Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

NGUYỄN THỊ MẾN
MSSV: 0955040226

KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI

Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2009 – 2013

Ngƣời hƣớng dẫn:
Th.S NGUYỄN VĂN THẠCH

TP. HCM – NĂM 2013


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
VAHC
QĐHC

Vụ án hành chính
Quyết định hành chính

HVHC
TTHC

Hành vi hành chính


Tố tụng hành chính

UBND
TAND
TANDTC

Uỷ ban nhân dân
Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tối cao

VKSND
VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân tối cao

LĐĐ

Luật Đất đai năm 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2009,
2010)
Luật Tố tụng hành chính năm 2010

Luật TTHC

CQHCNN
Cơ quan hành chính nhà nước
GCNQSD đất
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Luật Khiếu nại, tố cáo Luật Khiếu nại, tố cáo 1998 (sửa đổi, bổ sung năm
1998

2004, năm 2005)
Luật Khiếu nại
Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13 ban hành ngày
PLTTGQCVAHC
Nghị quyết
56/2010/QH12
Nghị quyết
01/2011/NQ-HĐTP

Nghị quyết
02/2011/NQ-HĐTP
Nghị quyết
04/2006/NQ-HĐTP

11/11/2011
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm
1996 đã được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2006
Nghị quyết 56/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc
hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính
Nghị quyết 01/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi
hành một số quy định của Nghị quyết 56/2010/QH12
đối với những VAHC liên quan đến lĩnh vực quản lý đất
đai
Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của
HĐTP TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy
định của pháp luật tố tụng hành chính
Nghị quyết 04/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm
phán TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định



Pháp lệnh 10

của Pháp lệnh TTGQCVAHC
Pháp lệnh án phí, lệ phí Tịa án số 10/2009/PLUBTVQH10 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 27
tháng 2 năm 2009

Nghị định
181/2004/NĐ-CP
Nghị định

Nghị định 181/2004/NĐ-CP về thi hành Luật Đất đai

17/2006/NĐ-CP

điều các nghị định hướng dẫn thi hành luật đất đai và

Nghị định 17/2006/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số
nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty

Nghị định
69/2009/NĐ-CP
Nghị định
105/2009/NĐ-CP

Nhà nước thành công ty cổ phần
Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định bổ sung về quy
hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư
Nghị định 105/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực đất đai


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá. Trong những năm qua Nhà nước
đã rất quan tâm về lĩnh vực quản lý đất đai đồng thời cũng đã ban hành nhiều văn bản
quan trọng nhằm điều chỉnh các quan hệ về đất đai. Quản lý đất đai là một trong những
nội dung quản lý Nhà nước vô cùng quan trọng, được ghi nhận tại Điều 18 Hiến pháp
năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2001) như sau:
“Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và theo pháp luật,
đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài.
Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết
kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp
luật.”
Hiệu quả quản lý Nhà nước về đất đai từng bước được tăng cường, chính sách
pháp luật về đất đai ngày càng được hoàn thiện. Khẳng định đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua là đúng đắn. Trong quá trình thực hiện chức
năng quản lý và điều hành xã hội, do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan, các cơ
quan hành chính Nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ
quan, tổ chức đó thường ban hành các quyết định hành chính, hành vi hành chính về
quản lý đất đai có những vi phạm pháp luật xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, đồng thời làm ảnh hưởng xấu đến hiệu lực quản lý nhà nước.
Từ đó, quyền khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai trở nên cấp
thiết hơn.
Hơn nữa, trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đặc biệt kể từ khi nước
ta chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), nhiệm vụ
này càng ngày trở nên cấp bách. Là thành viên của WTO, chúng ta đã cam kết hoàn
thiện pháp luật và thể chế phù hợp với những yêu cầu mà WTO đã đề ra, trong đó có

yêu cầu nâng cao hiệu lực của hệ thống kiểm tra hoạt động hành chính, đảm bảo giải
quyết hiệu quả các khiếu kiện hành chính phát sinh, pháp điển hóa quy định của pháp
luật tố tụng để giải quyết các khiếu kiện hành chính, xây dựng đảm bảo pháp lý thực
hiện quyền và bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất
đai là rất cần thiết nhằm cụ thể hóa các cam kết của Việt Nam. Thực hiện công cuộc
đổi mới, chúng ta tiếp tục xây dựng và hồn thiện Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam - Nhà nước của dân, do dân và vì dân, quản lý xã hội bằng pháp luật
và khơng ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa .


Tuy nhiên, muốn nâng cao hiệu lực quản lý hành chính Nhà nước, thúc đẩy kinh tế
phát triển, đảm bảo thực thi tốt các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong quan
hệ quản lý hành chính nhà nước, thì việc ban hành một hệ thống các quy định về thủ
tục tố tụng hành chính phù hợp và thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế là việc làm cần
thiết. Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực ngày 01/7/2011 thay thế cho Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 đã được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và
năm 2006, mà đặc biệt là các chế định khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh
vực đất đai đã góp phần bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức, tạo khả
năng và điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia vào hoạt động quản lý nhà
nước, quản lý xã hội. Đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng thể hiện trách nhiệm
của Nhà nước - biểu hiện cụ thể về bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, một Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân - do dân - vì dân.
Song bên cạnh đó, lượng đơn khiếu nại vẫn cịn nhiều, trong khi đó lượng đơn
khởi kiện cịn “ùn lại” trước “cửa quan” là rất lớn, công tác thụ lý vụ án hành chính
trong lĩnh vực đất đai cịn bộc lộ những hạn chế cần phải khắc phục. Có những quy
định được ban hành nhưng cịn thiếu sót, khơng rõ ràng gây khó khăn cho việc thực
thi, cũng như cịn chưa có sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật tố tụng hành chính
với văn bản pháp luật đất đai, cũng như chính văn bản pháp luật tố tụng hành chính khi
điều chỉnh cùng một vấn đề về khởi kiện, thụ lý vụ án hành chính, từ đó đã ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn cho thấy việc nghiên cứu quy định
pháp lý của pháp luật tố tụng hành chính trong việc khởi kiện và thụ lý vụ án hành
chính trong lĩnh vực đất đai của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đồng thời đánh giá những
ưu điểm, làm rõ những hạn chế để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng
hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân là cần thiết, cấp bách và có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Do
vậy, tác giả đã chọn đề tài “Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực
đất đai” để thực hiện luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ khi Luật Tố tụng hành chính được ban hành, đã có nhiều bài viết trên sách, báo,
tạp chí, luận văn nói về pháp luật tố tụng hành chính nói chung, pháp luật về khởi kiện
và thụ lý vụ án hành chính nói riêng như sách: “Luật Tố tụng hành chính Việt Nam những nội dung cơ bản, câu hỏi và tình huống” của TS. Nguyễn Thị Thương Huyền
(chủ biên), TS. Nguyễn Cảnh Hợp, Th.S. Nguyễn Văn Thạch, Th.S. Lê Việt Sơn,
Th.S. Dương Hốn, Th.S. Nguyễn Hồng Yến - Khoa Luật Hành chính - Nhà nước,
Trường Đại học Luật Hồ Chí Minh do Nhà xuất bản Lao động phát hành, “Giáo trình


