Đề tài:
Khởi kiện và thụ lý
vụ án hành chính
trong lĩnh vực đất đai
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 1
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
1.1 Khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai.
1.1.1 Khái niệm khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai.
1.1.1.1 Khái niệm vụ án hành chính :
Với tư cách là chủ thể quản lý và điều hành xã hội, cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện các hoạt động của
mình thông qua nhiều hình thức khác nhau trong đó chủ yếu là ban hành
các quyết định hành chính và thực hiện hành vi để tác động đến các cá
nhân , cơ quan, tổ chức xã hội. Không phải lúc nào người dân cũng đồng ý
với sự tác động của chủ thể quản lý đó. Hơn nữa trong một số trường hợp
vì lý do nào đó mà quyết định hành chính, hành vi hành chính được ban
hành và thực hiện trái pháp luật , gây thiệt hại đến quyền, lợi ích cá nhân,
cơ quan, tổ chức trong xã hội. Điều này dẫn đến sự phản kháng của các chủ
thể này với các chủ thể có thẩm quyền quản lý nhà nước. Do đó pháp luật
đã quy định hai con đường đó là thông qua khiếu nại hành chính và thông
qua khởi kiện tại Tòa án để bên cá nhân, tổ chức được cho là yếu thế hơn
có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cuả mình khi không đồng ý với sự
tác động của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền trong cơ quan nhà
nước.
Trước ngày 01/7/1996, việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan tổ chức bị tác động bởi các quyết định hành chính, hành vi
hành chính chỉ được thực hiện bằng con đường khiếu nại hành chính thì từ
ngày 01/7/1996, cùng với sự ra đời của Tòa hành chính, quyền khởi kiện
vụ án hành chính được ghi nhận, mở rộng hơn cơ chế pháp lý cá nhân, cơ
quan, tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thực tế có nhiều khái niệm về vụ án hành chính. Trong từ điển Tiếng
Việt thì : “ vụ là việc, sự việc không hay, rắc rối cần giải quyết, án là tranh
chấp quyền lợi cần được xét xử trước Tòa án”. Như vậy, về mặt thuật ngữ,
“vụ án” là việc phát sinh trên cơ sở tranh chấp về quyền lợi thuộc nhiệm vụ
xét xử của Tào án.
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 2
Có quan điểm cho rằng : “ Vụ án hành chính là vụ việc tranh chấp hành
chính phát sinh do cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức
khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình
bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ
luật buộc thôi việc.”
Từ điển Luật học cũng đưa ra định nghĩa tương tự như vậy: “ vụ án hành
chính là vụ án phát sinh tại Tòa hành chính do cá nhân, cơ quan, tổ chức
khởi kiện ra Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.
Tuy nhiên các khái niệm, định nghĩa trên là chưa đầy đủ và đúng với bản
chất của tố tụng hành chính. Bởi nếu chỉ có hành vi khởi kiện của cá nhân,
cơ quan, tổ chức khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình đang bị
xâm phạm bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính thì chưa đủ
để phát sinh vụ án hành chính mà cần phải có sự thụ lý đơn khởi kiện của
Tòa án. Toàn án chỉ thụ lý đơn khởi kiện đó khi nó đáp ứng một số điều
kiện nhất định theo quy định của pháp luật.
Thứ nhất, có việc khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Vụ án hành chính phát sinh trên cơ sở Tòa án giải quyết tranh chấp hành
chính giữa các chủ thể quản lý nhà nước với cá nhân, cơ quan, tổ chức. Thế
nhưng, cũng là một phương thức giải quyết tranh chấp hành chính nhưng
khi thực hiện việc khiếu nại hành chính không thể làm phát sinh vụ án hành
chính. Do đó điều kiện đầu tiên để làm phát sinh vụ án hành chính , đó là
việc khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Nếu không có hành vi khởi
kiện, sẽ không có vụ án hành chính.
Tuy nhiên không phải chủ thể nào cũng đều có quyền khởi kiện vụ án
hành chính mà muốn khởi kiện vụ án hành chính, cá nhân, cơ quan, tổ chưc
ấy phải đáp ứng một số điều kiện như: điều kiện về chủ thể khởi kiện, điều
kiện về vụ việc chưa được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực của Tòa án.
Thứ hai, đơn khởi kiện được Tòa án thụ lý giải quyết.
Hành vi khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức là điều kiện cần, để vụ
án hành chính phát sinh, đơn khởi kiện phải được Tòa án thụ lý. Khởi kiện
là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức, tuy nhiên, không phải tất cả các
trường hợp khởi kiện đều được Tòa án giải quyết. Khi có đơn khởi kiện
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 3
của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tòa án sẽ xem xét các điề kiện để quyết
định có thụ lý hay không thụ lý đơn khởi kiện. Cụ thể, tòa án sẽ xem xét về
điều kiện khởi kiện. Cụ thể, Tòa án sẽ xem xét về điều kiện khởi kiện vụ
án, về việc nộp tiền tạm ứng án phí, điều kiện về thẩm quyền giải quyết của
Tòa án. Nếu thỏa mãn đầy đủ các điều kiện trên thì Tòa áb sẽ thụ lý vụ án
theo quy định của pháp luật. Tòa án sẽ trả lại đơn kiện khi việc khởi kiện
rơi vào một trong những trường hợp phápluật quy định phải trả lại đơn
kiện.
Có thể nói, hành vi khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức chỉ là điều
kiện cần, còn việc thụ lý của Tòa án là điều kiện đủ để phát sinh vụ án
hành chính . Khởi kiện vụ án hành chính là cơ sở để Tòa án thụ lý vụ án,
không có khởi kiện thì sẽ không có việc thụ lý vụ án của Tòa án. Khởi kiện
là quyền tự định đoạt thuộc về cá nhân, tổ chức, cơ quan đối với việc yêu
cầu Tòa án phán quyết về quyết định hành chính, hah2 vi hành chính mà
theo họ là trái pháp luật, xâm hại trực tiếp đền quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Khởi kiện là một sự kiện là phát sinh quan hệ giữa người khởi kiện
với Tòa án hành chính có thẩm quyền. Chức năng của Tòa án hành chính là
xét xử các vụ án hành chính để bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
khởi kiện. Do đó, khởi kiện vụ án hành chính là tiền đề đối với hoạt động
thụ lý của Tòa án. Kể từ thời điểm Tòa án thụ lý đơn khởi kiện vụ án hành
chính chính thức phát sinh.
