Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Nguyên tắc khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

---------***---------

BÙI TRƢƠNG NGỌC QUỲNH

NGUYÊN TẮC KHI XÉT XỬ, THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM
ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN CỬ NHÂN LUẬT

Chuyên ngành LUẬT HÌNH SỰ

Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Võ Thị Kim Oanh

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


Lời cảm ơn
Để hồn thành khóa luận này, em xin tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến Cơ TS. Võ
Thị Kim Oanh, đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết khóa luận tốt
nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn q Thầy, Cơ trong khoa luật Hình sự nói riêng
và các Thầy, Cô trong Trường Đại học luật TP. Hồ Chí Minh nói chung đã tận tình
truyền đạt kiến thức trong bốn năm học. Với vốn kiến thức tiếp thu được trong q
trình học khơng chỉ là nền tảng cho q trình nghiên cứu khóa luận mà cịn là hành
trang quý báu để em bước vào đời một cách vững chắc và tự tin.
Con xin gửi lời biết ơn đến gia đình, nơi đã sinh thành, ni dưỡng và động
viên con rất nhiều trong suốt thời gian qua.


Cuối cùng em kính chúc q Thầy, Cơ dồi dào sức khỏe và thành công trong
sự nghiệp trồng người.
Chân thành cảm ơn
SV: Bùi Trương Ngọc Quỳnh


Mục lục
trang
MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC KHI XÉT XỬ,
THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP
LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ……………………………………

4

1.1 Khái niệm nguyên tắc cơ bản của luật Tố tụng hình sự……………..

4

1.1.1 Định nghĩa nguyên tắc cơ bản……………………………………….

4

1.1.2 Đặc điểm của nguyên tắc cơ bản…………………………………….

7


1.1.3 Nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật – nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự………………

9

1.1.4 Cơ sở quy định nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Tố tụng hình sự……………………...

13

1.1.5 Ý nghĩa của nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập
Và chỉ tuân theo pháp luật…………………………………………………

16

1.2 Sơ lƣợc lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc Khi xét xử
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Tố
tụng hình sự ………………………………………………………………

18

1.2.1 Giai đoạn trước năm 1945…………………………………………….

18

1.2.2 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988………………………………..

20

1.2.3 Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003………………………………..


23

1.3 Nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật theo quy định của một số nƣớc trên thế giới……………
CHƢƠNG 2. NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC KHI XÉT XỬ, THẨM

24


PHÁN VÀ HỘI THẨM ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONGBỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003………………….. 27
2.1 Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập………………………… 27
2.1.1 Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với Cơ quan Điều tra và
Viện kiểm sát……………………………………………………………….

27

2.1.2 Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với Tòa án cấp trên….. .

30

2.1.3 Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với các cơ quan Nhà nước
khác……………………………………………………………………….. .

31

2.1.4 Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với nhau………………

34


2.1.5 Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chịu sự lãnh đạo của
Đảng……………………………………………………………………….

36

2.2 Sự tuân thủ pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử trong
Tố tụng hình sự……………………………………………………………

39

2.3Mối quan hệ tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán
và Hội thẩm………………………………………………………………..

41

2.4 Cơ chế đảm bảo thực hiện nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật………………………………….. 42
2.4.1 Đảm bảo về phương thức tổ chức Tòa án……………………………

42

2.4.2 Đảm bảo về cơng tác quản lý Tịa án………………………………..

45

2.4.3 Đảm bảo hệ thống pháp luật hoàn chỉnh…………………………….

47


2.4.4 Đảm bảo về đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm……………………….

50

CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN
NGUYÊN TẮC KHI XÉT XỬ, THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM ĐỘC


LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT…………………………….... . 54
3.1 Thực tiễn áp dụng nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật………………………………………

54

3.1.1 Những kết quả đạt được……………………………………………..

54

3.1.2 Những hạn chế, vướng mắc…………………………………………

61

3.2 Định hƣớng hoàn thiện nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội
Thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật………………………………

67

3.2.1 Nhu cầu đổi mới và hoàn thiện nguyên tắc…………………………

67


3.2.2Một số định hướng nhằm nâng cao việc thực hiện nguyên tắc Khi xét
xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật…………

69

Kết luận………………………………………………………………….

80

Danh mục tài liệu tham khảo


Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xét xử là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước. Vì vậy, xét xử phải tuân thủ
các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Bộ máy Nhà nước nói chung, đồng thời phải
tuân thủ những nguyên tắc đặc thù của hoạt động xét xử, tuân thủ các quy trình ,
thủ tục tố tụng chặt chẽ để trở thành sức mạnh hữu hiệu nhằm thực hiện mục tiêu
bảo vệ pháp luật, duy trì cơng lý. Kết quả thực hiện quyền tư pháp ảnh hưởng trực
tiếp đến niềm tin nội tâm của quần chúng nhân dân vào Nhà nước và chế độ xã hội,
là thước đo mức độ dân chủ của Nhà nước, tính nhân văn, nhân đạo của pháp luật
và ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp
quyền.
Trong Bộ máy Nhà nước, Tòa án được xác định là cơ quan duy nhất có chức
năng xét xử nhân danh Nhà nước và pháp luật, là nơi thể hiện tập trung nhất nền
công lý cho nên việc cải cách về tổ chức và hoạt động của Tòa án được xem là
khâu then chốt trong chiến lược cải cách tư pháp. Tịa án chỉ có thể thực hiện tốt
chức năng của mình khi Tịa án thực sự khơng chịu ảnh hưởng của bất kỳ yếu tố
nào và chỉ tuân theo quy định của pháp luật trong hoạt động xét xử. Từ đó mới tạo