Luật Tố tụng hành chính Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hồ Chí Minh do Nhà
xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam năm 2012, “Giáo trình kỹ năng giải quyết
các vụ án hành chính” của Học viện Tư pháp do Nhà xuất bản Công an nhân dân,
2012... Bài viết trên báo, tạp chí như:“Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính” của
Nguyễn Hữu Ân trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 13/2010, “Bàn về việc thụ lý vụ án
hành chính theo Điều 3 Nghị quyết 56/2010/QH12 ngày 24 tháng 11 năm 2010 của
Quốc hội” của La Minh Tường trên Tạp chí Tịa án nhân dân, số 21 (11/2011)…hay
luận văn: “Bảo đảm quyền khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của pháp luật Tố
tụng hành chính” của Nguyễn Ngọc Trà My năm 2011, “Khởi kiện và thụ lý vụ án
hành chính – thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thanh Phương năm
2012, “Khởi kiện vụ án hành chính ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”
của Trương Thị Hà năm 2012… Tuy nhiên, các tài liệu này chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu các quy định pháp luật về khởi kiện vụ án hành chính mà trong pháp luật tố tụng

hành chính mà chưa nghiên cứu dưới góc độ pháp luật tố tụng hành chính về khởi kiện
và thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai cụ thể. Khởi kiện và thụ lý vụ án
hành chính khơng phải là một đề tài mới, nhưng có thể nói khởi kiện và thụ lý vụ án
hành chính trong lĩnh vực đất đai là đề tài khá mới mẻ. Nói cách khác, nó là chiếc
“chìa khố vàng” để giải quyết những khúc mắc của “lịng dân”.
3. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định khởi kiện và thụ lý vụ án
hành chính theo pháp luật tố tụng hành chính cùng với các quy định của pháp luật đất
đai để làm sáng tỏ chiều sâu những vấn đề lý luận và thực tiễn. Từ đó đánh giá những
ưu điểm, làm rõ những hạn chế của pháp luật tố tụng hành chính về khởi kiện và thụ lý
vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai, đồng thời đưa ra những kiến nghị hồn thiện
pháp luật tố tụng hành chính và thực thi có hiệu quả pháp luật tố tụng hành chính về
việc khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai. Góp phần đưa pháp
luật tố tụng hành chính thật sự trở thành cơng cụ hữu hiệu bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đảm bảo và tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Ý nghĩa nghiên cứu: Luận văn làm rõ những những vấn đề lý luận và thực tiễn
pháp luật tố tụng hành chính về khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất
đai của cá nhân, cơ quan, tổ chức góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn
thiện pháp luật tố tụng hành chính cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của pháp luật tố tụng hành chính về khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính nói chung,
khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai nói riêng.


4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu Luật Tố tụng hành chính là văn bản pháp luật hiện
hành trực tiếp điều chỉnh hoạt động tố tụng hành chính và các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật Tố tụng hành chính, Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi
hành về pháp luật đất đai…
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, luận văn cịn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp duy vật biện chứng, phương
pháp lịch sử cụ thể, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp thống kê… để làm rõ vai trị của pháp luật tố tụng hành chính trong
việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
6. Bố cục của đề tài
Nội dung luận văn được chia thành 2 chương. Bao gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính trong
lĩnh vực đất đai.
Chương 2: Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện về khởi kiện và thụ lý vụ án hành
chính trong lĩnh vực đất đai
Ngồi ra luận văn cịn gồm Lời mở đầu và Kết luận.


CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
1.1 Khái niệm khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai
1.1.1
Khái niệm khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “vụ là việc, sự việc hay khơng, rắc rối cần giải quyết,
án là tranh chấp quyền lợi cần được xét xử trước Tòa án”1. “Vụ án” là việc phát sinh
trên cơ sở tranh chấp về quyền lợi thuộc nhiệm vụ xét xử của Tịa án. Có quan điểm
cho rằng: “vụ án hành chính là vụ việc tranh chấp phát sinh do cá nhân, cơ quan, tổ
chức nhà nước, cán bộ, cơng chức khởi kiện u cầu Tịa án có thẩm quyền bảo vệ lợi
ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định hành chính, hành vi hành
chính…”2. Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học định nghĩa: “vụ án hành chính là vụ
án phát sinh tại Tịa hành chính do cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức khởi kiện ra

Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”3
Tuy nhiên, chỉ có hành vi khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức cho rằng quyền
và lợi ích hợp pháp của mình vị xâm phạm bởi quyết định hành chính (QĐHC), hành
vi hành chính (HVHC) thì chưa đủ để phát sinh vụ án hành chính (VAHC) mà cần có
sự thụ lý đơn khởi kiện của Tòa án khi đáp ứng các điều kiện nhất định theo quy định
pháp luật. “Vụ án hành chính là vụ án phát sinh khi cá nhân, tổ chức khởi kiện hợp lệ
các quyết định hành chính hoặc các quyết định khác theo quy định của pháp luật của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và được Tịa án có thẩm quyền thụ lý”4.
Như vậy, vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai là vụ án phát sinh khi cá nhân,
cơ quan, tổ chức khởi kiện u cầu Tịa án xem xét tính hợp pháp của QĐHC, HVHC
về quản lý đất đai của cơ quan hành chính Nhà nước (CQHCNN), cơ quan, tổ chức
khác, người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó trong việc ban hành và thực hiện
nội dung quản lý về đất đai và được Tòa án thụ lý theo quy định của pháp luật tố tụng
hành chính (TTHC).
Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm
bởi các QĐHC, HVHC về quản lý đất đai được thực hiện bằng cách thức khiếu nại
hành chính theo quy định pháp luật khiếu nại hoặc quyền khởi kiện VAHC trong lĩnh

1

Hoàng Phê, “Từ điển Tiếng Việt”, Nxb. Đà nẵng - Viện ngôn ngữ học và trung tâm Từ điển học, năm 2008,
trang 380.
2
Trường Đại học Luật Hà nội, “Giáo trình Tố tụng hành chính”, Nxb. Tư pháp, Hà nội, 2005.
3
Trường Đại học Luật Hà nội, “Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học”, Nxb. Cơng an Nhân dân, năm 1999,
trang 132.
4
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, “Giáo trình Tố tụng hành chính Việt Nam”, Nxb. Hồng đức Hội Luật gia Việt Nam, 2012.