Đặc điểm của vụ án hành chính.
- Thứ nhất, đối tượng tranh chấp trực tiếp trtong vụ án hành chính là tính
hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính. Quyền tài sản và
quyền nhân thân không phải là đối tượng tranh chấp trực tiếp của tranh
chấp hành chính.
• Thứ hai, người bị kiện trong vụ án hành chính luôn là cơ quan nhà nước
hoặc người có thẩm quyềntrong cơ quan hành chính nhà nước.
• Thứ ba, người khởi kiện luôn là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động
bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính.
1.1.1.2 Khái niệm khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai.
• Khái niệm khởi kiện vụ án hành chính:
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 4
Về bản chất, khởi kiện là việc một hoặc nhiều chủ thể (mang đầy đủ tư
cách chủ thể theo quy định của pháp luật TTHC, Điều 48 luật TTHC) đưa
một vụ việc tranh chấp ra trước cơ quan tài phán như Tòa án,…và yêu cầu
cơ quan này giải quyết theo đúng quy định của pháp luật. Tùy từng trường
hợp mà khởi kiện có thể được xem xét với tư cách là một hành vi pháp lý
hoặc một giai đoạn tố tụng.
Khởi kiện vụ án hành chính là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khỏi sự xâm hại bởi
những quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan hành
chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước theo thủ tục do pháp luật quy định.
Về thuật ngữ “khởi kiện hành chính”, đây là cách gọi tắt của “khởi kiện
vụ án hành chính” nhưng nhấn mạnh vào góc độ hành vi pháp lý của chủ
thể khởi kiện đồng thời đại diện cho một biện pháp để người đó bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Khởi kiện hành chính trước hết cũng là
khởi kiện, do đó nó mang đầy đủ những đặc điểm của hoạt động khởi kiện
nói chung, tuy nhiên do được khu biệt bởi lĩnh vực khởi kiện là những
tranh chấp hành chính nên thủ tục giải quyết loại khởi kiện này cũng được
chuyên biệt hóa: thủ tục tố tụng hành chính.
• Khái niệm khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai:
Khởi kiện trong vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai là một mảng
trong khởi kiện vụ án hành chính. Nó mang đầy đủ các đặc điểm của khởi
kiện vụ án hành chính, nhưng các đặc điểm này chỉ xoay quanh đến khởi
kiện trong vấn đề đất đai.
1.1.2 Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai:
1.1.2.1 Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính:
Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là các quyết định hành chính,
hành vi hành chính, trừ các quyết định hành chính thuộc phạm vi bí mật
nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh
mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành
chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức. Về danh sách cử tri bầu cử
đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục
trưởng và tương đương trở xuống và quyết định giải quyết khiếu nại về
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.( Điều 28 Luật TTHC năm 2010)
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 5
Quyết định hành chính: “Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan
hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền
trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể
trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một
hoặc một số đối tượng cụ thể” (khoản 1, Điều 3 TTHC năm 2010).
• Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải
quyết vụ án hành chính là văn bản được thể hiện dưới hình thức quyết
định hoặc dưới hình thức khác như thông báo, kết luận, công văn do cơ
quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm
quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội dung
của quyết định hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một
số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành
chính mà người khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị
xâm phạm (trừ những văn bản thông báo của cơ quan, tổ chức hoặc
người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu cá nhân,
cơ quan, tổ chức bổ sung, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc
giải quyết, xử lý vụ việc cụ thể theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ
chức đó), bao gồm:
• Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ
chức khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban
hành trong khi giải quyết, xử lý những việc cụ thể trong hoạt động quản
lý hành chính;
• Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội
dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết
định hành chính.
Quyết định hành chính không thể khởi kiện bao gồm quyết định hành
chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước (theo danh mục do Chính phủ quy
định) và quyết định hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức,
nghĩa là những quyết định, hành vi quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động
thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi cơ quan, tổ chức đó (Điều 28
Luật TTHC 2010).
Hành vi hành chính: Hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để
yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính là hành vi của cơ quan hành
chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền
trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công
vụ theo quy định của pháp luật. Việc xác định hành vi hành chính khi nào
là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, khi nào là của
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 6
người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức
khác và khi nào là không thực hiện nhiệm vụ, công vụ phải căn cứ vào quy
định của pháp luật về thẩm quyền, thời hạn thực hiện đối với nhiệm vụ,
công vụ đó và phân biệt như sau:
• Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công
vụ cụ thể là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác,
nhưng do người trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức
khác đó thực hiện theo sự phân công hoặc uỷ quyền, uỷ nhiệm thì hành
vi đó là hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan,
tổ chức khác mà không phải là hành vi hành chính của người đã thực
hiện hành vi hành chính đó.
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 126 của Luật Đất đai thì hồ sơ chuyển đổi
quyền sử dụng đất nộp tại UBND xã, phường, thị trấn. Ông Nguyễn Văn A
đã nộp hồ sơ xin chuyển đổi quyền sử dụng đất tại UBND xã X theo đúng
quy định, nhưng bà Trần Thị C là cán bộ nhận hồ sơ của UBND xã X đã
trả lại hồ sơ cho ông A và không nêu lý do của việc trả lại hồ sơ đó. Trong
trường hợp này, việc trả lại hồ sơ cho ông A là hành vi hành chính của
UBND xã X mà không phải là hành vi hành chính của bà Trần Thị C.
• Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công
vụ cụ thể là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước, cơ quan, tổ chức khác thì việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể
đó là hành vi hành chính của người có thẩm quyền, không phụ thuộc vào
việc họ trực tiếp thực hiện hay phân công, uỷ quyền, uỷ nhiệm cho
người khác thực hiện.
Ví dụ: Theo quy định của pháp luật thì Chủ tịch UBND xã H là người
có thẩm quyền tổ chức việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với ông D, nhưng đã ủy nhiệm cho
Phó Chủ tịch UBND xã H trực tiếp tổ chức việc cưỡng chế. Trong trường
hợp này, việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
đối với ông D là hành vi hành chính của Chủ tịch UBND xã H mà không
phải là hành vi hành chính của Phó Chủ tịch UBND xã H.
• Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công
vụ cụ thể là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác,
nhưng hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà cơ quan hành chính
nhà nước, cơ quan, tổ chức khác không thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì
hành vi không thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó là hành vi hành chính của
cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, không phụ thuộc
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 7
vào việc nhiệm vụ, công vụ đó được phân công, uỷ quyền, uỷ nhiệm cho
người cụ thể nào trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức
khác đó thực hiện.
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 7 của Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày
29-8-2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh thì Phòng đăng ký kinh
doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh A có thẩm quyền cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp được thành lập trong địa
giới hành chính tỉnh. Doanh nghiệp N đã nộp đầy đủ hồ sơ đăng ký kinh
doanh hợp lệ, nhưng quá thời hạn mà pháp luật quy định, Phòng đăng ký
kinh doanh không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh
nghiệp N. Trong trường hợp này, việc không cấp Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh cho doanh nghiệp N là hành vi hành chính của Phòng đăng ký
kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh A.
• Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công
vụ cụ thể là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước, cơ quan, tổ chức khác, nhưng hết thời hạn theo quy định của pháp
luật mà người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ
quan, tổ chức khác không thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì hành vi không
thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó là hành vi hành chính của người có thẩm
quyền, không phụ thuộc vào việc họ đã phân công, uỷ quyền, uỷ nhiệm
cho người khác thực hiện.
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 30 của Luật Cư trú thì trong thời hạn 3
ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định, Trưởng Công an
xã, phường, thị trấn phải cấp sổ tạm trú cho hộ gia đình hoặc cá nhân đề
nghị. Bà X đã nộp đủ giấy tờ theo quy định đề nghị Trưởng Công an xã N
cấp sổ tạm trú, nhưng quá thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ
giấy tờ mà Trưởng Công an xã N không cấp sổ tạm trú cho bà X. Trong
trường hợp này, việc không cấp sổ tạm trú cho bà X là hành vi hành chính
của Trưởng Công an xã N.
Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh: là quyết định của Hội đồng cạnh tranh, của Bộ trưởng Bộ Công
Thương khi giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh theo
quy định tại mục 7 Chương V của Luật Cạnh tranh năm 2004, bao gồm:
+ Quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng cạnh tranh đối với
quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh khi xử lý vụ việc cạnh
tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh.
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 8
+ Quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Công Thương đối
với quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh khi xử lý vụ
việc cạnh tranh liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Quyết định kỷ luật buộc thôi việc: là văn bản thể hiện dưới hình thức
quyết định của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ
luật buộc thôi việc đối với công chức thuộc quyền quản lý của mình (khoản
3, Điều 3 Luật TTHC năm 2010)
1.1.2.2. Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai:
Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai là các
khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai
trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt
bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
gia hạn thời hạn sử dụng đất (khoản 17, Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính 1996 – sửa đổi, bổ sung 1998,2006).
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính trước đây quy định
thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính của TAND theo phương pháp
liệt kê, tức là tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết những trường hợp được
quy định trong pháp lệnh. Nay Luật TTHC năm 2010 quy định thẩm quyền
giải quyết các vụ án hành chính theo phương pháp loại trừ. Theo đó, tòa án
có thẩm quyền giải quyết tất cả khiếu kiện về quyết định hành chính, hành
vi hành chính; trừ trường hợp thuộc bí mật nhà nước trong lĩnh vực quốc
phòng, an ninh, ngoại giao (theo danh mục do Chính phủ quy định) và các
quyết định, hành vi hành chính mang tính chất nội bộ cơ quan.
Như vậy, từ ngày 1-7-2011, ngày Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính 1996, sửa đổi bổ sung 1998, 2006 hết hiệu lực thi hành, nếu
không đồng ý với các quyết định hành chính, hành vi hành chính (bao gồm
cả quyết định giải quyết tranh chấp đất đai) và không thuộc trường hợp loại
trừ nêu trên thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện tại TAND có
thẩm quyền.
1.1.3 Chủ thể khởi kiện và điều kiện khởi kiện vụ án hành chính
trong lĩnh vực đất đai :
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 9
Khởi kiện vụ án hành chính nói chung và khởi kiện vụ án hành chính
trong lĩnh vực đất đai nói riêng đều là hành vi tố tụng của cá nhân, tổ
chức yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có căn
cứ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp đó đang bị xâm phạm bởi các khiếu
kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của pháp luật
tố tụng hành chính. Theo Luật tố tụng hành chính đã được ban hành quy
định rõ phạm vi khởi kiện cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức được quyền
khởi kiện vụ án hành chính khi cho rằng quyết định hành chính, hành vi đã
trực tiếp xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên việc thực
hiện quyền khởi kiện phải theo thủ tục do pháp luật quy định :
Chủ thể khởi kiện trong lĩnh vực đất đai là
Người khởi kiện trong VAHC liên quan đến quản lý đất đai bao gồm:
- Các tổ chức trong nước.
- Hộ gia đình, cá nhân trong nước.
- Cộng đồng dân cư.
- Cơ sở tôn giáo.
- Tổ chức nước ngoài.
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài, đầu tư vào Việt Nam.
Người khởi kiện là người có năng lực chủ thể theo quy định của pháp
luật TTHC (Điều 48 Luật TTHC năm 2010).
Ngoài ra chúng ta cũng cần xác định khác trong tố tụng hành chính
như:
Người đại diện: trong tố tụng hành chính bao gồm người đại diện theo
pháp luật và người đại diện theo ủy quyền.
Theo Điều 54 Luật TTHC năm 2010 thì
“2. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng hành chính có thể là một
trong những người sau đây, trừ trường hợp người đó bị hạn chế quyền đại
diện theo quy định của pháp luật:
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 10
a) Cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
b) Người giám hộ đối với người được giám hộ;
c) Người đứng đầu cơ quan, tổ chức do được bổ nhiệm hoặc bầu theo
quy định của pháp luật;
d) Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình;
đ) Tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác;
e) Những người khác theo quy định của pháp luật.
3. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính phải là người
từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị mất năng lực hành vi dân sự, được đương sự
hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn bản.
4. Người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo ủy quyền trong tố
tụng hành chính chấm dứt việc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự.
5. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng hành chính thực hiện các
quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính của đương sự mà mình là đại diện.
Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính thực hiện toàn bộ
các quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính của người ủy quyền. Người được ủy
quyền không được ủy quyền lại cho người thứ ba.
6. Những người sau đây không được làm người đại diện:
a) Nếu họ là đương sự trong cùng một vụ án với người được đại diện mà
quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của
người được đại diện;
b) Nếu họ đang là người đại diện trong tố tụng hành chính cho một
đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với
quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ án.
7. Cán bộ, công chức trong các ngành Toà án, Kiểm sát, Thanh tra, Thi
hành án, công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an không được
làm người đại diện trong tố tụng hành chính, trừ trường hợp họ tham gia tố
tụng với tư cách là người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là
người đại diện theo pháp luật.”
Đối với tổ chức thì các tổ chức được được thành lập và hoạt động trên
nhiều lĩnh vực khác nhau, có tư cách pháp nhận hoặc có đủ các dấu hiệu
của một tổ chức (có cơ cấu tổ chức, trụ sở, con dấu…) và phù hợp với quy
định của pháp luật.
Người bị kiện trong VAHC căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm
quyền giải quyết.
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 11
Trường hợp có nhiều luật cùng quy định thẩm quyền ra QĐHC hoặc
thực hiện HVHC về một lĩnh vực quản lý thì việc xác định thẩm quyền của
người bị kiện khi nào là cá nhân, khi nào là cơ quan phải căn cứ vào luật
chuyên ngành.
Đối với người bị kiện trong vụ án liên quan đến quản lý đất đai thì
chúng ta cần phải căn cứ vào Luật Đất đai cụ thể là:
• Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong
việc quản lý nhà nước về đất đai;
• UBND các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai và quản
lý nhà nước về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền quy định.
Thực tế cho thấy việc xác định đúng đối tượng khởi kiện vụ án hành
chính trong lĩnh vực luật đất đai không hề dễ dàng đối với người dân. Vấn
đề này một mặt do hoạt động quản lý hành chính.
Chẳng hạn như, có hai quyết định hành chính bị khởi kiện và hai quyết
định hành chính này đều do Chủ tịch UBND cấp huyện ký (một quyết định
về xử phạt vi phạm hành chính và một quyết định thu hồi đất của hộ gia
đình). Căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết các vụ
việc này thì người bị kiện trong vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định
xử phạt vi phạm hành chính là cá nhân Chủ tịch UBND cấp huyện, còn
người bị kiện trong vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định thu hồi đất
của hộ gia đình là UBND cấp huyện (Điều 44 Luật Đất đai).
1.1.4 Điều kiện khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai
1.1.4.1 Quyền khởi kiện vụ án hành chính
Căn cứ theo Điều 103 Luật TTHC, thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền khởi kiện VAHC đối với QĐHC, HVHC liên quan đến quản lý đất
đai trong trường hợp:
+ Không đồng ý với QĐHC, HVHC của cơ quan quản lý Nhà nước về
đất đai
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 12
+ Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại nhưng hết
thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại mà
khiếu nại không được giải quyết.
+ Đã được giải quyết nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại.
1.1.4.2 Thời hiệu khởi kiện
- Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 104 của Lyật TTHC thì thời
hiệu khởi kiện đối với QĐHC, HVHC, là 01 năm, kể từ ngày nhận được
hoặc biết được QĐHC, HVHC .
- Thời hiệu khởi kiện bao gồm vấn đề sau:
+ Thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện VAHC
+ Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan
+ Thời hiệu khởi kiện đối với QĐHC, HVHC liên quan đến quản lý đất
đai
Thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính
Phân biệt trường hợp “kể từ ngày nhận được”, trường hợp “kể từ ngày
biết được” (điểm a khoản 2, Điều 104) như sau:
a. Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động trực tiếp bởi
QĐHC, HVHC và họ là đối tượng được nhận quyết định thì thời điểm bắt
đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày họ nhận được QĐHC.
b. Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức không phải là đối tượng bị tác
động trực tiếp bởi QĐHC, HVHC và họ không phải là đối tượng được
nhận quyết định và thực tế là họ không nhận được quyết định đó thì thời
điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày họ biết được quyết định
đó.
c. Trường hợp hành vi của cơ quan hành chính Nhà nước, cơ quan, tổ
chức khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện
nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật, thì thời điểm bắt đầu tính
thời hiệu khởi kiện như sau:
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 13
- Kể từ ngày HVHC đó được thực hiện “nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức đã
chứng kiến việc thực hiện HVHC đó”
- Kể từ ngày được thông báo về thời điểm HVHC đó đã được thực hiện
“ nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không chứng kiến việc thực hiện HVHC đó
nhưng họ đã được cơ quan có thẩm quyền thông báo về thời điểm HVHC
đó đã được thực hiện”
- Kể từ ngày biết được HVHC đó “nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không
chứng kiến việc thực hiện HVHC đó và cũng không được cơ quan có thẩm
quyền thông báo về thời điểm HVHC đó đã được thực hiện, nhưng họ đã
biết được HVHC đó qua các thông tin khác như được người khác kể lại”.
d. Hành vi của cơ quan hành chính Nhà nước, cơ quan, tổ chức khác
hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó không thực hiện
nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật thì thời điểm bắt đầu tính
thời hiệu khởi kiện:
- Kể từ ngày hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà cơ quan, tổ chức
hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó không thực hiện
nhiệm vụ công vụ theo quy định của pháp luật
Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan
Không tính vào thời hiệu khởi kiện bao gồm:
- Thiên tai, địch họa, nhu cầu chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc do lỗi của
cơ quan Nhà nước.
- Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện chưa
thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự.
Chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lý do chính đáng khác mà
không thể tiếp tục đại diện được (người đại diện chết)
Thời hiệu khởi kiện đối với khiếu kiện QĐHC, HVHC liên
quan đến đất đai từ 1/6/2006 đến 1-7-2011
- Bộ luật TTHC có hiệu lực kể từ ngày 01-7-2011 vì vậy Tòa án chỉ thụ lý
khiếu kiện QĐHC, HVHC về quản lý đất đai đối với trường hợp:
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 14
Việc khởi kiện được thực hiện trong thời hạn 1 năm, kể từ ngày
BLTTHC có hiệu lực pháp luật (01-7-2011 đến 30-6-2012
- Người khởi kiện đã thực hiện việc khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp
huyện, Chủ tịch UBND cấp tỉnh từ ngày 01-6-2006 đến ngày Luật
TTHC có hiệu lực (ngày 01-7-2011) mà khiếu nại không được giải quyết
hoặc đã được giải quyết nhưng họ không đồng ý với việc giải quyết
khiếu nại và họ chưa khởi kiện VAHC tại Tòa án nhân dân hoặc đã khởi
kiện VAHC tại Tòa án nhân dân, nhưng Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện
hoặc đình chỉ việc giải quyết VAHC.
- Đối với trường hợp Tòa án đã đình chỉ việc giải quyết VAHC như trên,
trong khoảng thời gian 1 năm kể từ ngày 01-7-2011, người khởi kiện có
đơn khởi kiện đến Tòa án thì Tòa án tiếp tục thụ lý vụ án.
- Lưu ý:
Khi thụ lý giải quyết các khiếu kiện nêu trên ngoài việc yêu cầu
người khởi kiện cung cấp chứng cứ, tài liệu thì phải yêu cầu người khởi
kiện cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc họ đã thực hiện việc
khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp tỉnh từ ngày
01-6-2006 đến ngày BLTTHC có hiệu lực.
Trường hợp người khiếu nại không cung cấp được tài liệu, chứng cứ
chứng minh thì Tòa án yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
cung cấp cho mình tài liệu, chứng cứ về việc người khởi kiện đã thực hiện
việc khiếu nại và hồ sơ giải quyết khiếu nại (nếu có).
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thông báo là
người khởi kiện chưa thực hiện việc khiếu nại thì Tòa án không thụ lý giải
quyết
Sau khi nhận được đơn khởi kiện (theo quy định tại Điều 105 Luật
TTHC) và các chứng cứ kèm theo thì Tòa án thụ lý vụ án vào ngày người
khởi kiện xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí; trường hợp người
khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí hoặc không phải nộp tiền tạm
ứng án phí thì ngày thụ lý vụ án là ngày Thẩm phán thông báo cho người
khởi kiện biết việc thụ lý.
1.1.5 Thủ tục khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 15
Theo quy định tại điều khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai năm 2003 được
sửa đổi bổ sung, về việc khiếu nại, đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính về quản lý đấy đai như sau: về đất đai thực hiện theo quy định
của pháp luật về khiếu nại, trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính,
hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của Luật tố tụng
hành chính.
Vì vậy thủ tục khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai được
tiến hành thống nhất quản lý nhà nước về đất đai theo thủ tục Tố tụng hành
chính.
Theo quy định tại điều 106 Bộ luật tố tụng hành chính năm 2010 quy
đinh về thủ tục khởi kiện.
1. Người khởi kiện gửi đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo đến Tòa án có
thẩm quyền giải quyết các vụ án bằng các phương thức sau đây:
a) Nộp trực tiếp tại tòa án;
b) Gửi qua bưu điện.
Mà theo như quy định tại khoản 1 Điều 105 quy định đơn khởi kiện phải
có các nội dung sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn ;
b) Tòa án đươc yêu cầu giải quyết vụ án hành chính;
c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện, nguời bị kiện;
d) Nội dung quyết định hành chính,quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết
định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh nội dung
giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri, hoặc tóm tắt diễn biến của hành vi
hành chính;
đ) Nội dung giải quyết khiếu nại nếu có;
e) Các yêu cầu tòa án giải quyết nếu có:
g) Cam đoan về việc không đồng thời khiếu nại đến người có thẩm
quyền giải quyết nại.
Ngày khởi kiện được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại tòa án hoặc
ngày có dấu bưu điện nơi gửi (khoản 2 Điều 106 luật TTHC năm 2010).
Nhận đơn khởi kiện và xem xét đơn khơi kiện. ( Điều 107 Luật TTHC
năm 2010).
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 16
1. Khi tòa án nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trục tiếp tại tòa án hoặc
gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn, cấp giấy xác nhận đã nhận
đơn cho đương sự.
2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện,
chánh án tòa án phân công một thẩm phán xem xét đơn khởi kiện
3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, thẩm phán
phải xem xét đơn khởi kiện, và tài liệu kèm theo để thực hiện một trong các
thủ tục sau đây:
a) Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết;
b) Chuyển đơn khởi kiện cho tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi
kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án khác;
c) Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu thuộc một trong các trường
hợp quy định tại Điều 109 của luật này.
Trên đây là thủ tục khởi kiện các vụ án hành chính nói chung, khi đảm
bảo được các điều kiện nêu trên thi tòa án sẽ thụ lý và đưa vụ án hành
chính ra giải quyết. Còn đối với thủ tục vụ án hành chính trong lĩnh vực đất
đai, là một trường hợp đặc biệt và cụ thể, nên bên cạnh những quy định
chung được quy định trong bộ luật TTHC, thì nó còn có những quy định cụ
thể riêng liên quan tới lĩnh vực đất đai.
Ví dụ như theo khoản 2 Điều 136 của Luật Đất đai 2003 được sửa đổi bổ
sung có quy định:
Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định
tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này được giải quyết như sau:
a) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không
đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết; quyết định
của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là
quyết định giải quyết cuối cùng;
b) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không
đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường; quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và
Môi trường là quyết định giải quyết cuối cùng.
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 17
Vì vậy, khi đương sự muốn khởi kiện một vụ án hành chính liên quan tới
đất đai ra Tòa án, ngoài các nội dung được quy định tại Điều 106 bộ luật
TTHC, thì còn phải có các loại giấy tờ liên quan tới đất đai nữa.