điều kiện cho Tịa án xét xử cơng minh, hạn chế được tình trạng oan sai và trách bỏ
lọt tội phạm. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động, Tịa án vẫn chưa có một vị thế
độc lập mà còn bị tác động bởi nhiều yếu tố bên trong cũng như bên ngoài bởi các
lý do khách quan cũng như chủ quan. Vì vậy, trên thực tế nguyên tắc “Khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” vẫn còn bị vi phạm,
trong khi các quy định của pháp luật hiện hành chưa thể đảm bảo cho nguyên tắc
này được thực hiện tốt trên thực tế. Chất lượng xét xử chưa cao, tình trạng oan sai,
bỏ lọt tội phạm và làm oan người vơ tội vẫn cịn. Trong khi đó, Tịa án là nơi nhân
danh cơng lý, mang lại cơng bằng cho xã hội cho nên vấn đề “độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật” trong hoạt động xét xử càng trở nên ý nghĩa và trở thành yêu cầu
cấp thiết. Đây là một vấn đề quan trọng thuộc về chức năng xét xử của Tòa án mà
bất kỳ một thiết chế nào cũng cần đến nhưng chưa được quan tâm đích đáng.
Xuất phát từ tình hình đó, chúng tơi lựa chọn đề tài “Khi xét xử, Thẩm phán và
Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” làm khóa luật tốt nghiệp cử nhân luật.
Qua đó đóng góp những ý kiến bàn luận thêm về nguyên tắc cũng như đưa ra các
cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế.


2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật cũng đã được một số nhà nghiên cứu luật học quan tâm nghiên cứu.
Có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như “Tìm hiểu nguyên tắc xét
xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” của
Hoàng Thị Sơn (Tạp chí luật học số 5/ 2006), “Một số biện pháp đảm bảo thực hiện
nguyên tắc: khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
của tác giả Phạm Hồng Hải (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 5/ 2003), “Sự độc
lập của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền” của tác giả Bùi Ngọc Sơn(Tạp chí
nghiên cứu lập pháp số 4/ 2003), “Một số yếu tố ảnh hưởng tới nguyên tắc: Thẩm
phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” của Nguyễn Ngọc Chí
(Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2/ 2009), “Những hạn chế trong quy định của

BLTTHS về giới hạn xét xử sơ thẩm” của tác giả Nguyễn Thị Kim Thanh (Tạp chí
Tịa án nhân dân số 20/ 2010). Bên cạnh đó cịn có giáo trình luật TTHS các
trường: Đại học Luật Hà Nội, Đại học khoa học Huế, Đại học An Ninh, các sách
chuyên khảo như Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Những nguyên tắc cơ
bản trong Tố tụng hình sự Việt Nam…
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng nguyên
tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” hiện
nay. Đánh giá những ưu điểm, hạn chế và thiếu sót trong những quy định pháp luật
hiện hành về vấn đề này. Từ đó, đề xuất những giải pháp khắc phục và hướng hoàn
thiện
4. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, cơ sở pháp lý quy định và
thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật trong TTHS Việt Nam
Số liệu, dẫn chứng trong khóa luận được phân tích, chỉ dẫn trong hoạt động xét
xử của Tòa án tối cao và một số Tịa án khu vực phía Nam
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, tác giả còn sử


dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: so sánh, phân tích, tổng hợp,…
trên cơ sở lý luận khoa học Tố tụng hình sự để tiếp cận và làm sáng tỏ nội dung của
đề tài.
6. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Nhận thức chung về nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Chương 2: Nội dung của nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và định hướng hoàn thiện nguyên tắc Khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Tố tụng hình sự.


Chƣơng 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC KHI XÉT XỬ, THẨM
PHÁN VÀ HỘI THẨM ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT
1.1 Khái niệm nguyên tắc cơ bản của luật TTHS
1.1.1 Định nghĩa nguyên tắc cơ bản
Như chúng ta đã biết, hành vi của con người được bắt nguồn từ sự nhận thức
của họ về thế giới khách quan, chịu sự điều chỉnh của lý trí và nhằm hướng đến
một mục đích nhất định. Theo lý luận nhận thức của triết học Mác – Lê nin, hoạt
động nhận thức của con người ln đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính,
từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng, bao gồm rất nhiều giai đoạn để cuối
cùng đạt được chân lý khách quan. Như vậy, để có được hành động đúng, con
người phải nhận thức đúng, mà để có được nhận thức đúng, con người phải có
phương pháp nhận thức khoa học. Khác với nghĩa thơng thường, theo nghĩa khoa
học thì phương pháp là “hệ thống những nguyên tắc mà chủ thể phải thực hiện nhất
quán trong hoạt động nhận thức và hoạt động thưc tiễn nhằm đạt được mục đích đề
ra”. Vì vậy, trong hầu hết hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động tư duy,
nguyên tắc là điều phổ biến và không thể thiếu. Cũng giống như người đi biển cần
la bàn để định hướng, các hoạt động của con người cũng cần đến những nguyên tắc
để đảm bảo cho tính đúng đắn của mình.
Pháp luật là hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, xuất hiện gần như đồng thời
với sự xuất hiện của Nhà nước. Mặc dù là sản phẩm của hoạt động tư duy mang
nhiều yếu tố chủ quan (tính giai cấp) nhưng pháp luật cũng phản ánh những yêu
cầu khách quan của xã hội, phù hợp với các quy luật khách quan của xã hội. Chính
vì vậy, pháp luật được xây dựng và áp dụng dựa trên những nguyên tắc nhất định

bởi vì, nguyên tắc đảm bảo cho tính hai mặt của pháp luật: mặt chủ quan “quy tắc
cơ bản của hành động, phù hợp với các quy luật” và mặt khách quan “những tư
tưởng chỉ đạo, định hướng”. Với tư cách là một bộ phận của pháp luật nói chung,
pháp luật TTHS cũng khơng thể nằm ngồi quy luật đó, cũng cần phải có những
ngun tắc.
Mục tiêu quan trọng của TTHS là phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành
vi phạm tội để bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân nên hoạt động tố tụng là
một quá trình phức tạp bao gồm các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Ở
mỗi giai đoạn các chủ thể khác nhau có những nghĩa vụ nhất định. Nhưng để giải