1


vực đất đai ra Tịa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết theo trình tự, thủ tục pháp luật
TTHC quy định.
“Khởi kiện là việc người có quyền và lợi ích bị xâm phạm u cầu Tịa án có thẩm
quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”5 hay “cá nhân, cơ quan, tổ chức
yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo thủ tục do pháp luật
quy định”6. Bên cạnh đó, có thể hiểu: “Khởi kiện vụ án hành chính là hành vi tố tụng
của cá nhân, tổ chức làm đơn u cầu Tịa án có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp
của quyết định hành chính, hành vi hành chính, … mà họ cho rằng quyết định hành
chính, hành vi hành chính đó vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Hành vi khởi
kiện được thực hiện bằng việc gởi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân”7. “Khởi kiện
vụ án hành chính là hành vi tố tụng của người khởi kiện theo trình tự, thủ tục do Luật
Tố tụng hành chính quy định u cầu Tịa án có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình khi có căn cứ cho rằng đối tượng khởi kiện của người bị kiện là
trái pháp luật xâm phạm các quyền và lợi ích của người khởi kiện”8.
Như vậy, khởi kiện VAHC trong lĩnh vực đất đai là hành vi tố tụng của cá nhân, cơ
quan, tổ chức yêu cầu Tịa án có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình khi có căn cứ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp đó đang bị xâm phạm bởi các
QĐHC, HVHC về quản lý đất đai CQHCNN, cơ quan, tổ chức khác, người có thẩm
quyền trong cơ quan, tổ chức đó trong quản lý đất đai theo quy định của pháp luật
TTHC.
Khởi kiện VAHC trong lĩnh vực đất đai là giai đoạn đầu tiên trong hoạt động
TTHC, người khởi kiện tiến hành thực hiện quyền khởi kiện theo quy định pháp luật.
Trên cở sở đó, Tịa án xem xét chấp nhận việc khởi kiện để giải quyết theo thẩm
quyền. Khơng có hoạt động khởi kiện sẽ khơng có q trình TTHC tiếp theo. Như vậy,
khởi kiện có vai trị khơng thể thiếu trước khi tiến hành các giai đoạn khác để giải
quyết VAHC trong lĩnh vực đất đai.
1.1.2 Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai

Khởi kiện VAHC trong lĩnh vực đất đai là phương thức giải quyết tranh chấp hành
chính. Tuy nhiên, khơng phải mọi tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai đều
được khởi kiện ra Tòa án nhân dân (TAND) mà chỉ những tranh chấp hành chính đất
đai có đối tượng được Luật Tố tụng hành chính năm 2010 (Luật TTHC) quy định thì
5

Nguyễn Ngọc Điệp, “1200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam”, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1997, trang 351.
Trường Đại học Luật Hà Nội, “Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học”, Nxb. Cơng an Nhân dân, năm 1999,
trang 132.
7
Nguyễn Cửu Việt, “Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà nội, năm 2008, trang
308.
8
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, “Giáo trình Tố tụng hành chính Việt Nam”, Nxb. Hồng đức Hội Luật gia Việt Nam, 2012, tr.237
6

2


mới được khởi kiện. Theo quy định của khoản 2 Điều 6, Điều 138 Luật Đất đai (LĐĐ)
và Điều 28, Điều 103, Điều 264 Luật TTHC thì đối tượng khởi kiện trong lĩnh vực
quản lý Nhà nước về đất đai là “quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về
quản lý đất đai” mà người khởi kiện cho là trái pháp luật xâm phạm quyền và lợi ích
hợp pháp của mình (trừ các QĐHC, HVHC mang tính chất nội bộ).
 Về quyết định hành chính:
Theo Điều 3 Luật TTHC: “Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành
chính Nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan,
tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành
chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.” Tuy nhiên,
không phải mọi QĐHC đều được khởi kiện tại Tịa án có thẩm quyền mà chỉ những

QĐHC được pháp luật TTHC cho phép thì mới được khởi kiện tại TAND có thẩm
quyền thụ lý giải quyết.
Đồng thời, theo Điều 1 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP xác định như sau:
QĐHC thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết VAHC bằng văn
bản thể hiện dưới hình thức quyết định hoặc dưới hình thức khác như thơng báo, kết
luận, cơng văn do CQHCNN, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong
cơ quan tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội dung của QĐHC được áp dụng một lần
với một hoặc một số đối tượng cụ thể về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lí hành
chính mà người khởi kiện cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm
(trừ những văn bản thông báo của cơ quan tổ chức hoặc người có thẩm quyền của cơ
quan tổ chức trong việc yêu cầu cá nhân cơ quan tổ chức bổ sung, cung cấp hồ sơ, tài
liệu có liên quan đến việc giải quyết xử lý vụ việc cụ thể theo yêu cầu của cá nhân cơ
quan tổ chức đó) bao gồm:
Một là, QĐHC được CQHCNN, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền
trong cơ quan tổ chức đó ban hành trong khi giải quyết xử lý những việc cụ thể trong
quản lý hành chính.
Hai là, QĐHC được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội dung sửa đổi, bổ
sung, thay thế hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ QĐHC nói trên.
 Một QĐHC là đối tượng khởi kiện trong VAHC có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, quyết định phải được thể hiện dưới hình thức văn bản.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP thì các QĐHC
tuy thể hiện dưới các hình thức khác như thông báo, kết luận, công văn do CQHCNN,
cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban
hành có chứa đựng nội dung của QĐHC thì vẫn được xem là thể hiện bằng hình thức
văn bản.
3


Thứ hai, quyết định đó phải là QĐHC cá biệt.
Trong khoa học Luật hành chính Việt Nam người ta chia QĐHC ra làm ba loại:

QĐHC chủ đạo, QĐHC quy phạm, QĐHC cá biệt. Chỉ có QĐHC cá biệt mới được
khởi kiện tại TAND. Quyết định cá biệt là những quyết định chỉ áp dụng một lần đối
với một hoặc một số đối tượng cụ thể để giải quyết các trường hợp cá biệt, cụ thể và có
hiệu lực đối với một số đối tượng cụ thể để giải quyết một vấn đề cụ thể trong hoạt
động quản lý hành chính trực tiếp tác động đến quyền lợi của cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong các quan hệ xã hội.
Thứ ba, QĐHC đó có thể là QĐHC được ban hành lần đầu.
Quyết định lần đầu là quyết định được cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
trong cơ quan Nhà nước ban hành lần đầu khi xử lý một vụ việc cụ thể trong hoạt động
quản lý hành chính hoặc được ban hành sau khi có khiếu nại có nội dung sửa đổi, bổ
sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc tồn bộ QĐHC được ban hành trước đó (hướng
dẫn tại điểm a, b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP).
Thứ tư, QĐHC khơng thuộc phạm vi bí mật Nhà nước trong các lĩnh vực quốc
phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các QĐHC,
HVHC mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
 Đối tượng khởi kiện VAHC trong lĩnh vực đất đai là QĐHC về quản lý đất
đai:
Căn cứ vào quy định của Luật TTHC, đối chiếu với pháp luật đất đai ta thấy, đối
tượng khởi kiện VAHC trong lĩnh vực đất đai là QĐHC về quản lý đất đai. QĐHC về
quản lý đất đai là các quyết định bằng văn bản của các CQHCNN, cơ quan, tổ chức
hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành, được áp dụng một
lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong nội dung quản
lý Nhà nước về đất đai, bao gồm:
Một là, QĐHC về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất.
Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất là hình thức phân
phối đất đai, nhằm chuyển giao quyền sử dụng đất từ Nhà nước sang người sử dụng
đất. Tại khoản 1, 2 Điều 4 LĐĐ quy định về giao đất, cho thuê đất như sau:
- Nhà nước giao đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định hành
chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.

- Nhà nước cho thuê đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng hợp đồng
cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.