Để đảm bảo việc thụ lý vụ án được đúng đắn thì thẩm phán được phân
công giải quyết vụ án phải xem xét nghiên cứu kỹ nội dung khởi kiện, đặc
biệt là những điểm quan trọng thể hiện trong nội dung đơn khởi kiện như:
nội dung quyết định hành chính liên quan tơi tranh chấp đất đai, hoặc quyết
định đền bù giải phóng mặt bằng chẳng hạn, ngoài ra thẩm phán còn phải
xem xét kỹ các điều kiện khác như, thời hiệu khởi kiện có còn hay không,
người khởi kiện đã có quyết định giải quyết khiếu nại hay chưa? Trong
trường hợp pháp luật quy định quyết định giải quyết khiếu nại thì họ mới
có quyền khởi kiện, người khởi kiện vụ án hành chính liên quan tới lĩnh
vực đất đai không đồng thời gửi đơn khiếu nại tới chủ tịch ủy ban nhân dân
tỉnh thành phố có thẩm quyền giải quyết.
Ngoài ra, để đảm bảo cho vụ án được khẩn trương giải quyết, đúng thời
hạn pháp luật quy định. Ngay từ khi nhận được đơn khởi kiện tòa án phải
sắp xếp thời gian làm việc, nghiên cứu các loại đơn khởi kiện, quyết định
khởi tố và các tài liệu chứng cứ liên quan tới vụ án. Từ đó đảm bảo có thể
đưa ra quyết định đúng đắn về việc thụ lý hay không thụ lý đơn khởi kiện
hay quyết định khởi kiện.
1.2. Thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai.
1.2.1 Khái niệm thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Các hoạt động để đi đến “thụ lý vụ án hành chính” là những hành vi tố
tụng đầu tiên mà Toà án phải tiến hành để đi đến quyết định có hay không
có các giai đoạn tiếp theo của vụ án hành chính. Vì vậy, có thể nói, thụ lý
vụ án hành chính trước hết là một trong những quyền và nghĩa vụ của Toà
án . Điều này xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của Toà án trong xét xử
hành chính.
Toà hành chính là cơ quan chuyên xét xử các vụ án hành chính nhằm
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan khi
có các quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm; bảo vệ pháp
chế và kỷ luật nhà nước trong quản lý hành chính. Có nghĩa là, Toà án sẽ
thụ lý vụ án nếu như việc khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức có căn
cứ pháp luật và theo trình tự do pháp luật quy định. Đồng thời, Toà án cũng
có quyền không thụ lý vụ án và trả lại đơn kiện… nếu như việc khởi kiện
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 18
của cá nhân, cơ quan, tổ chức không có căn cứ pháp luật, không tuân thủ
trình tự do pháp luật quy định. Thụ lý vụ án hành chính không chỉ là quyền
mà còn là nghĩa vụ; việc hiện hữu Toà án với tư cách là cơ quan bảo vệ
pháp luật nên Toà án không thể từ chối nghĩa vụ của mình. Nói cách khác,
Toà án sẽ phải thụ lý mà không có quyền trả lại đơn kiện hay thực hiện
những biện pháp khác nếu như việc khởi kiện của người khởi kiện theo
đúng quy định của pháp luật. Vì thế, một trong những yêu cầu đối với Toà
án khi tiến hành kiểm tra những điều kiện cần thiết để thụ lý vụ án hành
chính phải luôn luôn xuất phát từ lợi ích của những người tham gia tố tụng,
phải đảm bảo trật tự, vô tư, khách quan. Hơn nữa, một khi Toà án đã thụ lý
vụ án thì cũng có nghĩa là vụ án sẽ được giải quyết. Do vậy, nó luôn đặt ra
trách nhiệm rất lớn đối với Toà án đã thụ lý để Toà án giải quyết vụ án
hành chính có hiệu quả và đúng pháp luật.
Tóm lại, thụ lý vụ án hành chính là việc Toà án chấp nhận đơn khởi kiện
của người khởi kiện hay quyết định khởi tố của Viện Kiểm Sát theo đúng
quy định của pháp luật để vào sổ thụ lý vụ án (Giáo trình Luật tố tụng hành
chính. Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an Nhân dân- Hà Nội
2001).
Từ khái niệm thụ lý vụ án hành chính, chúng ta có thể suy ra khái niệm
thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai như sau.
Thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai là việc tòa án chấp nhận
đơn khởi kiện của người khởi kiện, liên quan tới các quyết định hành
chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà họ
không có đồng ý với các quyết định, hoặc hành vi hành chính đó,hay quyết
định khởi tố của viện kiểm sát theo đúng quy định của pháp luật để vào sổ
thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đât đai.
Giữa khởi kiện, khởi tố và thụ lý vụ án hành chính nói chung, và trong
thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đât đai nói riêng có mối quan hệ
chặt chẽ bởi những lý do sau:
Thứ nhất: Khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính là cơ sở để Toà án thụ
lý vụ án; không có khởi kiện, khởi tố thì sẽ không có việc thụ lý vụ án của
Toà án. Theo tinh thần Luật TTHC năm 2010 thì, khởi kiện là quyền tự
“định đoạt” thuộc về cá nhân, tổ chức, cơ quan đối với việc yêu cầu Toà án
phán quyết về quyết định hành chính, hành vi hành chính mà theo họ là trái
pháp luật, xâm hại trực tiếp đến quyền, lợi Ý chí hợp pháp của mình. Khởi
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 19
kiện chính vì vậy là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ giữa người
khởi kiện với Toà hành chính thuộc Toà án nhân dân có thẩm quyền. Chức
năng của Toà án nói chung và của Toà hành chính nói riêng là xét xử các
vụ án hành chính để bảo vệ quyền và lợi Ých hợp pháp của người khởi
kiện. Có thể khẳng định rằng, khởi kiện vụ án hành chính là tiền đề đối với
hoạt động thụ lý của Toà án. Khởi tố vụ án hành chính là quyền của Viện
Kiểm Sát. Việc khởi tố của cơ quan này cũng chính là hành vi tố tụng để
mở đầu cho cả quá trình Toà án giải quyết vụ án hành chính.
Thứ hai: Việc khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính có được chấp nhận
hay không lại phụ thuộc vào hoạt động thụ lý của Toà án. Toà án chỉ thụ lý
vụ án hành chính khi nó thoả mãn những căn cứ luật định. Toà án sẽ trả lại
đơn kiện khi việc khởi kiện, khởi tố rơi vào một trong những trường hợp
pháp luật quy định phải trả lại đơn kiện. Mặt khác, thông qua những trường
hợp Toà án trả lại đơn kiện sẽ làm cho việc khởi kiện tuân thủ những quy
định của pháp luật, hạn chế tình trạng khởi kiện tràn lan.