quyết đúng đắn các VAHS thì mọi hoạt động tố tụng phải tuân thủ triệt để các quy
định của pháp luật mà trước hết là các nguyên tắc tố tụng
Theo Từ Điển Tiếng Việt, nguyên tắc với nghĩa chung nhất được hiểu là:
“Điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loại việc làm”1. Như vậy,
nguyên tắc được hiểu với nghĩa là tư tưởng chỉ đạo, quy tắc cơ bản của một hoạt
động nào đó. Trong quá trình giải quyết VAHS để thực hiện được mục đích phát
hiện nhanh chóng, kip thời, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo
các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân cần phải có những định hướng trong
việc xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS. Những định hướng này thể hiện quan
điểm, đường lối và chính sách hình sự của Nhà nước ta trong việc đấu tranh, xử lý
tội phạm trong từng giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án và được gọi là nguyên
tắc của luật TTHS.
Tuy nhiên, một vấn đề cần đặt ra là có phải tất cả các nguyên tắc được thể
chế hóa thành luật đều là nguyên tắc cơ bản hay khơng? Nhìn chung trong lý luận
khoa học pháp lý thường đề cập đến những nguyên tắc cơ bản của các ngành luật
nhưng chưa thấy ai đề cập đến nguyên tắc không cơ bản.
Là nguyên tắc của một ngành luật luôn mang những giá trị nhất định. Tuy
nhiên nên phân biệt hai khái niệm này vì đã gọi là nguyên tắc cơ bản thì theo lơgic
suy luận cũng phải có ngun tắc khơng cơ bản. Tiêu chí để phân biệt chúng là tầm

quan trọng của nguyên tắc đối với ngành luật, đồng thời nội dung của nguyên tắc
phải thể hiện được tính đặc thù của ngành luật đó để có thể phân biệt với ngành luật
khác. Sự tồn tại của nguyên tắc cơ bản là không thể thiếu trong hệ thống các
nguyên tắc của ngành luật đó.
Trong hệ thống quy phạm pháp luật TTHS, nguyên tắc TTHS chiếm một vị trí
quan trọng. Nó thể hiện bản chất của TTHS, là cơ sở cho mọi hoạt động của TTHS.
Tuy vậy, hiểu như thế nào là nguyên tắc cơ bản của TTHS cịn có nhiều quan điểm
khác nhau.
- Trong đề tài khoa học: “Mấy vấn đề về nguyên tắc TTHS khi xây dựng
BLTTHS”, tác giả Nguyễn Quốc Việt định nghĩa về nguyên tắc cơ bản của

1

Từ điển Tiếng Việt năm 2002


TTHS: “là những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động TTHS hoặc với
một loại hoạt động nhất định”.
- Tác giả Trần Thế Vượng định nghĩa nguyên tắc cơ bản của TTHS “là những
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xun suốt tồn bộ q trình các chế định pháp
luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về TTHS”
- Riêng hai tác giả Hoàng Thị Sơn và Bùi Kiên Điện lại cho rằng đó là:
“những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động TTHS và được
các văn bản TTHS ghi nhận”
- PGS.TS Lê Cảm thì đó là: “tư tưởng chủ đạo và định hướng cơ bản được thể
hiện trong pháp luật TTHS, cũng như việc giải thích và trong thực tiễn áp
dụng pháp luật TTHS thông qua một, hay nhiều quy phạm (chế định) của nó
– của nguyên tắc tương ứng mà ta nghiên cứu”.
Như vậy, hiện đang có nhiều quan niệm về nguyên tắc cơ bản của luật TTHS
với các cách tiếp cận khác nhau. Mỗi cách tiếp cận đều có hạt nhân hợp lý làm cơ

sở cho quan niệm của mình. Tuy nhiên, các ý kiến trên đều nhấn mạnh đến “tính
chỉ đạo” của nguyên tắc TTHS, nhưng tư tưởng chỉ đạo và quan điểm chỉ đạo được
pháp luật ghi nhận là hai khái niệm khác nhau. Tư tưởng chỉ đạo không được ghi
nhận trong pháp luật thì khơng ràng buộc người và cơ quan tiến hành tố tụng khi thi
hành nhiệm vụ. Còn quan điểm mang tính chỉ đạo được pháp luật ghi nhận sẽ trở
thành yêu cầu pháp luật bắt buộc phải tuân theo khi tiến hành các hoạt động tố
tụng. Do vậy, những tư tưởng khơng đươc pháp luật cơng nhận thì khơng thể trở
thành ngun tắc mà nó phải được thể chế hóa trong các quy định của pháp luật
TTHS thì mới trở thành nguyên tắc cơ bản của TTHS.
Đối với ý kiến cho rằng, nguyên tắc cơ bản của TTHS là những phương châm,
định hướng chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng thì chưa chính xác vì có những
ngun tắc chỉ quy định cho một hay một số giai đoạn tố tụng mà thơi nhưng nó
cũng mang tính chỉ đạo đối với hoạt động tố tụng trong các giai đoạn đó và được
quy định trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự.
Cũng khơng thể cho rằng ngun tắc cơ bản của luật TTHS là những quy định
cơ bản, chung nhất được ghi nhận trong luật hoặc được rút ra từ những quy phạm
pháp luật chung nhất vì trong các quy phạm pháp luật chung nhất không phải quy
định nào cũng là nguyên tắc: trong những quy định chung có những quy định là
nguyên tắc, có những quy định về nhiệm vụ của luật hay quy định chung về ngành
luật.


Nhìn chung, các định nghĩa vẫn cịn mang tính chủ quan vì đều đề cập đến tính
chỉ đạo và chi phối của nguyên tắc mà chưa thấy được đặc điểm của các nguyên tắc
TTHS là bản thân nó đã mang tính khách quan vì vốn đã tồn tại từ trước đó trong
q trình giải quyết vụ án chứ khơng phải do ý chí chủ quan của nhà làm luật. Vai
trị của nhà làm luật khơng có gì khác hơn đó là quan sát, tập hợp, phân tích, đánh
giá và đi đến khâu cuối cùng là đề lên thành luật. Như vậy, bản thân các nguyên tắc
đã tồn tại sẵn và chi phối các hoạt động tố tụng chứ không phải do được thể chế
hóa mà trở thành quy định chỉ đạo đối với các quy định khác. Từ những phân tích