4


Cịn chuyển mục đích sử dụng đất là việc người sử dụng đất thay đổi mục đích sử
dụng đất theo nhu cầu, phù hợp với quy định pháp luật đất đai.
Theo quy định của pháp luật đất đai hiện nay, hình thức giao đất gồm: giao đất có
thu tiền sử dụng đất và giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thể xác định có
thời hạn hoặc khơng có thời hạn. Th đất gồm cho th đất thu tiền thuê đất hàng
năm và cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, cho thuê đất luôn
được quy định thời hạn sử dụng đất cụ thể.
Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất được
quy định cụ thể tại điều Điều 37 LĐĐ:
“1. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định giao đất,
cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức; giao đất đối với
cơ sở tôn giáo; giao đất, cho thuê đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
cho thuê đất đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài.
2. Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định giao đất,
cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân; giao
đất đối với cộng đồng dân cư.
3. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn cho thuê đất thuộc quỹ đất nơng nghiệp
sử dụng vào mục đích cơng ích của xã, phường, thị trấn.
4. Cơ quan có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này khơng được ủy quyền.”
Bên cạnh đó, một trong những yêu cầu mà cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao
đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất phải tuân thủ là căn cứ giao
đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất được quy định tại Điều 31,
33, 34, 35, 36 và 108 LĐĐ, Điều 30 Nghị định 181/2004/NĐ-CP, khoản 1, 2 Điều 2

Nghị định 17/2006/NĐ-CP và Điều 27 Nghị định 69/2009/NĐ-CP.
Từ những quy định trên, cá nhân, cơ quan, tổ chức cho rằng quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm bởi các QĐHC về giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất có thể khởi kiện VAHC trong lĩnh vực đất đai ra Tịa án có thẩm
quyền giải quyết trong trường hợp: giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích
sửu dụng đất khơng đúng đối tượng, khơng đúng mục đích, khơng thực hiện theo đúng
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt, không cho phép chuyển mục đích
sử dụng đất mà việc khơng cho phép này là không đúng với quy định của pháp luật,
không đúng thẩm quyền…
Hai là, QĐHC về quản lý đất đai trong trường hợp thu hồi đất.
Thu hồi đất là việc Nhà nước ra QĐHC để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại
đất đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định tại khoản 5
5


Điều 4 LĐĐ. Dẫn đến hậu quả pháp lý chấm dứt quyền sử dụng đất của người sử dụng
đất hoặc quyền quản lý đất đai của các chủ thể được Nhà nước giao quản lý.
Các trường hợp thu hồi đất được quy định tại Điều 38 LĐĐ.
Thẩm quyền thu hồi đất được quy định tại Điều 44 LĐĐ như sau:
“1. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thu hồi đất
đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá
nhân nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi
đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt
Nam.”
Và một số trường hợp thu hồi đặc biệt quy định tại khoản 2 Điều 91, khoản 2 Điều
92 LĐĐ, Điều 38 Nghị định 84/2007/NĐ-CP và khoản 1 Điều 31 Nghị định
69/2009/NĐ-CP.
Như vậy, các QĐHC về thu hồi đất ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của

người có đất bị thu hồi có quyền khởi kiện VAHC trong lĩnh vực đất đai trong các
trường hợp như: thu hồi đất khi chưa có QĐHC, không đúng thẩm quyền, không rơi
vào các trường hợp thu hồi theo quy định của pháp luật đất đai, không đúng với quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất, khi sử dụng đất không phù hợp với quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, khi người sử dụng
đất thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của người sử dụng đất…
Ba là, QĐHC về quản lý đất đai trong trường hợp trưng dụng đất.
Nhà nước trưng dụng đất có thời hạn trong trường hợp có nhu cầu khẩn cấp của
chiến tranh, thiên tai hoặc trong tình trạng khẩn cấp khác. Hết thời hạn trưng dụng đất
hoặc đã thực hiện xong mục đích trưng dụng đất, Nhà nước trả lại đất và bồi thường
thiệt hại cho người bị trưng dụng đất do việc trưng dụng đất gây ra9.
Thẩm quyền trưng dụng đất được quy định tại khoản 1 Điều 37 Nghị định
181/2004/NĐ-CP: “Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền trưng
dụng đất.”
Như vậy, người sử dụng đất có quyền khởi kiện VAHC trong lĩnh vực đất đai đối
với các QĐHC về trưng dụng đất trong một số trường hợp như: ra quyết định không
thuộc các lý do trưng dụng, không đúng thẩm quyền, không trả lại đất khi hết thời hạn

9

Khoản 1 Điều 45 Luật đất đai năm 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2010).

6


trưng dụng đất hoặc hoặc không bồi thường thiệt hại cho người bị trưng dụng do việc
trưng dụng đất gây ra…
Bốn là, QĐHC về quản lý đất đai trong trường hợp bồi thường, hỗ trợ giải phóng
mặt bằng, tái định cư cho người có đất bị thu hồi.

Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng
đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất10.
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất
thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm
mới11.
Việc Nhà nước thu hồi đất sẽ làm ảnh hưởng đến đời sống của người sử dụng đất.
Nhà nước quy định chính sách về việc bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định
cư cho người có đất bị thu hồi tại Nghị định 69/2009/NĐ-CP. Việc bồi thường trường
hợp bị thu hồi đất thì người bị thu hồi đất phải đáp ứng một trong các điều kiện và có
trường hợp bị thu hồi đất mà không được bồi thường. Nếu người bị thu hồi đất không
đáp ứng được một trong các điều kiện khơng được bồi thường thì chỉ được xem xét để
hỗ trợ như: hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề,
hỗ trợ để ổn định sản xuất và đời sống tại khu tái định cư…trên các nguyên tắc được
quy định. Nhiệm vụ thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư do Ủy ban nhân
dân (UBND) cấp tỉnh giao gồm hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cấp huyện
và tổ chức phát triển quỹ đất12.
Như vậy, người sử dụng đất bị thu hồi được quyền khởi kiện VAHC trong lĩnh vực
đất đai đối với QĐHC về bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư trong các
trường hợp: khơng được bồi thường khi có đầy đủ các điều kiện được bồi thường, bồi
thường với mức thấp hơn giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có đất bị thu hồi,
chậm thực hiện việc bồi thường theo quy định của pháp luật, bồi thường không đúng
với loại đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất đã bị thu hồi hoặc không được hỗ
trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư hoặc mức hỗ trợ thấp hơn quy định…
Năm là, QĐHC về quản lý đất đai trong trường hợp cấp, thu hồi GCNQSD đất.
Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định là
việc Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSD đất) lần đầu cho
người đó13. Thơng qua việc cấp GCNQSD đất, Nhà nước xác lập đầy đủ các căn cứ

10


Khoản 6 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003(sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2010).
Khoản 7 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003(sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2010).
12
Điều 25 Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư.
13
Khoản 3 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003(sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2010).
11

