể hiện, như sau:
1.2.4.1. Phòng ngừa tội phạm qua hoạt động xét xử của Tòa án quân sự
Toà án quân sự thực hiện việc kiểm tra xã hội đối với hành vi của quân nhân,
công chức, công nhân quốc phịng của đơn vị Qn đội, hoặc cơng dân ở cơ quan nhà
nước, tổ chức, xã hội có liên quan. Trên cơ sở đó, Tồ án qn sự tiến hành xét xử các
vụ án hình sự theo quy định của pháp luật, ở cả hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Đây là
việc nhân danh Nhà nước, căn cứ vào pháp luật, tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự
để đưa ra phán xét cuối cùng (bằng một bản án hoặc quyết định) giải quyết một vụ án
hình sự cụ thể, trên cơ sở xác định rõ sự thật khách quan vụ án hình sự. Hoạt động tố
tụng gồm nhiều khâu, nhiều việc, từ khâu thụ lý hồ sơ, chuẩn bị xét xử đến khâu xét xử
tại phiên tòa, ra bản án hoặc quyết định và cuối cùng là hoàn thiện hồ sơ vụ án, đều
được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự về xét xử, như: các nguyên
tắc và quy định tại phần thứ 3, 4 của Bộ luật tố tụng hình sự 2003; các quy định của
Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự về thẩm quyền xét xử; các văn bản hướng dẫn thi
hành Bộ luật tố tụng hình sự về xét xử,…đặc biệt là Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP
ngày 05/11/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Nghị quyết số
05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
24
Đại học Luật Tp.HCM (2010), tlđd 18, tr 132.
Lệnh số 01/2002/L-CTN ngày 07/01/2002 của Chủ tịch Nước công bố Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một
số điều của Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
25
13
Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật dân sự trong quá trình xét xử vụ án
hình sự luôn được thực hiện một cách cẩn thận, nghiêm túc, vì nó rất quan trọng cho
việc tun bố cơng khai các quyết định về tội danh, điều khoản của Bộ luật hình sự
2009, hình phạt, biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng…Chỉ khi xem xét đầy đủ các
chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, khi cơng khai làm rõ tại phiên toà về: hành vi
phạm tội của bị cáo mà Viện kiểm sát truy tố có xảy ra hay không? Ai là người phạm
tội? Phạm tội gì? Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo,
cũng như quyền, nghĩa vụ của cơ quan, đơn vị và đương sự liên quan đến việc giải
quyết vụ án, thì mới có bản án, quyết định chính xác, khách quan, cơng bằng, nghiêm
minh, đúng pháp luật để kịp thời trừng trị, ngăn chặn tội phạm. Mặt khác, hoạt động xét
xử của Toà án quân sự cịn là một q trình giáo dục. Đây là q trình tác động có mục
đích, có tổ chức, có chủ định và có kế hoạch của các chủ thể giáo dục (Thẩm phán,
Kiểm sát viên, Luật sư, Thư ký tòa án, Giám định viên) cung cấp tri thức pháp luật, bồi
dưỡng tình cảm, thái độ đúng đắn đối với pháp luật đến các đối tượng giáo dục (người
tham gia tố tụng và người tham dự phiên tịa) nhằm hình thành ở họ ý thức pháp luật,
cảm xúc và lòng tin vào pháp luật, làm cơ sở cho hành vi và lối sống theo pháp luật của
mọi công dân. Tại phiên tòa, chủ yếu ở cấp sơ thẩm, “Cùng với Thẩm phán và các
thành viên trong Hội đồng xét xử, cịn có các chủ thể khác như Kiểm sát viên, Thư ký
tịa án, Luật sư…cũng có những tác động giáo dục đến các đối tượng khác nhau. Thẩm
phán, Kiểm sát viên, Luật sư luôn phải ý thức được rằng mọi hoạt động của họ đều
hướng tới bảo đảm cả chức năng giáo dục. Họ phải tác động đến cả bị cáo, thức tỉnh
trong bị cáo cảm giác lầm lỗi và mong muốn được sửa chữa lỗi lầm đó. Họ cần phải
tác động đến tất cả những người tham dự phiên tồ, hình thành cho những người này ý
thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, chỉ ra cho họ con đường đấu tranh chống hành vi vi
phạm pháp luật, củng cố phẩm chất ý chí cần thiết cho họ trong cuộc đấu tranh này”26.