trên, chúng ta có thể hiểu về ngun tắc cơ bản của luật TTHS như sau: “Nguyên
tắc cơ bản của luật TTHS là những phương châm, định hướng chi phối tất cả hoặc
một số hoạt động TTHS, được các văn bản pháp luật ghi nhận”2.
1.1.2 Đặc điểm của nguyên tắc cơ bản
Hoạt động TTHS là hoạt động liên quan đến các quyền và lợi ích của các chủ
thể khác nhau trong xã hội. Để thực hiện mục đích phát hiện nhanh chóng, kịp thời,
xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân, q trình giải quyết VAHS phải được tiến hành trên cơ sở tuân thủ
các tư tưởng, quan điểm chỉ đạo nhất định. Các tư tưởng, quan điểm chỉ đạo đó
xun suốt q trình nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật. Việc nghiên cứu
các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS là góp phần vào việc làm sáng tỏ các tư
tưởng, quan điểm chỉ đạo này. Các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS có các đặc
điểm:
- Đó là những tư tưởng, quan điểm về các hình thức và phương pháp tiến hành
TTHS một cách khách quan, được hình thành trong quá trình phát triển của
xã hội, do các điều kiện lịch sử cụ thể của đời sống xã hội quy định và phù
hợp với các điều kiện đó. Các nguyên tắc - như P.Ăngghen chỉ rõ: Không
phải là điểm xuất phát của sự nghiên cứu mà là kết quả cuối cùng của nó,
những nguyên lý ấy không phải được ứng dụng vào giới tự nhiên và loại
người phải phù hợp với các nguyên lý, mà trái lại các nguyên lý chỉ đúng
trong chừng mực mà chúng phù hợp với giới tự nhiên và lịch sử.
Những luận điểm trên nói lên tính khách quan của các nguyên tắc pháp luật nói
chung và của các nguyên tắc của luật TTHS nói riêng. Điều đó có nghĩa rằng các
nguyên tắc của LTTHS được “lấy ra” từ chế độ kinh tế, xã hội và chính trị, từ các
2

Giáo trình luật Tố tụng hình sự của trường Đại học Luật Hà Nội, nxb CAND năm 2007


quy luật phát triển của nó, từ các quan hệ sản xuất và các quan hệ khác. Đó là

những quan điểm, tư tưởng tồn tại một cách khách quan được con người nêu lên,
mô tả, tổng kết do kết quả của sự nhận thức, nghiên cứu thực tiễn xã hội khách
quan. Bởi bản thân các nguyên tắc không phải là cái gì khác mà đó chính là những
biểu hiện của quy luật khách quan được con người nhận thức. Vì vậy, việc nhận
thức đúng đắn các quy luật khách quan của quá trình giải quyết vụ án hình sự để
quy định thành nguyên tắc của LTTHS có ý nghĩa hết sức quan trọng.
- Đó là những quan điểm, tư tưởng mang tính dân chủ sâu sắc, tạo điều kiện
cho quá trình giải quyết vụ án hình sự đạt hiệu quả cao. Điều này có nghĩa là
nguyên tắc của LTTHS chứa đựng những nội dung thể hiện quan điểm, định
hướng của hoạt động TTHS của Đảng và Nhà nước ta là nhân đạo, dân chủ,
công bằng, kỷ cương. Quan điểm, định hướng đó được thể hiện rất rõ trong
việc nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật. Hoạt động TTHS, nếu không
tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của LTTHS thì sẽ dễ rơi vào tình trạng chỉ
chú ý đến việc giải quyết vụ án nhanh chóng mà xem nhẹ việc đảm bảo các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, dẫn đến mất dân chủ, không đảm
bảo công bằng. Hoặc thiếu kiên quyết, dẫn đến tình trạng đấu tranh chống tội
phạm bị trì trệ kém hiệu quả.
- Đó là những tư tưởng, quan điểm được ghi nhận và thể hiện trong các quy
phạm pháp luật. Dấu hiệu này nói lên tính pháp lý làm cho các ngun tắc
này có ý nghĩa bắt buộc, mang tính xác định và đảm bảo được tuân thủ. Các
nguyên tắc đó được ghi nhận và thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp
luật của Nhà nước như: Hiến pháp, các luật tổ chức, bộ luật TTHS….
- Đó là các tư tưởng, quan điểm chỉ đạo, chi phối tồn bộ q trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử hoặc một số giai đoạn đặc biệt quan trọng, trọng tâm
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
- Đó là những phương châm mang tính định hướng chủ đạo cho hoạt động
TTHS. Những phương châm, định hướng này chi phối đến toàn bộ quá trình
xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS. Khi thực hiện chức năng của mình,
chủ thể có thẩm quyền phải tuân thủ các nguyên tắc đó xem như là tiền đề để
đảm bảo hiệu quả của hoạt động tố tụng.

Như vậy, nguyên tắc cơ bản có những đặc điểm sau: nguyên tắc cơ bản mang
tính khách quan; là những tư tưởng, quan điểm mang tính dân chủ sâu sắc; nguyên
tắc cơ bản của luật TTHS Việt Nam được ghi nhận và thể hiện thông qua các quy


phạm pháp luật TTHS; có tính chi phối đến tồn bộ quá trình giải quyết vụ án hình
sự hoặc một số giai đoạn của hoạt động TTHS; là những tư tưởng mang tính xuất
phát điểm, có tính chủ đạo định hướng của Đảng và Nhà nước ta cho toàn bộ hoạt
động xây dựng, áp dụng pháp luật TTHS.
1.1.3 Nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật – nguyên tắc cơ bản của luật TTHS.
Pháp luật là công cụ để quản lý xã hội, đồng thời pháp luật cũng thể hiện
mức độ dân chủ và công bằng của xã hội. Nhiều học giả cho rằng: muốn đánh giá
mức độ dân chủ, công bằng của một Quốc gia thì hãy xem xét hệ thống pháp luật
của Quốc gia đó.
Pháp luật nước ta thấm nhuần tư tưởng của Đảng, mang đậm bản chất Nhà
nước và ý chí của giai cấp cơng nhân cùng tồn thể nhân dân lao động. Hoạt động
TTHS có ý nghĩa to lớn đối với việc bảo vệ công bằng xã hội. TTHS là toàn bộ
hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng trong quá trình giải quyết một VAHS. Trong toàn bộ hoạt động tố tụng
hay trong một giai đoạn tố tụng nhất định đều phải tuân theo những nguyên tắc
nhất định. Chính các nguyên tắc này là cơ sở cho hoạt động tố tụng theo sát được tư
tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước.
Xem xét hệ thống các nguyên tắc trong TTHS, ta nhận thấy đây là những
quy định cơ bản, chung nhất, mang tính chỉ đạo hoạt động tố tụng hình sự. Các
nguyên tắc này mang bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa và bản chất tố tụng
Việt Nam. Đồng thời, xác định chức năng, nhiệm vụ tổ chức và hoạt động của các
cơ quan Nhà nước trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự.
Xét xử độc lập và tuân theo pháp luật là nguyên tắc cơ bản của TTHS.