7


pháp lý để thực hiện quản lý Nhà nước về đất đai đồng thời tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
Thu hồi GCNQSD đất là việc Nhà nước thu hồi lại GCNQSD đất đã cấp khi
GCNQSD đất khơng cịn giá trị pháp lý hay cấp không đúng pháp luật.
Thẩm quyền cấp GCNQSD đất được quy định cụ thể tại Điều 52 LĐĐ:
“1. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
tổ chức, cá nhân nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở.
3. Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quy định tại
khoản 1 Điều này được uỷ quyền cho cơ quan quản lý đất đai cùng cấp.”
Trong khi đó, thẩm quyền thu hồi GCNQSD đất là do Sở Tài nguyên và Môi
trường đối với các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND cấp tỉnh cấp và thuộc
về Phịng Tài ngun và Mơi trường đối với các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
do UBND cấp huyện cấp.
Như vậy, người sử dụng đất có quyền khởi kiện VAHC trong lĩnh vực đất đai đối

với các QĐHC về quản lý đất đai nếu thuộc các trường hợp: không cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất khi người sử dụng đất có đầy đủ các điều kiện được cấp, cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sai đối tượng, cấp và thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất không đúng thẩm quyền, cấp và thu hồi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất không đúng quy định của pháp luật…
Sáu là, QĐHC về quản lý đất đai trong trường hợp gia hạn thời hạn sử dụng đất.
Thời hạn sử dụng đất là khoảng thời gian được phép sử dụng đất của người sử
dụng đất. Tùy thuộc vào các trường hợp sử dụng đất mà có pháp luật có quy định thời
hạn sử dụng đất khác nhau. Khi hết thời hạn này nếu người sử dụng đất xin gia hạn
thời hạn sử dụng đất theo nhu cầu. Điều này, đáp ứng nhu cầu sử dụng đất của người
sử dụng đất trong khi đang sử dụng có hiệu quả và chưa cần quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất.
Các trường hợp gia hạn thời hạn sử dụng đất gồm:
Một là, trường hợp hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nơng nghiệp:
Cá nhân, hộ gia đình trực tiếp sản xuất nơng nghiệ, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, làm muối sử dụng đất nông nghiệp do được Nhà nước giao, cho thuê khi hết thời
hạn sử dụng đất được tiếp tục sử dụng đất với thời hạn sử dụng đất quy định tại khoản
1 Điều 67 Luật đất đai, trừ trường hợp nhà nước có quyết định thu hồi đất quy định tại
8


các khoản 1, 4, 7, 8 và 11 Điều 38 của Luật đất đai. Trường hợp này hợp hộ gia đình,
cá nhân khơng phải làm thủ tục gia hạn và Nhà nước không thu hồi đất khi hết thời
hạn, trừ những trường hợp bắt buộc phải thu hồi.
Hai là, các trường hợp khác: người sử dụng đất phải xin gia hạn thời hạn sử dụng
đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất trước thời điểm kết thúc thời hạn sử dụng đất
sáu tháng nếu người sử dụng đất có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất thì phải làm đơn gửi
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất để xem xét, quyết định14.
Như vậy, người sử dụng đất có quyền khởi kiện VAHC trong lĩnh vực đất đai đối
với các QĐHC về gia hạn thời hạn sử dụng đất trong trường hợp: ra quyết định không

thuộc trường hợp được gia hạn, gia hạn không đúng thẩm quyền, không gia hạn thời
hạn sử dụng đất khi người sử dụng đất đáp ứng đủ các điều kiện gia hạn …
Bảy là, QĐHC về quản lý đất đai trong trường hợp giải quyết tranh chấp đất đai.
Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa
hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai15.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 264 Luật TTHC (sửa đổi khoản 2 Điều 136 LĐĐ),
quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch UBND cấp huyện hoặc cấp tỉnh
trong trường hợp các bên tranh chấp khơng có GCNQSD đất hoặc khơng có một trong
các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 LĐĐ là đối tượng khởi kiện
VAHC tại Tòa án.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai:
Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của
Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do TAND giải quyết16.
Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự khơng có GCNQSD đất hoặc
khơng có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật
này được giải quyết như sau:
Một là, trường hợp Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải
quyết mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì
có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải
quyết hoặc khởi kiện theo quy định của Luật TTHC.
Hai là, trường hợp Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải
quyết mà một bên hoặc các bên đương sự khơng đồng ý với quyết định giải quyết thì

14

Điều 34 Nghị định 181/2004/NĐ-CP về thi hành Luật Đất đai.
Khoản 26 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003(sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2010).
16
Khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003(sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2010).

15

9


có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện theo
quy định của Luật tố tụng hành chính17.
Tám là, QĐHC về quản lý đất đai trong trường hợp xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là hành vi cố ý hoặc vô ý của cá nhân,
cơ quan, tổ chức vi phạm các quy định của pháp luật về đất đai tại Điều 3 Nghị định
105/2009/NĐ-CP. Và thẩm quyền thuộc về Chủ tịch UBND các cấp và thanh tra
chuyên ngành về đất đai18.
Như vậy, nếu các QĐHC xử phạt vi phạm hành chính về đất đai mà không đúng
các trường hợp bị xử phạt và việc xử phạt không đúng thẩm quyền… mà các nhân, cơ
quan, tổ chức cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm thì có quyền khởi kiện
VAHC trong lĩnh vực đất đai tại Tịa án có thẩm quyền giải quyết.
 Hành vi hành chính:
Theo khoản 2 Điều 3 Luật TTHC: “Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan
hành chính Nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quền trong cơ
quan, tổ chức đó thực hiện hoặc khơng thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của
pháp luật.”
 HVHC là đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính có đặc điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể thực hiện HVHC: là hành vi của CQHCNN, cơ quan, tổ chức
khác, người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó. Theo khoản 2 Điều 1 Nghị
quyết số 02/2011/NQ-HĐTP hướng dẫn việc xác định khi nào là hành vi của
CQHCNN, khi nào là hành vi của cá nhân người có thẩm quyền trong CQHCNN căn
cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền và thời hạn thực hiện với nhiệm vụ công
vụ đó và phân biệt như sau:
Đối với HVHC của CQHCNN, cơ quan, tổ chức khác: là nhiệm vụ, công vụ theo

quy định của pháp luật thuộc thẩm quyền của cơ quan, tổ chức do người của cơ quan,
tổ chức thực hiện theo sự phân công, hoặc ủy quyền, ủy nhiệm thì hành vi đó là HVHC
của cơ quan, tổ chức mà khơng phải người trực tiếp thực hiện HVHC đó.
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 126 của LĐĐ thì hồ sơ chuyển đổi quyền sử dụng
đất nộp tại UBND xã, phường, thị trấn. Ông Nguyễn Văn A đã nộp hồ sơ xin chuyển
đổi quyền sử dụng đất tại UBND xã X theo đúng quy định, nhưng bà Trần Thị C là cán
bộ nhận hồ sơ của UBND xã X đã trả lại hồ sơ cho ông A và không nêu lý do của việc
trả lại hồ sơ đó. Trong trường hợp này, việc trả lại hồ sơ cho ông A là HVHC của
UBND xã X mà không phải là HVHC của bà Trần Thị C.
17
18

Khoản 2 Điều 264 Luật TTHC năm 2003(sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2010).
Xem thêm: Điều 25 – 28 Nghị định 105/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.