Thơng qua mọi lời nói, hành động của chủ thể giáo dục, những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến vụ án, có nghĩa vụ theo luật định phải tham gia phiên
toà để giúp giải quyết vụ án (bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,...),
những người theo trách nhiệm xã hội và đạo đức phải tham gia giúp Hội đồng xét xử
giải quyết vụ án (nhân chứng, giám định viên, đại diện các cơ quan, tổ chức xã hội hay
tập thể lao động,...) và những người theo dõi phiên tồ (trực tiếp hay qua phương tiện
thơng tin đại chúng) có thể hiểu sâu sắc, rõ ràng hơn về những quy định của pháp luật
được áp dụng để giải quyết vụ án, tự đánh giá về hành vi, trách nhiệm pháp lý, hình
thành những cảm xúc về sự cơng bằng nghiêm minh của pháp luật, tôn trọng các đại
diện công lý và định hướng hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật (bản án, quyết
định đúng đắn của Hội đồng xét xử), cũng như giúp định hướng dư luận xã hội. Quá
trình này diễn ra đa dạng, ở hầu hết các bước tố tụng tại phiên toà, từ giai đoạn chuẩn
bị xét xử, bắt đầu phiên toà, xét hỏi, tranh luận đến nghị án, tuyên án và sau khi tuyên
26
.
14
án. Phương pháp giáo dục là sự kết hợp giữa thuyết phục và cưỡng chế bằng quyền lực
nhà nước, giữa diễn giải lý luận và phân tích thực tiễn thơng qua người thật, việc thật.
Do có nhiều chủ thể và đối tượng giáo dục tại phiên toà nên phương pháp giáo dục
cũng đa dạng, phụ thuộc vào vị trí và đặc điểm của từng chủ thể khi tiếp cận với từng
loại đối tượng. Một khi Hội đồng xét xử có thái độ khách quan, nghiêm túc trong xét
hỏi, tôn trọng quyền bình đẳng của các bên trong tranh luận để tìm ra sự thật của vụ án,
cũng như bảo đảm đầy đủ, đúng yêu cầu của các nguyên tắc xét xử, sẽ làm cho những
người tham gia tố tụng, quần chúng tham dự phiên tòa thấy rằng mọi hành vi vi phạm
pháp luật đều bị xử lý trước pháp luật, từ đó giáo dục họ ý thức tuân thủ pháp luật, có
thái độ đúng đắn đối với những hành vi vi phạm pháp luật. Kết quả xét xử thể hiện tập
trung nhất ở bản án do Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước tuyên án. Bản án quyết
định phải chính xác, đúng pháp luật, luận giải từng vấn đề thấu tình đạt lý, chặt chẽ, có
tính thuyết phục, tun xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét xử đúng người
tức là xác định đúng người có hành vi phạm tội là người bị Viện kiểm sát truy tố và căn
cước lý lịch của người đó thẩm tra xác minh chính xác tại phiên tồ. Xét xử đúng tội là
việc Hội đồng xét xử căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo, các dấu hiệu cấu thành
tội phạm, đối chiếu với cấu thành cơ bản được quy định trong Bộ luật hình sự, xác định
đúng tội danh mà bị cáo đã phạm. Xét xử đúng pháp luật có nghĩa là mọi quyết định
của Hội đồng xét xử khơng trái với các quy định của pháp luật hình sự, dân sự và các
văn bản hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền. Chính việc xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, được dư luận đồng tình đem lại tính giáo dục cao đối với mọi
người. Do đó, bản án phải khẳng định bị cáo có tội hay khơng có tội, nếu bị cáo phạm
tội thì tội gì, theo quy định tại điều, khoản nào, có áp dụng hình phạt đối với bị cáo hay
khơng, nếu áp dụng thì áp dụng loại hình phạt nào của Bộ luật hình sự và phải quyết
định các vấn đề về dân sự, biện pháp tư pháp, kiến nghị, án phí v.v...qua đó, khơng chỉ
có tác dụng trừng trị kẻ phạm tội, mà còn trực tiếp giáo dục, ngăn ngừa họ phạm tội
mới; đồng thời, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, có hành vi xử sự phù hợp với
pháp luật và tích cực tham gia đấu tranh phịng, chống tội phạm. Đây chính là một hình
thức giáo dục pháp luật đặc biệt.