Nguyên tắc này thể hiện là một quy định cơ bản, mang tính chỉ đạo hoạt động xét
xử và đã được ghi nhận trong Hiến pháp, Bộ luật TTHS, luật Tổ chức Tòa án nhân
dân…
Điều 69 Hiến pháp 1946, Điều 100 Hiến pháp 1959, Điều 131 Hiến pháp
1980, Điều 131 Hiến pháp 1992 ( sửa đổi năm 2001) đã ghi nhận nguyên tắc độc
lập xét xử trong hoạt động tố tụng. Ngày 26-11-2003 Bộ luật TTHS nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc Hội thông qua. Với những quy định tiến


bộ thể hiện xu thế đổi mới và quá trình dân chủ hóa mọi mặt đời sống của xã hội,
Bộ luật TTHS là một công cụ đảm bảo cho quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử các vụ án hình sự ở nước ta đi theo một hướng mới đó là: kiên quyết, triệt để
đấu tranh với tội phạm bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Điều 16 Bộ luật TTHS 2003 ghi nhận “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật”. Như vậy, từ quy định này, nguyên tắc “Khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” chính thức trở thành
nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam.
Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” là một nguyên tắc cơ bản của TTHS, chi phối các hoạt động trong giai đoạn
xét xử. Hiện nay, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về nội dung của nguyên tắc này,
việc lựa chọn một cách hiểu chính xác, hướng đến việc áp dụng thống nhất nguyên
tắc là một yêu cầu cấp thiết.
- Cách hiểu thứ nhất: nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật” nhằm quy định cho Thẩm phán và Hội thẩm phải
độc lập khi xét xử. Nói cách khác, tính độc lập của nguyên tắc này chỉ giới
hạn trong phạm vi giữa các thành viên hội đồng xét xử, nghĩa là: Thẩm phán
và Hội thẩm khi tham gia xét xử phải độc lập quyết định mọi vấn đề, kể cả
việc ra bản án hoặc quyết định một cách độc lập. Theo cách hiểu này thì “độc
lập” chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ quy định cho một phía là Thẩm phán
và Hội thẩm chứ chưa đề cập đến vấn đề “độc lập” trong xét xử từ phía cơ

quan, tổ chức, cá nhân khác.
- Cách hiểu thứ hai: “Độc lập” được quy định trong nguyên tắc là độc lập giữa
các thành viên hội đồng xét xử; giữa hội đồng xét xử với cá nhân, tổ chức,
các cơ quan Nhà nước; giữa tòa án cấp dưới với tòa án cấp trên. Độc lập
nhưng phải tuân theo pháp luật, pháp luật là cấp trên duy nhất của Thẩm
phán và Hội thẩm trong quá trình xét xử vụ án.
Theo tác giả, nếu hiểu theo cách hiểu thứ nhất thì quá hẹp. Bởi vì nếu chỉ có sự
độc lập trong hội đồng xét xử, mà khơng có sự độc lập với các cơ quan, tổ chức
khác, thì sẽ gây khó khăn rất lớn đến công tác xét xử, việc can thiệp của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân sẽ là một cản trở rất lớn đến tính độc lập trong xét xử của
Thẩm phán và Hội thẩm. Chính vì vậy, chúng tơi ủng hộ quan điểm thứ hai.


Trên thực tế, việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân lợi dụng chức năng, quyền hạn
và đợn vị công tác của mình…. Can thiệp thơ bạo đến hoạt động xét xử của Tịa án
thường xảy ra. Vì vậy, muốn có điều kiện để tn thủ pháp luật thì Thẩm phán và
Hội thẩm phải độc lập với mọi tác động từ bên ngồi, kể cả từ phía tịa án cấp trên.
Từ đó, Thẩm phán và Hội thẩm mới có khả năng xét xử khách quan, chính xã và
tuân thủ pháp luật.
Nguyên tắc “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” là nguyên tắc cơ bản của TTHS Việt Nam vì nó thõa mãn các dấu hiệu là quy
định chung nhất, mang tính chỉ đạo và được ghi nhận trong đạo luật. Nguyên tắc
này còn là một trong những cơ sở đầu tiên xây dựng nên pháp luật tố tụng hình sự.
Ta thấy rằng, các quy định của luật TTHS, nhất là cá quy định trong giai đoạn xét
xử đều thể hiện tư tưởng độc lập xét xử và tuân theo pháp luật. Chẳng hạn như: chế
định về việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm theo Điều 46 BLTTHS, các quy định
về nghị án, quy định liên quan đến xét xử phúc thẩm….
Nguyên tắc này có vai trị, vị trí quan trọng trong TTHS. TTHS có ba chức năng
chính: buộc tội, bào chữa, xét xử nhưng chức năng xét xử của Tòa án vẫn là quan
trọng nhất. Hoạt động xét xử đóng vai trị trọng tâm, mang tính chất quyết định cho

cả q trình tố tụng. Việc quy kết một người có tội hay khơng có tội, hình phạt như
thế nào đều được quy định trong các quy định này. Các hoạt động như điều tra, truy
tố đều là cơ sở tiền đề cho việc xét xử của Tịa án. Vì vậy, ngun tắc này tuy chỉ ở
trong giai đoạn xét xử nhưng lại có vai trị quan trọng trong việc chi phối tới tồn
bộ q trình tố tụng. Hơn nữa, pháp luật không chỉ ghi nhận quyền dân chủ của
công dân mà còn quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện và bảo vệ các quyền
đó. Trong số các biện pháp này thì bảo vệ thơng qua thủ tục tư pháp là một biện
pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ thủ tục tư pháp, quyền dân chủ của
công dân được bảo vệ trên cơ sở một loạt các nguyên tắc dân chủ rất chặt chẽ, trong
đó có nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật. Xuất phát từ lý do đó, nguyên tắc này càng được khẳng định là nguyên tắc cơ
bản.
Những nguyên tắc tố tụng đảm bảo cho việc tiến hành giải quyết vụ án hình sự
theo một thủ tục tố tụng thống nhất. Song, không phải tất cả các nguyên tắc tố tụng
đều được thể hiện ở mức độ như nhau trong các giai đoạn tố tụng, mà sự thể hiện
đó cịn phụ thuộc vào nhiều tình tiết khác nhau như: nhiệm vụ của từng giai đoạn tố