10


Trường hợp hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà CQHCNN, cơ quan, tổ
chức khác không thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ thì hành vi khơng thực hiện nhiệm vụ,
cơng vụ đó là HVHC của CQHCNN, cơ quan, tổ chức khác, không phụ thuộc vào việc
nhiệm vụ, công vụ đó được phân cơng, ủy quyền, ủy nhiệm cho người cụ thể nào trong
CQHCNN, cơ quan, tổ chức khác đó thực hiện.
Đối với HVHC của người có thẩm quyền: là người được giao thẩm quyền thực
hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể theo quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào việc
họ trực tiếp hay phân công, ủy quyền, ủy nhiệm cho người khác thực hiện.
Ví dụ: Theo quy định pháp luật thì Chủ tịch UBND xã H là người có thẩm quyền
tổ chức việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đất đai đối với ông D, nhưng đã ủy nhiệm cho Phó Chủ tịch UBND xã H. Trường hợp
này, việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ơng D là

HVHC của Chủ tịch UBND xã H mà không phải là HVHC của Phó Chủ tịch UBND
xã H.
Trường hợp hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà người có thẩm quyền
trong CQHCNN, cơ quan, tổ chức khác không thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ thì hành vi
khơng thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó là HVHC của người có thẩm quyền, không phụ
thuộc vào việc họ đã phân công, ủy quyền, ủy nhiệm cho người khác thực hiện.
Thứ hai, về hình thức thực hiện HVHC được thể hiện dưới dạng hành động, hoặc
khơng hành động:
Hành vi hành động (thực hiện): đó là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện
nhiệm vụ, cơng vụ theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: UBND huyện Thuận An, Bình Dương cấp GCNQSD đất số H00822/AP
ngày 18/09/2007 cho bà Nguyễn Thị Lung.
Hành vi không hành động (không thực hiện): cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan tổ chức khơng thực hiện nhiệm vụ mà họ phải thực hiện theo quy
định của pháp luật.
Ví dụ: UBND có thẩm quyền cấp GCNQSD đất đã không thực hiện việc cấp
GCNQSD đất cho chủ thể được cấp GCNQSD đất theo quy định của pháp luật.
 Đối tượng khởi kiện VAHC trong lĩnh vực đất đai là HVHC về quản lý
đất đai:
Căn cứ vào quy định của Luật TTHC, đối chiếu với pháp luật đất đai ta thấy, đối
tượng khởi kiện VAHC trong lĩnh vực đất đai là HVHC về quản lý đất đai. Các HVHC
trong quản lý đất đai là hành vi của CQHCNN, cơ quan, tổ chức khác, người có thẩm
quyền trong cơ quan, tổ chức đó khi giải quyết nhiệm vụ, cơng vụ trong lĩnh vực quản
lý Nhà nước về đất đai. HVHC về quản lý đất đai là đối tượng khởi kiện ra Toà án
11


không được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động trái với các quy định
của pháp luật về đất đai, bao gồm (nội dung về pháp luật đất đai tác giả đã phân tích
phần QĐHC):

Một là, HVHC về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất.
Hai là, HVHC về quản lý đất đai trong trường hợp thu hồi đất.
Ba là, HVHC về quản lý đất đai trong trường hợp trưng dụng đất.
Bốn là, HVHC về quản lý đất đai trong trường hợp bồi thường, hỗ trợ giải phóng
mặt bằng tái định cư sau khi thu hồi đất.
Năm là, HVHC về quản lý đất đai trong trường hợp cấp, thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất
Sáu là, HVHC về quản lý đất đai trong trường hợp gia hạn thời hạn sử dụng đất
Bảy là, HVHC về quản lý đất đai trong trường hợp giải quyết tranh chấp đất đai.
Tám là, HVHC về quản lý đất đai trong trường hợp xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai.
1.1.3
Điều kiện khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai:
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền quyết định việc khởi kiện VAHC trong lĩnh
vực đất đai, tuy nhiên, việc khởi kiện VAHC trong lĩnh vực đất đai chỉ được Tòa án
thụ lý giải quyết khi đáp ứng được những điều kiện nhất định, cụ thể:
 Điều kiện chủ thể khởi kiện VAHC trong quản lý đất đai:
Theo khoản 6 Điều 3 Luật TTHC thì “người khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ
chức khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính”,
Điều 5 Luật TTHC thì “cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành
chính để u cầu Tịa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình”. Theo Điều 9 LĐĐ
quy định người khởi kiện VAHC trong lĩnh vực đất đai:
Cá nhân: Cá nhân có quyền khởi kiện gồm cá nhân là người Việt Nam ở trong
nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất, nhận
chuyển quyền sử dụng đất; người Việt Nam định cư ở nước ngồi về đầu tư, hoạt động
văn hố, hoạt động khoa học thường xuyên hoặc về sống ổn định tại Việt Nam được
Nhà nước Việt Nam giao đất, cho thuê đất, được mua nhà ở gắn liền với quyền sử
dụng đất ở; cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo pháp luật về đầu tư được
Nhà nướcViệt Nam cho thuê đất trong trường hợp quyền của họ đã được pháp luật

Việt Nam xác định là bị xâm phạm bởi các QĐHC, HVHC trong lĩnh vực quản lý đất
đai của CQHCNN, cơ quan, tổ chức khác, người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức
đó.
12


Hộ gia đình: được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng
đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất thì việc thực hiện quyền khởi kiện thông qua chủ
hộ, hoặc người được các thành viên từ đủ 18 tuổi trở lên ủy quyền.
Cộng đồng dân cư: gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn
thơn, làng, ấp, bản, bn, phum, sóc và các điểm dân cư tương tự có cùng phong tục,
tập quán hoặc có chung dịng họ được Nhà nước giao đất hoặc công nhận quyền sử
dụng đất.
Cơ sở tôn giáo: gồm chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường, tu viện, trường đào
tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và các cơ sở khác của tôn giáo được
Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hoặc giao đất.
Cơ quan, tổ chức trong nước: bao gồm cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức kinh tế – xã hội, tổ chức sự nghiệp công,
đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức khác theo quy định của Chính phủ (sau đây
gọi chung là tổ chức) được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử
dụng đất; tổ chức kinh tế nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Tổ chức nước ngồi: có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện ngoại giao, cơ
quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngồi có chức năng ngoại giao được
Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ chức thuộc Liên hợp quốc, cơ
quan hoặc tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại diện của tổ chức liên chính phủ được
Nhà nước Việt Nam cho thuê đất.
Tổ chức nước ngoài đầu tư vào Việt Nam đầu tư vào Việt Nam theo pháp luật về
đầu tư được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất.
Khơng phải tất cả ai cũng có quyền khởi kiện cũng có thể tham gia thực hiện

quyền TTHC đó trước Tòa án mà chỉ những chủ thể khởi kiện theo quy định của pháp
luật TTHC về lĩnh vực đất đai bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức cho rằng quyền, lợi
ích hợp pháp của mình bị “tác động trực tiếp” bởi các QĐHC, HVHC về quản lý đất
đai của CQHCNN, cơ quan, tổ chức khác, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức
đó khi thực hiện cơng vụ trong hoạt động quản lý Nhà nước về đất đai trong trường
hợp:
Một là, không đồng ý với QĐHC, HVHC về quản lý đất đai của CQHCNN, cơ
quan, tổ chức khác, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó.
Hai là, đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại nhưng hết thời
gian giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại mà khiếu nại không
được giải quyết.
Ba là, đã được giải quyết nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại.
13