Để tăng cường hiệu quả phòng ngừa tội phạm và phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị
của Quân đội, hoạt động xét xử của Tòa án quân sự được tiến hành dưới nhiều hình
thức, như: xét xử kèm theo ban hành thông báo xét xử; xét xử lưu động, điển hình; xét
xử trong thời gian thiết quân luật. Đây cũng chính là đặc điểm nổi bật nên sẽ được phân
tích ở phần đặc trưng phịng ngừa tội phạm của Tòa án quân sự (tại điểm 1.2.5.5., tiểu
mục 1.2.5., mục 1.2., Chương 1 của Luận văn).
Nhìn chung, hoạt động xét xử của Tịa án qn sự có tác dụng phịng ngừa riêng
lẫn phịng ngừa chung 27 và có tính giáo dục cao, góp phần tạo niềm tin cơng lý, nâng
cao ý thức pháp luật cho cán bộ, chiến sỹ, nhân dân và đề cao vị thế, quyền lực của
27
Đại học Luật Tp.HCM (2010), tlđd 18, tr 124.
15
Nhà nước. Đòi hỏi hoạt động xét xử của Tòa án quân sự phải luôn thực hiện đúng các
nguyên tắc xét xử, tuân thủ triệt để các quy định pháp luật về tố tụng hình sự, hình sự,
dân sự và kết hợp nhiều hình thức để xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm
tội, không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội, không ngừng nâng cao hiệu
quả phòng ngừa tội phạm.
1.2.4.2. Phòng ngừa tội phạm qua hoạt động giáo dục pháp luật không xét xử
của Tòa án quân sự
Giáo dục pháp luật là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có chủ định và
có kế hoạch của các chủ thể giáo dục cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm,
thái độ đúng đắn đối với pháp luật đến các đối tượng giáo dục để nâng cao nhận thức
pháp luật cho họ và hướng họ hành động theo các chuẩn mực pháp luật. Nội dung giáo
dục pháp luật chủ yếu là phổ biến, giới thiệu các quy định pháp luật, được thể hiện
dưới hình thức bài viết về pháp luật hoặc tuyên truyền miệng về pháp luật (kết hợp giữa
nói và viết). Giáo dục pháp luật được thực hiện qua nhiều hoạt động khác nhau, như:
hòa giải, sinh hoạt, giao ban, hội nghị, hội thảo, tập huấn, nói chuyện pháp luật, viết tin
bài đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo nói, báo hình, báo viết, tạp
chí,…), trong đó có hoạt động xét xử như đề cập ở trên. Khi tiến hành giáo dục pháp
luật, chủ thể giáo dục phải chú ý, tìm hiểu xu hướng tâm lý chung của đối tượng giáo
dục, sử dụng lồng ghép các phương pháp truyền đạt khác nhau, như: biên soạn đề
cương, sử dụng kỹ năng viết, nói, hình ảnh minh họa trực quan,...để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc giải thích, phân tích, sáng tỏ những nội dung cần tuyên truyền. Có thể nói,
giáo dục pháp luật là hoạt động rất linh hoạt, có nhiều ưu thế, có thể tiến hành đối với
bất kỳ đối tượng nào, ở bất cứ nơi đâu, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh với số lượng
người không bị hạn chế. Thông qua giáo dục pháp luật, đối tượng giáo dục được cung
cấp những kiến thức cơ bản về pháp luật, biết vận dụng pháp luật vào từng hoàn cảnh,
sự việc cụ thể, nhận thức rõ trách nhiệm pháp lý cá nhân, hình thành niềm tin nội tâm
vào tính nghiêm minh, dân chủ, cơng bằng của pháp luật, nỗ lực tham gia đấu tranh
phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của bản
thân, của nhà nước và xã hội. Do vậy, để đạt được hiệu quả phòng ngừa tội phạm cao,
cùng với hoạt động xét xử, Tòa án quân sự cịn tập trung tiến hành một số hình thức
giáo dục pháp luật chủ yếu dưới đây:
- Nói chuyện pháp luật cho cán bộ, chiến sĩ ở các đơn vị qn đội. Đây là hình
thức giáo dục pháp luật khơng qua hoạt động xét xử nhưng hiệu quả giáo dục cũng rất
cao và thường là buổi nói về một lĩnh vực nhất định gắn với một số chế định, ngành
luật. Nội dung pháp luật được truyền tải không những theo nội dung, chương trình giáo
dục pháp luật hàng năm do Tổng cục chính trị ấn định, mà cịn gắn với các sự kiện
trọng đại của đất nước, các văn bản pháp luật mới được ban hành, nhu cầu tìm hiểu
pháp luật ở cơ sở và tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật trên địa bàn đóng quân.