tụng, vai trò của cơ quan Nhà nước, và những người có chức trách trong việc tiến
hành giải quyết vụ án.
Các nguyên tắc tố tụng có mối quan hệ mật thiết với nhau, nguyên tắc này đảm
bảo cho nguyên tắc kia được thực hiện và ngược lại. Trong thực tiễn, chúng ta
không thể thực hiện được nguyên tắc pháp chế, ngun tắc bình đẳng… nếu như
chúng ta khơng thực hiện được nguyên tắc xét xử độc lập và tuân theo pháp luật.
Chỉ có thể thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế và các nguyên tắc khác của tố tụng khi
ta thực hiện tốt nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật”.
Vậy các nguyên tắc trong tố tụng có mối quan hệ qua lại tương hỗ lẫn nhau, hợp
thành một hệ thống nhất vững chắc. Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là nguyên tắc cơ bản và là một mắt xích

quan trọng không thể thiếu trong chỉnh thể các nguyên tắc TTHS Việt Nam.
1.1.4 Cơ sở quy định nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật trong TTHS.
Hiến pháp là văn bản có giá trị cao nhất của mỗi Quốc gia. Ở nước ta, Hiến
pháp là đạo luật chính, đạo luật cơ bản, là cơ sở cho mọi ngành luật hình thành và
phát triển. Mọi quy định của các ngành luật đều phải tuân theo Hiến pháp, không
được trái Hiến pháp.
Nước ta, ngay sau khi giành được chính quyền từ tay thực dân Pháp, trong
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh “…Trước, chúng ta đã bị chế độ quân chủ
chuyên chế cai trị, rồi đến chế phong kiến thực dân không kém phần chuyên chế,
nên nước ta khơng có Hiến pháp, nhân dân ta khơng được hưởng quyền tự do dân
chủ. Chúng ta phải có một bản Hiến pháp dân chủ”3. Quán triệt tư tưởng của chủ
tịch Hồ Chí Minh và nguyện vọng của tồn dân, Hiến pháp 1946 - Hiến pháp đầu
tiên của nước Việt Nam đã ra đời với nội dung thấm nhuần tư tưởng tự do, bình
đẳng, bác ái….Đăc biệt là Hiến pháp đã quy định những điều luật tiến bộ trong lĩnh
vực tư pháp, làm tiền đề cho việc hình thành các ngun tắc trong TTHS sau này.

3

Hồ Chí Minh tồn tập, tập 1, trang 365


Điều 69 Hiến pháp 1946 quy định “trong khi xét xử các viên Thẩm phán chỉ
tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”. Theo quy định của
điều luật này, thì viên Thẩm phán tuyệt đối tuân thủ pháp luật và đồng thời tất cả
các cơ quan khác không được can thiệp vào công tác xét xử của Thẩm phán. Quy
định tại Điều 69 Hiến pháp 1946 chỉ đề cập đến Thẩm phán mà không nhắc đến các
phụ thẩm nhân dân. Điều này có thể được lý giải thông qua quy định tại Điều 65
Hiến pháp 1946 “trong khi xét xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để tham

gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là việc đại
hình”. Như vậy, Hiến pháp 1946 đã đặt những viên gạch đầu tiên xây nên cơ sở
pháp lý cho nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật” trong TTHS.
Hiến pháp 1959 ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt: miền Bắc đã hoàn toàn
độc lập và đi lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam vẫn tiếp tục tiến hành cuộc cách
mạng dân chủ nhân dân. Hiến pháp 1959 đã có sự phát triển hơn so với Hiến pháp
1946. Các quy định và từ ngữ sử dụng trong Hiến pháp 1959 đầy đủ và chính xác
hơn. Điều 100 Hiến pháp 1959 quy định “khi xét xử, tòa án nhân dân có quyền độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Như vậy, theo quy định của Hiến pháp 1959 thì vấn
đề “độc lập” của tòa án khi xét xử, đã được nêu cụ thể. Đây là bước phát triển của
quy định “các cơ quan khác không được can thiệp” trong Hiến pháp 1946. Lại thêm
một lần nữa, Hiến pháp Việt Nam khẳng định nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán
và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Năm 1975 miền Nam giải phóng, đất nước hồn tồn độc lập và thống nhất,
nhân dân cả nước bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày 18 tháng 12 năm
1980 Quốc hội khóa IV kỳ họp thứ VII đã nhất trí thơng qua Hiến pháp 1980. Các
quy định trong lĩnh vực tư pháp cũng được hoàn thiện hơn. Điều 131 quy định:
“khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Hiến pháp1980 đã xác định cụ thể “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân” xét xử vụ
án, phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Đến Hiến pháp 1992 lại tiếp tục quy định “khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Quy định này so với quy định tại Điều
131 Hiến pháp 1959 chỉ bỏ bớt hai chữ “nhân dân” để mở rộng phạm vi bao gồm
cả hội thẩm quân nhân (trong các vụ án tòa quân sự xét xử).