Bên cạnh đó, người khởi kiện VAHC trong lĩnh vực đất đai phải thỏa mãn các điều
kiện tại Điều 48 Luật TTHC, nghĩa là phải có năng lực chủ thể TTHC, bao gồm năng
lực pháp luật TTHC, năng lực hành vi TTHC:
Năng lực pháp luật TTHC: Là khả năng có các quyền, nghĩa vụ TTHC do pháp
luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp luật TTHC như nhau
trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Năng lực pháp
luật TTHC của cá nhân phát sinh từ khi cá nhân sinh ra và mất đi khi cá nhân chết, của
cơ quan, tổ chức phát sinh từ khi cơ quan, tổ chức được thành lập và chấm dứt từ thời
điểm chấm dứt.
Năng lực hành vi TTHC: Là khả năng tự mình hoặc ủy quyền cho người đại diện
tham gia TTHC thực hiện quyền, nghĩa vụ TTHC. Luật TTHC quy định khác nhau về
năng lực hành vi THC:
 Với người khởi kiện là cá nhân:
Một là, trường hợp đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực
hành vi TTHC, trừ người mất năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác

có quyền tự mình thực hiện hoặc ủy quyền cho bất kỳ ai đại diện tham gia tố tụng theo
quy định tại Điều 48, Điều 54 Luật TTHC, trừ những người không được làm đại diện
theo khoản 6, 7 Điều 54 Luật TTHC, nhằm đảm bảo người đại diện có năng lực pháp
luật TTHC, đảm bảo tính khách quan trong q trình giải quyết VAHC trong lĩnh vực
đất đai, phịng ngừa trường hợp những người tham gia có thể khơng vô tư khi tham gia
vào các quan hệ TTHC, đảm bảo tính đúng đắn của VAHC trong lĩnh vực đất đai.
Hai là, trường hợp đương sự là người chưa thành niên, người người mất năng lực
hành vi dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ TTHC thông qua người đại diện theo pháp
luật theo khoản 4 Điều 48 Luật TTHC. Người đại diện theo pháp luật là cha, mẹ đối
với con chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ theo điểm a, b
khoản 2 Điều 54 Luật TTHC.
 Người khởi kiện là cơ quan, tổ chức:
Thì việc thực hiện quyền, nghĩa vụ TTHC thông qua người đại diện theo pháp luật
(khoản 5 Điều 48 và điểm c, d, đ khoản 2 Điều 54 Luật TTHC). Người đại điện theo
pháp luật của cơ quan tổ chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức hay người được
người đứng đầu cơ quan, tổ chức ủy quyền cấp phó của mình hoặc bất cứ người nào
nhân danh mình tham gia tố tụng (trừ trường hợp bị pháp luật ngăn cấm).
 Điều kiện về thẩm quyền giải quyết VAHC trong lĩnh vực đất đai:
Thẩm quyền giải quyết VAHC trong lĩnh vực đất đai được quy định từ Điều 28
đến Điều 32 Luật TTHC. Thẩm quyền theo quy định của Luật TTHC là thẩm quyền
bắt buộc, khơng có thẩm quyền theo sự lựa chọn thỏa thuận của đương sự.
14


Thứ nhất, thẩm quyền vụ việc:
Về nguyên tắc việc giải quyết các khởi kiện về QĐHC, HVHC về quản lý đất đai
thuộc thẩm quyền của Tòa án sơ thẩm theo Điều 28 Luật TTHC. Trừ các QĐHC,
HVHC về quản lý đất đai sau không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án:
Một là, danh mục các QĐHC, HVHC về quản lý đất đai thuộc phạm vi bí mật Nhà
nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao. Nguyên nhân do các quyết

định này có tính chất quan trọng cần được áp dụng bằng cách thức kiểm tra ngoài Tòa
án.
Hai là, các QĐHC, HVHC về quản lý đất đai mang tính nội bộ của cơ quan, tổ
chức khơng phải là đối tượng khởi kiện hành chính. Bởi do tính chất và hệ quả của
chúng được coi là có mức độ quan trọng khơng cao, khơng cần thiết để Tịa án thụ lý.
Ba là, các quyết định quy phạm, là các quyết định thiết lập các quy định chung và
không áp dụng cho đích danh một người cụ thể19.
Thứ hai, thẩm quyền theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ theo Điều 29, 30 Luật
TTHC:
Một là, thẩm quyền của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi
chung là Tòa án cấp huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khởi kiện sau: khởi
kiện QĐHC, HVHC về quản lý đất đai của CQHCNN, cơ quan, tổ chức hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa
giới hành chính với Tịa án.
Hai là, thẩm quyền của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là
Tòa án cấp tỉnh) là cấp xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm, đồng thời có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm khởi kiện QĐHC,
HVHC về quản lý đất đai không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện.
 Điều kiện thời hiệu khởi kiện VAHC trong quản lý đất đai:
Mặc dù pháp luật bảo đảm quyền khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức nhưng
khơng có nghĩa quyền này được thực hiện bất cứ lúc nào mà bị giới hạn về thời gian
thực hiện - thời hiệu khởi kiện.
“Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cá nhân, cơ quan, tổ chức được quyền thực
hiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
bị xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện”20. Thời hiệu khởi kiện
là khoảng thời gian cần thiết để người khởi kiện có thời gian chuẩn bị các điều kiện và
cân nhắc, lựa chọn để bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đồng thời,
19

Nguyễn Thị Thu Hương , “Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án hành chính”. Học viện tư pháp. Nxb.

Cơng an nhân dân, 2012, tr.99.
20
Khoản 1 Điều 104 Luật Tố tụng hành chính 2010.

15


hạn chế việc khởi kiện VAHC phát sinh thường xuyên trong điều kiện hệ thống pháp
luật cịn chưa hồn chỉnh. Đặc điểm cần chú ý là khi hết thời hạn mà Luật TTHC quy
định cho các chủ thể phải thực hiện quyền khởi kiện mà họ vẫn không thể thực hiện
quyền đó mà khơng thuộc trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác thì
họ đương nhiên mất quyền khởi kiện. Tịa án xem họ là người khơng có quyền khởi
kiện và khơng có trách nhiệm tiếp nhận, thụ lý, giải quyết đơn kiện của họ21. Theo
Điều 104 Luật TTHC, thời hiệu khởi kiện là “01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết
được quyết định hành chính, hành vi hành chính”.


Về thời hiệu khởi kiện hồi tố:

Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Luật TTHC có hiệu lực, người khiếu nại đã thực
hiện việc khiếu nại QĐHC, HVHC về quản lý đất đai đến Chủ tịch UBND huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương từ ngày 01/6/2006 đến ngày 01/7/2011, nếu khiếu nại không được giải quyết
hoặc đã được giải quyết nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại thì có quyền khởi kiện tại TAND theo quy định của Luật TTHC22. Theo
hướng dẫn tại Điều 4 Nghị quyết 01/2011/NQ-HĐTP (nội dung quản lý Nhà nước về
đất đai được quy định tại khoản 2 Điều 6 của LĐĐ) Tòa án chỉ thụ lý khởi kiện
QĐHC, HVHC về quản lý đất đai đối với trường hợp:
- Việc khởi kiện được thực hiện trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày Luật TTHC có
hiệu lực (ngày 01-7-2011 đến 30/6/2012).