Theo hướng dẫn của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật cấp trên hoặc theo
đề xuất của đơn vị, địa phương, Toà án quân sự dự kiến kế hoạch về nội dung, thời
16
gian, phương pháp tổ chức học tập pháp luật trong năm, chủ động xây dựng đề cương
giáo dục pháp luật theo nhóm chuyên đề, nhóm đối tượng để nâng cao chất lượng bài
nói của các báo cáo viên và tổ chức thành từng đợt đưa cán bộ Toà án trực tiếp xuống
các cơ quan, đơn vị giáo dục pháp luật. Các buổi nói chuyện này thường thu hút được
sự tham gia đông đảo của quân nhân. Báo cáo viên của Tịa án qn sự thường là cán
bộ có trình độ chun mơn, có kinh nghiệm cơng tác và khả năng sư phạm. Khi tiến
hành buổi nói chuyện, báo cáo viên cung cấp cho người nghe những hiểu biết cơ bản về
pháp luật, kết hợp với giải thích, phân tích những nội dung pháp luật cụ thể, cách vận
dụng pháp luật trong những trường hợp, hoàn cảnh cụ thể mà người nghe đang quan
tâm. Báo cáo viên không những phải am hiểu pháp luật mà còn phải hiểu biết đời sống
xã hội, có sự cảm thơng sâu sắc, có thái độ bình đẳng, tinh tế, nhạy cảm, tâm lý và tơn
trọng quan điểm cá nhân của người nghe. Kết thúc buổi nói chuyện, báo cáo viên tiến
hành kiểm tra sơ bộ kết quả học tập và đề xuất nội dung kiểm tra chính trị hàng năm
theo quy định đối với cán bộ, chiến sĩ ở các đơn vị Quân đội. Như vậy, thơng qua các
buổi nói chuyện pháp luật, người nghe sẽ có niềm tin, hiểu biết về pháp luật, nâng cao
ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời có thể vận dụng pháp luật vào một hoàn cảnh, sự
việc cụ thể.
- Viết bài tuyên truyền pháp luật đăng tải trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Đây là việc làm rất ý nghĩa và có tác dụng thiết thực trong việc nâng cao ý thức
pháp luật cho mọi người. Theo đó, Tồ án qn sự tổ chức viết nhiều tin bài đăng tải
trên các báo, đài phát thanh, truyền hình của Quân đội quân khu và các báo, đài trung
ương, địa phương nhằm tuyên truyền, phổ biến rộng rãi kết quả vụ án. Đồng thời, Tịa
án qn sự cũng ln quan tâm, động viên, khuyến khích cán bộ làm cơng tác chuyên
môn tham gia viết bài qua việc giao chỉ tiêu thi đua hàng năm về số lượng các bài viết
được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng và tạo điều kiện thuận lợi giúp họ
nâng cao chất lượng bài viết của mình.
- Mở các lớp tập huấn cho Hội thẩm quân nhân, cán bộ chuyên môn. Nội dung
tập huấn có thể là một văn bản pháp luật quan trọng kèm theo văn bản hướng dẫn thi
hành hoặc nhiều văn bản pháp luật độc lập, có thể là văn bản tuyên truyền lần đầu hoặc
là văn bản được tuyên truyền lặp lại. Đối tượng của lớp tập huấn là báo cáo viên, cán
bộ công tác chuyên môn, Hội thẩm quân nhân thuộc quyền quản lý của Tòa án quân sự.