Như vậy, thông qua các bản Hiến pháp, nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán
và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” ngày càng được khẳng định. Đây là
ngun tắc hiến định có tính chất chỉ đạo trong hoạt động xét xử của Tòa án. Hiến

pháp là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc quy định nguyên tắc độc lập xét xử trong
TTHS.
Bên cạnh đó, trong TTHS, xét xử có vai trị đảm bảo cho hoạt động TTHS được
vận hành đúng pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân, bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý và công bằng xã hội, chức năng xét xử
được xem là chức năng trọng tâm giữ vai trò quyết định đối với cả tiến trình TTHS
và chức năng xét xử chỉ được giao cho một chủ thể duy nhất thực hiện đó là Tịa
án. Do đó, Tịa án có vai trị rất quan trọng trong hoạt động TTHS như trong thư
của Chủ tịch Trần Đức Lương gửi tới Hội nghị Tổng kết cơng tác của Tịa án năm
1998 “Tịa án là cơ quan cơng lý, là Tịa án của nhân dân, là bộ phận cấu thành
quan trọng không thể thiếu được của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, liên
quan trực tiếp đến an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội. Mỗi phán quyết của các
đồng chí khơng chỉ làm đúng sai đối với bên nguyên đơn, bị đơn trong vụ án mà
đồng thời phải là bài học cho mọi cá nhân và tổ chức biết tự bảo vệ quyền tự do
dân chủ cho chính mình và tồn thể cộng đồng xã hội”. Ở nước ta, trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự, chức năng xét xử được trao cho Tịa án thực hiện mà
khơng thể thay thế bất cứ một cơ quan Nhà nước nào khác. Kết quả thực hiện chức
năng này là nhằm bảo vệ quyền con người; quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân, ở những khía cạnh sau đây:
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân khi bị tội phạm xâm hại.
Thông qua việc thực hiện tốt chức năng xét xử, những hành vi phạm tội,
những người thực hiện tội phạm, sẽ được xử lý kịp thời, nhanh chóng, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơng dân được đảm bảo.
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội trong TTHS. Trong
quá trình tố tụng có rất nhiều lý do khác nhau nên khơng ai có thể khẳng
định rằng người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng lúc nào cũng có
đầy đủ chứng cứ, cơ sở pháp lý để truy tố, buộc tội một người trước Tịa án.
Điều này có thể dẫn đến hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Thông qua xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân sẽ kip thời
phát hiện ra những sai sót nhằm ra bản án, quyết định tuyên bố bị cáo vơ tội,

khơi phục quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Bên cạnh việc bảo vệ kịp thời


quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân bị tội phạm xâm hại và những cơng
dân có nguy cơ bị buộc tội oan thì chức năng xét xử cịn có vai trị trong việc
trừng trị đối với người có hành vi phạm tội, bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý,
tăng cường pháp chế XHCN và đảm bảo cho pháp luật được chấp hành triệt
để trong đời sống xã hội.
Đảng, Nhà nước và toàn dân quyết tâm xây dựng một xã hội dân chủ, cơng bằng
văn minh, khơng cịn áp bức bất công, quyết tâm xây dựng một hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh, xây dựng các cơ chế đảm bảo cho “mọi cơng dân đều bình đẳng trước
pháp luật”. Do đó, nhất thiết việc xét xử phải được tiến hành độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật để đảm bảo công bằng xã hội. Và bản án, quyết định của Tịa án
(HĐXX thực hiện) có ý nghĩa pháp lý đặc biệt với một con người hay cơ quan tổ
chức. Điều này được thể hiện rất rõ tại Điều 72 Hiến pháp 1992 và Điều 9
BLTTHS “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết
tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”.
1.1.5 Ý nghĩa nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật”.
Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hoạt động xét xử của Tịa án. Có
thể khái qt ý nghĩa của ngun tắc thành ba nhóm như sau:
Ý nghĩa chính trị xã hội: ngun tắc xác định vai trị, vị trí cơ quan Tịa án
trong hệ thống các cơ quan Nhà nước nói chung và cơ quan tiến hành tố tụng nói
riêng. Chỉ có Tịa án mới có quyền xét xử và khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Không một cá nhân, cơ quan nào được xen vào
hoạt động xét xử của Tòa án (cụ thể là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân), phải
đảm bảo sự độc lập trên cơ sở chỉ tuân theo pháp luật, không tuân theo bất cứ sự
chỉ đạo nào khác ngoài pháp luật, trái pháp luật. “Quan chức” cũng như “dân
thường” khi phạm tội đều bị đưa ra xét xử bởi Tòa án trên cơ sở những quy định

của pháp luật mà khơng có đặc ân nào. Tư pháp độc lập là một trong những yếu tố
để đảm bảo công bằng xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
mọi công dân đều sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, pháp luật sẽ được
chấp hành nghiêm chỉnh. Hoạt động xét xử không phải là hoạt động của một cá
nhân mà là hoạt động của tập thể, không chỉ là hoạt động của quan tịa mà cịn có
sự tham gia giám sát, tham gia xét xử của nhân dân thông qua những người đại diện
cho họ, đó là Hội thẩm. Nguyên tắc này gián tiếp thể hiện bản chất Nhà nước xã


hội chủ nghĩa là Nhà nước do dân làm chủ, nhân dân tham gia giám sát các hoạt
động của Nhà nước, trong đó có hoạt động xét xử.
Ý nghĩa pháp lý: nguyên tắc là cơ sở pháp lý để Thẩm phán và Hội thẩm tiến
hành hoạt động xét xử khách quan, đúng pháp luật. Đây cũng là cơ sở đảm bảo
Hiến pháp và pháp luật. Nói cách khác, pháp luật chỉ có ý nghĩa và tác dụng khi
nguyên tắc “độc lập xét xử” được tuân thủ một cách triệt để. Độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật khi xét xử vừa là quyền, đồng thời cũng là nghĩa vụ của Thẩm phán
và Hội thẩm.
Ý nghĩa đối với hoạt động thực tiễn: nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật bảo đảm việc xét xử khách quan, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Nguyên tắc này loại trừ sự tác động không cần thiết, thậm
chí tiêu cực của cơ quan, tổ chức khác đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân đảm bảo sự bình đẳng, độc lập giữa các thành viên của HĐXX.
“Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là một
ngun tắc cơ bản của luật TTHS. Nó địi hỏi trong hoạt động xét xử, Thẩm phán
và Hội thẩm phải tự mình đưa ra các quyết định để giải quyết vụ án, không bị lệ
thuộc vào bất cứ yếu tố nào khác. Hoạt động xét xử phải đảm bảo đúng pháp luật
về trình tự, thủ tục cũng như các quyết định đưa ra phải chính xác và có căn cứ
pháp lý. Không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được phép can thiệp vào hoạt
động xét xử của Tòa án. Độc lập xét xử được quy định trong Hiến pháp và pháp
luật của đa phần các nước trên thế giới. Điều đó một lần nữa khẳng định giá trị của