- Người khởi kiện đã thực hiện việc khiếu nại đến Chủ tịch UBND huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
từ ngày 01-6-2006 đến ngày Luật TTHC có hiệu lực (ngày 01-7-2011) mà khiếu
nại khơng được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng họ không đồng ý với
việc giải quyết khiếu nại và họ chưa khởi kiện VAHC tại TAND hoặc đã khởi kiện
VAHC tại TAND, nhưng Toà án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ việc giải
quyết VAHC.
- Đối với trường hợp Tịa án đã đình chỉ việc giải quyết VAHC như trên, trong
khoảng thời gian một năm kể từ ngày 01/7/2011, người khởi kiện có đơn khởi
kiện đến Tịa án thì Tòa án căn cứ vào Điều 3, Nghị quyết 56/2010/QH13 tiếp
tục thụ lý vụ án.

21

Đồn Tấn Minh (2001), Bình luận khao học Luật Tố tụng hành chính và các văn bản áp dụng giải quyết các
khiếu nại hành chính tại Tòa, Nxb. Lao động, Hà Nội, Tr.91.
22
Điều 3 Nghị quyết 56/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính.

16


 Về cách tính thời hiệu khởi kiện VAHC trong lĩnh vực quản lý đất đai:
Theo khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP quy định, để xác định thời
điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện trong các trường hợp “kể từ ngày nhận được”,
“kể từ ngày biết được” thì cần căn cứ đối tượng bị tác động trực tiếp QĐHC, HVHC
về quản lý đất đai:
Thứ nhất, QĐHC về quản lý đất đai:
Một là, đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động trực tiếp bởi QĐHC về quản
lý đất đai thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu là kể từ ngày họ nhận được QĐHC.

Trường hợp QĐHC, HVHC về quản lý đất đai tác động đến người thứ ba và người
này bị phương hại nhưng không được thông báo về QĐHC về quản lý đất đai thì thời
hạn khởi kiện được tính từ ngày người đó biết được về QĐHC về quản lý đất đai.
Ví dụ: Ngày 08/7/2011 ông N nhận được Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày
10/02/2011 của UBND quận B về việc cấp GCNQSD đất ở cho ơng với diện tích
150m2 thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện của Ơng N đối với Quyết định số
19/QĐ-UBND ngày 10/02/2011 của UBND quận B là kể từ ngày ơng N nhận được
quyết định đó (ngày 08/7/2011).
Hai là, đối với các nhân, cơ quan, tổ chức không phải là đối tượng bị tác động
trực tiếp bởi QĐHC và họ không phải là đối tượng được nhận quyết định và thực tế họ
không nhận được quyết định đó thì thời điểm bắt đầu tính thời điểm khởi kiện là ngày
họ biết được quyết định đó.
Ví dụ trên, sau khi nhận được GCNQSD đất ông N đã tiến hành xây bao diện tích
150m2 đó. Ơng Q là hàng xóm của ơng N cho rằng ơng N đã xây tường lên cả phần
diện tích đất của ơng Q. Ngày 28/7/2011, ông N đưa cho ông Q xem GCNQSD đất cấp
cho ông N và ông Q thấy rằng một phần diện tích đất mà ơng N được cấp GCNQSD
đất là phần diện tích đất của ơng Q. Trường hợp này, thời điểm bắt đầu tính thời hiệu
khởi kiện của ông Q đối với Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày 10/02/2011 của UBND
quận B kể từ ngày ông Q biết được quyết định đó (ngày 28/7/2011).
Thứ hai, HVHC về quản lý đất đai:
Một là, hành vi của CQHCNN, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền
trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ theo quy định của pháp luật thì
thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày HVHC về quản lý đất đai đó
được thực hiện (nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức đã chứng kiến HVHC về quản lý đất đai
đó) hoặc kể từ ngày được thơng báo về thời điểm HVHC về quản lý đất đai đã được
thực hiện (nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức đó khơng chứng kiến HVHC về quản lý đất
đai đó nhưng họ đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thơng báo về thời điểm
HVHC về quản lý đất đai đó đã thực hiện) hoặc kể từ ngày biết được HVHC về quản
17



lý đất đai (nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức đó khơng chứng kiến HVHC về quản lý đất
đai đó và cũng khơng được cơ quan có thẩm quyền thơng báo về thời điểm HVHC về
quản lý đất đai đã thực hiện, nhưng họ đã biết được HVHC về quản lý đất đai đó qua
các thơng tin khác như được ngươi khác kể lại).
Hai là, hành vi của CQHCNN, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền
trong cơ quan, tổ chức đó, khơng thực hiện nhiệm vụ cơng vụ theo quy định của pháp
luật thì thời điểm bắt đầu tính thời điểm khởi kiện là ngày hết thời hạn quy định của
pháp luật, mà cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức
đó, khơng thực hiện nhiệm vụ cơng vụ theo quy định của pháp luật TTHC.
 Về sự kiện bất khả kháng và trở ngại khách quan:
Thời hạn khởi kiện phải được diễn ra theo một trật tự pháp luật nhất định. Nếu
đương sự khơng có lỗi trong việc để q thời hiệu khởi kiện VAHC thì thời hiệu khởi
kiện được khôi phục lại23. Khoản 3 Điều 104 Luật TTHC quy định: “Trường hợp vì sự
kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người khởi kiện không khởi
kiện được trong thời hạn quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 điều này thì thời gian
có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác khơng tính vào thời hiệu khởi
kiện”. Thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác khơng tính
vào thời hiệu khởi kiện là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây:
Một là, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan như thiên tai, địch hoạ,
nhu cầu chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc do lỗi của cơ quan Nhà nước làm cho chủ
thể có quyền khởi kiện khơng thể khởi kiện trong phạm vi thời hiệu khởi kiện.
Hai là, chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện chưa
thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Ba là, chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lý do chính đáng khác mà
khơng thể tiếp tục đại diện được trong trường hợp người đại diện của người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
chết24.
Ngoài việc quy định thời hiệu cho từng trường hợp cụ thể, khoản 4 Điều 104 Luật
TTHC quy định: “Các quy định của Bộ luật dân sự về cách xác định thời hạn, thời

hiệu cũng được áp dụng trong TTHC.” Việc áp dụng pháp luật như vậy tạo sự thống
nhất trong áp dụng pháp luật tương tự như trên hoàn thiện hợp lý, tạo sự thống nhất
trong áp dụng pháp luật mà không khiếu cần thiết phải quy định thêm trong Luật
TTHC.
23

Nguyễn Thị Thu Hương, “Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án hành chính”, Học viện tư pháp, Nxb. Công
an nhân dân, tr.93.
24
Khoản 2 Điều 12 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật tố tụng hành chính.

18


×