Ở các lớp tập huấn, giảng viên không chỉ giới thiệu về các nội dung cơ bản của văn bản
mà phải đi sâu vào những vấn đề liên quan đến các lĩnh vực nghiệp vụ nhất định, chẳng
hạn: thẩm quyền của các chủ thể, các biện pháp quản lý, thủ tục tiến hành các công
việc. Phương pháp tập huấn được chú trọng đổi mới, kết hợp giữa phương pháp dạy
học truyền thống với hiện đại, lấy người học là trung tâm, áp dụng phương pháp dạy
học tích cực, mọi người cùng tham gia thảo luận, có sự trao đổi qua lại giữa học viên
và giảng viên, huy động tính tích cực tham gia của học viên, giảng viên chỉ là người
hướng dẫn, định hướng cho học viên vừa học lý thuyết vừa thực hành; đồng thời kết
hợp với các phương tiện hỗ trợ như tranh ảnh, băng hình để buổi tập huấn sinh động,
17
người học dễ tiếp thu, thuộc bài ngay tại lớp và biết vận dụng thành thạo trong thực
tiễn. Việc tổ chức các lớp tập huấn có thể ở quy mơ lớn (hàng trăm người) hoặc ở quy
mô nhỏ (vài chục người), được bố trí thời gian để triệu tập đúng, đủ học viên, có quy
chế cho việc học tập được nghiêm túc. Kết thúc đợt tập huấn, tiến hành tổ chức viết thu
hoạch hoặc kiểm tra để đánh giá kết quả tập huấn.
Ngồi ra, Tịa án qn sự cịn thực hiện giáo dục pháp luật trong các buổi giao
ban, sinh hoạt, hội họp của nội bộ đơn vị, khi tiếp công dân tại trụ sở cơ quan, hoặc ở
hội nghị đại biểu quân nhân, các hội nghị liên ngành.
Nhìn chung, giáo dục pháp luật phải được thực hiện đối với đông đủ các đối
tượng cần được giáo dục, không bỏ sót đối tượng nào, bởi mỗi đối tượng có chức năng,
nhiệm vụ khác nhau trong quá trình xây dựng Quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, xây dựng nền quốc phịng tồn dân và xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Việc giáo dục pháp luật cần đạt được mục đích ở các mức độ khác
nhau ở mức thấp là cung cấp tri thức pháp luật, rồi đến xây dựng tình cảm, lịng tin
pháp luật và cuối cùng là thái độ tuân thủ pháp luật và tham gia vào đấu tranh phòng
chống tội phạm, vi phạm pháp luật khác. Do hàng năm, Nhà nước ta ban hành một khối
lượng lớn các văn bản quy phạm pháp luật và trong điều kiện có rất nhiều kiến thức,
thơng tin pháp lý cần được tìm hiểu nhưng thời gian dành cho công tác giáo dục pháp
luật lại rất hạn chế, nên việc lựa chọn nội dung, chương trình phù hợp đối với từng đối
tượng có ý nghĩa rất quan trọng, đòi hỏi Tòa án quân sự phải phối hợp với các cơ quan,
đơn vị Quân đội có liên quan để xác định nội dung, chương trình giáo dục pháp luật và
thời gian, cơ sở vật chất bảo đảm phù hợp với từng loại đối tượng. Để đạt được kết quả
mong muốn, Tòa án quân sự phải sử dụng kết hợp đồng thời các hình thức, phương
pháp giáo dục pháp luật phù hợp với từng đối tượng trên cơ sở tâm lý, lứa tuổi, trình độ
văn hố, nhận thức, vị trí xã hội..., phù hợp với từng nội dung giáo dục, điều kiện thời
gian hoặc cơ sở vật chất bảo đảm và sau cùng cần phải tổ chức khảo sát thực tiễn ở
từng thời kỳ nhất định để phân tích, đánh giá thực trạng ý thức pháp luật, tình trạng
chấp hành kỷ luật Quân đội, pháp luật của Nhà nước của các đối tượng giáo dục. Có
thể nói, các hình thức giáo dục pháp luật không xét xử đã tác động tích cực đến hoạt
động xét xử qua việc nâng cao trình độ chun mơn, kỹ năng thực hành cho đội ngũ
cán bộ Tòa án quân sự và trực tiếp giáo dục qn nhân, cơng chức, cơng nhân quốc
phịng nâng cao ý thức chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội, tôn trọng
những quy tắc của cuộc sống xã hội, tích cực tham gia đấu tranh phịng ngừa và chống
tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
1.2.4.3. Phòng ngừa tội phạm qua hoạt động chuyên môn nghiệp vụ khác của
Tòa án quân sự