Vị trí, vai trò của thụ lý vụ án hành chính trong thủ tục tố tụng
hành chính liên quan đến lĩnh vực đất đai.
Trong hoạt động tố tụng hành chính, khởi kiện và thụ lý vụ án được coi
là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng. Trong giai đoạn này, Toà án
xem xét nội dung, thủ tục vụ án để quyết định có đưa vụ án ra Toà án xem
xét hay không. Vì vậy, việc xét xử vụ án hành chính có đúng pháp luật hay
không đúng pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động thụ lý. Nếu không
có việc thụ lý vụ án hành chính thì sẽ không có quá trình tố tụng hành
chính tiếp theo. Hơn nữa, thụ lý vụ án hành chính có ý nghĩa pháp lý quan
trọng, vì nó đặt trách nhiệm của Toà án là phải giải quyết vụ án trong thời
hạn pháp luật quy định kể từ ngày thụ lý vụ án. Để hiểu rõ được vị trí, vai
trò của thụ lý vụ án trong thủ tục tố tụng hành chính cần thiết nắm được
quá trình tố tụng hành chính khi giải quyết một vụ án hành chính.
Hoạt động tố tụng giải quyết các vụ án hành chính phải trải qua nhiều
giai đoạn khác nhau, từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc vụ án. Đây là trình
tự có tính chất bắt buộc trong việc giải quyết vụ án.
Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn khởi kiện, khởi tố và thụ lý vụ án. Nếu
như khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính là quyền của người khởi kiện và
của Viện Kiểm Sát thì thụ lý vụ án hành chính được xem là quyền và nghĩa
vụ của Toà án. Việc chấp nhận đơn của người khởi kiện, quyết định khởi tố
của Viện Kiểm Sát và vào sổ thụ lý vụ án của Toà án có một ý nghĩa hết
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 20
sức quan trọng, không chỉ chính thức làm phát sinh trách nhiệm của Toà án
trong việc giải quyết vụ án hành chính, mà còn giúp cho Toà án có những
nhận định ban đầu cần thiết về tình trạng tranh chấp hành chính, phương
hướng giải quyết vụ việc và hạn chế tình trạng thụ lý những vụ việc không
thuộc thẩm quyền xét xử hành chính của mình, là cơ sở để Toà án nhân dân
tiến hành việc giải quyết vụ án hành chính, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Với ý nghĩa đó, thụ lý vụ án hành chính không chỉ có
vị trí, vai trò trong giai đoạn này mà còn có vai trò, vị trí không thể thiếu
trước khi tiến hành các giai đoạn khác của việc giải quyết một vụ án hành
chính.
Giai đoạn chuẩn bị xét xử là giai đoạn tiếp theo sau khi có quyết định
thụ lý vụ án hành chính của Toà án. Trong trường hợp Toà án trả lại đơn
kiện thì sẽ không tồn tại giai đoạn này. Do đó, việc thụ lý vụ án hành chính
là cơ sở cần thiết để Toà án có thẩm quyền tiến hành thu thập chứng cứ,
xác minh các tình tiết liên quan đến vụ án bằng những biện pháp khác
nhau, bước đầu nhận định bản chất của quyết định, hành vi hành chính bị
kiện để từ đó có thể ra mét trong các quyết định: Quyết định đưa vụ án ra
xét xử, quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án, đình chỉ việc giải
quyết vụ án.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là giai đoạn tiếp tục sau khi
có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Toà án có thẩm quyền. Trong giai
đoạn này, những tình tiết, tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp từ
giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án… sẽ là cơ sở quan trọng trong việc ra
phán quyết về tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và quyết định việc bồi thường thiệt
hại (nếu có) cho người khiếu kiện. Mặt khác, việc thụ lý đơn khiếu kiện
hành chính còn làm phát sinh những quyền hạn cụ thể của Toà án trong xét
xử hành chính. Toà án chỉ sử dụng những quyền hạn đó trong quá trình giải
quyết những vụ án đã được thụ lý. Một khi đơn kiện đã được thụ lý thì
cũng có nghĩa vụ án hành chính đã phát sinh và vụ án đó phải được giải
quyết bằng bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án.
Ngoài ra, trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hành chính, giai đoạn
giám đốc thẩm, tái thẩm, giai đoạn thi hành bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật, việc thụ lý vụ án hành chính cũng có ý nghĩa quan trọng, góp
phần bảo vệ quyền và lợi Ých hợp pháp của cá nhân, tổ chức, cơ quan…
Cũng cần bàn thêm rằng, trường hợp những bản án hay quyết định của
Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, nhưng bản án hay quyết
định này bị Viện Kiểm Sát cùng cấp hoặc trên một cấp kháng nghị hoặc bị
kháng cáo của những chủ thể có quyền theo quy định của Điều 55 Pháp
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 21
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và việc kháng cáo đó trong
thời hạn pháp luật quy định,… thì Toà án cũng vẫn phải tiến hành thụ lý vụ
án hành chính ở cấp phúc thẩm (Tuy nhiên, ở cấp phúc thẩm, việc thụ lý
này không tách riêng thành một giai đoạn độc lập như khi xét xử sơ thẩm
vụ án hành chính).
Việc phân định các giai đoạn tố tụng của vụ án hành chính chỉ mang tính
chất tương đối. Thực tế áp dụng các giai đoạn này diễn ra liên tục, tạo nên
sự liên hoàn trong khi giải quyết vụ án hành chính.
Như vậy, để đảm bảo cho việc ra được bản án hoặc quyết định của Toà
án phù hợp với thực tế khách quan, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp
của nhà nước cũng như của người khởi kiện, hoạt động thụ lý vụ án hành
chính chiếm vai trò quan trọng, làm cơ sở pháp lý cho các giai đoạn tiếp
theo của quá trình giải quyết vụ án hành chính. Mặt khác, thụ lý vụ án hành
chính còn góp phần giảm bớt những mâu thuẫn, tranh chấp kéo dài trong
nội bộ nhân dân, tạo niềm tin cho các cơ quan pháp luật nói chung và Toà
án nói riêng.