Bên cạnh hoạt động xét xử và hoạt động giáo dục pháp luật không xét xử, hoạt
động chun mơn nghiệp vụ khác của Tịa án qn sự cũng góp phần quan trọng trong
cơng tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cụ thể là:
18
* Giám đốc thẩm, tái thẩm là những thủ tục tố tụng đặc biệt trong tố tụng hình
sự nhằm kiểm tra tính có căn cứ, tính hợp pháp của bản án, quyết định của Tịa án đã
có hiệu lực pháp luật và khắc phục những sai lầm nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án
để bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh trong hoạt động xét xử, bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Tòa án cấp trên giám đốc thẩm, tái thẩm
đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án cấp dưới để phát hiện
sai sót, loại bỏ những vi phạm pháp luật nghiêm trọng, khôi phục giải quyết lại cho
đúng pháp luật, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. Toà án cấp
giám đốc thẩm, tái thẩm không trực tiếp khắc phục, sửa chữa những vi phạm pháp luật
nghiêm trọng của Tòa án cấp dưới mà tạo cơ sở pháp lý để Tịa án cấp dưới có cơ hội
sửa chữa và khắc phục hậu quả do những vi phạm đó gây ra. Các quyết định giám đốc
thẩm, tái thẩm còn là cơ sở pháp lý để khẳng định thêm về tính đúng đắn của bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi Toà án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm quyết
định giữ nguyên bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật. Đây chính là một nội
dung của kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định
của các cơ quan cơng quyền; là một hình thức giám sát của Tịa án cấp trên đối với hoạt
động xét xử của Tòa án cấp dưới. Để giám đốc thẩm, tái thẩm, việc phát hiện bản án,
quyết định của Tòa án cấp dưới có vi phạm pháp luật nghiêm trọng được thực hiện chủ
yếu thơng qua: Một là, Tồ án qn sự cấp trên giám đốc việc xét xử của Toà án quân
sự cấp dưới. Thơng qua hình thức hoạt động này, Tịa án cấp trên phát hiện có sai lầm
nghiêm trọng trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới để
kháng nghị (hoặc đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát kháng nghị) nhằm sửa chữa
những sai lầm đó. Theo đó, Tịa án qn sự thường xuyên kiểm tra những bản án, quyết
định của Tòa án cấp dưới ngay khi có hiệu lực pháp luật để phát hiện sai sót, kịp thời
rút kinh nghiệm qua thơng báo kiểm tra án hoặc tiến hành các thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm khi cần thiết nhằm loại bỏ những vi phạm pháp luật nghiêm trọng, khôi phục
việc giải quyết lại cho đúng pháp luật, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của người tham gia
tố tụng. Qua đó, cơng tác giám đốc, kiểm tra của Tòa án quân sự góp phần thực hiện tốt
các nguyên tắc bảo đảm pháp chế trong tố tụng hình sự; nguyên tắc đảm bảo quyền
bình đẳng trước pháp luật; ngun tắc tơn trọng và bảo đảm các quyền cơ bản của công
dân, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án; nguyên tắc giám đốc xét xử...của Bộ luật tố
tụng hình sự và phát hiện những bất cập của pháp luật hiện hành, đưa ra những kiến
nghị để hoàn thiện pháp luật, đồng thời các thông báo kiểm tra án, các quyết định giám
đốc thẩm, tái thẩm còn được sử dụng làm tài liệu tham khảo, vận dụng thống nhất áp
dụng pháp luật. Hai là, Tịa án qn sự có nghĩa vụ bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo
của công dân theo quy định pháp luật. Người bị kết án, cơ quan, tổ chức, cơng dân có
quyền phát hiện những vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật hoặc những tình tiết mới của vụ án và thơng báo cho Tồ án28. Do vậy, Tịa
28
Điều 31, 274, 291 Luật số 19/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về Tố tụng hình sự.
19