Điểm quan trọng nhất của thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai
là cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án sau khi nhận được đơn kiện
trong thời gian nhất định phải ra được một trong các quyết định: Quyết
định thụ lý vụ án hoặc quyết định trả lại đơn kiện cho người khởi kiện khi
có những căn cứ nhất định.
Khi đã thừa nhận khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính là giai đoạn đầu
tiên của tố tụng hành chính thì giai đoạn này bao giờ cũng có thời điểm bắt
đầu và thời điểm kết thúc. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn này được tính
từ khi Toà án nhận được đơn kiện của người khởi kiện và thời điểm kết
thúc được tính từ khi Toà án có một trong các quyết định kể trên. Tuy
nhiên, còn có những Toà án chưa nhận thức hết vị trí, tầm quan trọng của
thụ lý vụ án hành chính dẫn đến tình trạng thụ lý chậm, kéo dài, nhiều
trường hợp nhận đơn khởi kiện một vài tháng mới xem xét để thụ lý. Việc
thụ lý chậm, kéo dài đã vi phạm các quy định của pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
các cá nhân, tổ chức dễ dẫn đến bức xúc mà vi phạm hình sự.
1.2.2 Thẩm quyền thụ lí vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai :
Thẩm quyền chung
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 22
Tòa án chỉ thụ lý các khiếu kiện Quyết định hành chính, hành
vi hành chính về quản lý đất đai trong các lĩnh vực sau đây:
1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai
và tổ chức thực hiện các văn bản đó;
2. Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành
chính, lập bản đồ hành chính;
3. Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản
đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất;
4. Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
5. Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử
dụng đất;
6. Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất;
7. Thống kê, kiểm kê đất đai;
8. Quản lý tài chính về đất đai;
9. Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường
bất động sản;
10. Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất;
11. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất
đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai;
12. Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi
phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai;
13. Quản lý các hoạt động dịch vụ công khai về đất đai
Thẩm quyền theo cấp tòa án:
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 23
- Đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm đối với các Quyết định hành chính, hành vi
hành chính liên quan đến quản lý đất đai của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Đối với Tòa án cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết
theo thủ tục sơ thẩm đối với các Quyết định hành chính, hành vi hành
chính liên quan đến quản lý đất đai của UBND cấp huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh và của UBND xã, phường, thị trấn
Thẩm quyền trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại đến người có
thẩm quyền giải quyết, vừa có đơn khởi kiện đối với quyết định hành
chính, hành vi hành chính liên quan đến quản lý đất đai
1. Tòa án phải yêu cầu người khởi kiện làm văn bản lựa chọn cơ quan giải
quyết (hoặc Tòa án hoặc cơ quan quản lý về đất đai cấp trên); trường hợp
người khởi kiện không làm được văn bản lựa chọn thì Tòa án phải lập biên
bản về việc người khởi kiện lựa chọn cơ quan giải quyết.
2. Trường hợp QĐHC, HVHC chỉ liên quan đến một người:
+ Lựa chọn Tòa án giải quyết: Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, đồng thời
thông báo cho người có thẩm quyền của cơ quan hành chính cấp trên giải
quyết khiếu nại biết và yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại
cho Tòa án (nếu có)
+ Lựa chọn người có thẩm quyền của cơ quan hành chính cấp trên giải
quyết: Tòa án căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 109 của BLTTHC trả lại
đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo. Nếu hết thời hạn giải quyết khiếu
nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng
người khiếu nại không đồng ý và có đơn khởi kiện vụ án hành chính thì
Tòa án xem xét để tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung.
3. Trường hợp QĐHC, HVHC có liên quan đến nhiều người
+ Chỉ có một người vừa khởi kiện VAHC tại Tòa án có thẩm quyền,
đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền thuộc cơ quan hành
chính cấp trên giải quyết khiếu nại, những người khác còn lại không khởi
kiện, không khiếu nại thẩm quyền giải quyết được thực hiện như trong
trường hợp hai.
+ Trường hợp có nhiều người vừa khởi kiện VAHC tại Tòa án có thẩm
quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại và những người này đều lựa chọn một trong hai cơ quan có thẩm
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 24
quyền giải quyết thì thẩm quyền giải quyết được thực hiện như trong
trường hợp 2.
+ Trường hợp có nhiều người vừa khởi kiện VAHC tại Tòa án có thẩm
quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết đơn
khiếu nại, trong đó có một hoặc một số người lựa chọn Tòa án giải quyết
và một hoặc một số người lựa chọn người có thẩm quyền giải quyết phân
biệt như sau:
- Trường hợp quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện và người khiếu
nại độc lập với nhau thì người khiếu nại ở cơ quan nào thì cơ quan đó giải
quyết (TA thông báo với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại).
- Trường hợp quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện không độc lập
với nhau thì TA giải quyết và thông báo và yêu cầu chuyển hồ sơ giải
quyết khiếu nại.
1.2.3 Điều kiện thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai :
Giống như đã nói ở trên, thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai
là một mảng trong thụ lý vụ án hành chính, do đó nó có đầy đủ các điều
kiện thụ lý vụ án hành chính thông thường. Tòa án quyết định thụ lý
VAHC khi có đủ các điều kiện sau (bao gồm cả việc bảo đảm điều kiện
khởi kiện khởi tố VAHC):
- Chủ thể khởi kiện VAHC phải có năng lực hành vi tố tụng hành chính.
Căn cứ theo Điều 48 Luật TTHC năm 2010.
1. Năng lực pháp luật tố tụng hành chính là khả năng có các quyền,
nghĩa vụ trong tố tụng hành chính do pháp luật quy định. Mọi cá nhân, cơ
quan, tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng hành chính như nhau trong
việc yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Năng lực hành vi tố tụng hành chính là khả năng tự mình thực hiện
quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính hoặc ủy quyền cho người đại diện
tham gia tố tụng hành chính.
3. Trường hợp đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng
lực hành vi tố tụng hành chính, trừ người mất năng lực hành vi dân sự
hoặc pháp luật có quy định khác.
Lớp Hành chính 1-k35 Trang 25