nguyên tắc này trong hoạt động xét xử.
1.2 Sơ lƣợc lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong Tố tụng hình
sự.
1.2.1 Giai đoạn trước năm 1945
Nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật có lịch sử hình thành và phát triển từ lâu. Ở nước ta, do những điều kiện
về kinh tế, chính trị đặc thù của Nhà nước và pháp luật Việt Nam nên vấn đề độc
lập của Tòa án trong xét xử hình sự từ thời phong kiến khơng được đặt ra. Nguyên
nhân là do nguyên tắc Khổng giáo đã ngự trị một thời gian khá dài trong đời sống
xã hội, tinh thần của con người Việt Nam và là nguyên tắc chủ đạo trong pháp luật
Việt Nam. Những hoạt động chủ yếu của tổ chức và hoạt động tư pháp trong thời


kỳ này là quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất và triệt để trong tay nhà Vua
theo nguyên tắc “Tôn quân quyền”: các cơ quan và các quan chức ở mọi cấp chính
quyền chỉ có vai trị giúp việc và thừa hành. Vua là vị Thẩm phán tối cao có quyền
xét xử, phán quyết mọi bản án, là người duy nhất có quyền ân xá, đại xá, đặc xá.
Chỉ Nhà vua mới có quyền ban hành các đạo luật, chiếu, dụ quy định các nguyên
tắc, thủ tục tố tụng, thiết lập các cơ quan, chức quan và thẩm quyền tư pháp trong
Bộ máy Nhà nước.
Trong hoạt động xét xử lúc này ít chú ý đến hình thức tố tụng mà đề cao vai
trò của các luật lệ bảo vệ cho quyền lợi của vua chúa và các giai đình quyền quý
trên cơ sở “tam cương, ngũ thường” hoặc “phép vua, lệ làng”. Theo sử liệu thì bắt
đầu từ thời nhà Trần trở đi (1226 - 1400) một số cơ quan và chức quan được vua
trao một số quyền về xét xử, thẩm quyền tố tụng mới dần được hình thành và từng
bước hoàn thiện. Thẩm quyền xét xử chưa được tách biệt ở Châu, Huyện, Phủ mà
do vị quan đứng đầu các cấp này đảm nhiệm cùng với quyền điều hành chung. Chỉ
ở triều đình mới có một bộ phận riêng biệt được vua trao quyền xem xét việc kiện
tụng với các tên gọi như Bộ hình, Ngự sử đài, Thẩm hành viện.

Vấn đề xét xử đúng pháp luật của cơ quan xét xử được manh nha hình thành
từ thời Lê Thánh Tông, cụ thể là Bộ luật Hồng Đức tại Điều 672 ghi lại “các quan
kể trên phải xét xử cho công bằng và đúng pháp luật”. Điều 720 cũng quy định
“không ai được cố chấp ý riêng mình, bắt mọi người phải tuân theo”.
Dưới triều Nguyễn, trong khoảng thời gian trước khi bị Pháp đô hộ, một số
tên gọi của cơ quan tư pháp cũng có sự thay đổi, tổ chức và hoạt động của các cơ
quan này ngày một chặt chẽ hơn nhưng vẫn thể hiện tính tập quyền cao. Quyền tư
pháp tối cao trong Nhà nước tập trung vào triều đình, đứng đầu là Nhà Vua.
Mặc dù quyền tư pháp được trao bớt cho một số cơ quan và chức quan
nhưng nhà Vua vẫn kiểm sốt được cơng việc tư pháp thơng qua các quan địa
phương trơng coi việc tư pháp trình sổ sách ghi chép các vụ án đã xét xử theo lệ
hàng năm.
Một đặc điểm nữa trong Nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền là
quyền tư pháp không tách rời và đồng thời luôn chịu sự chi phối của quyền hành
pháp.


Dù được ấn định những chức phận cụ thể khác nhau nhưng các cơ quan và
quan chức tư pháp cũng giống như mọi cơ quan và quan chức khác trong triều ở
điểm chỉ là người đại diện và thừa hành quyền lực của nhà Vua mà thôi. Chưa thấy
triều đại nào xem nó là một ngạch quan đặc biệt, có thẩm quyền tối cao, độc lập về
lĩnh vực tư pháp và tách rời với ngạch quan hành chính. Việc tuyển dụng, bổ
nhiệm, thăng thưởng hay trừng phạt cũng khơng có gì khác biệt với các quan chức
khác.
Với cách tổ chức như thế làm cho các quan đứng đầu địa phương có nhiều
quyền hành hơn đối với thường dân nói chung, can phạm nói riêng nên khơng thể
tránh khỏi sự tuỳ tiện, độc đốn trong xét xử. Thời kỳ này khơng có sự tồn tại của
cơ quan điều tra, truy tố, thi hành án mà do một mình quan án đảm nhiệm tất cả các
khâu nên khả năng tệ nhũng nhiễu hà khắc và ức hiếp dân chúng là rất phổ biến.
Vấn đề thực thi cơng lý hồn tồn trơng chờ vào sự thanh liêm và công tâm của

quan án. Mặc dù khẩu hiệu “quân pháp bất vị thân” luôn được đề cao trong việc xử
lý các sai phạm nhưng đôi lúc cịn có sự can thiệp từ phía các thành viên thuộc
hồng tộc khiến phần thiệt thịi thường nghiêng về phía dân thường vơ tội.
Đến thời Pháp thuộc vẫn chưa áp dụng nguyên tắc tư pháp biệt lập với hành
chính mặc dù “chính quốc” đã áp dụng từ lâu. Lúc này tồn tại hai loại Tòa án Pháp
và Việt khác hẳn nhau về cách tổ chức và thẩm quyền: Tòa án Pháp được thành lập
trên vùng đất Nam kỳ và Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và một số vùng được Pháp
“bảo hộ” ở Trung và Bắc kỳ để xét xử các vụ có liên quan đến người Pháp, cơng sở
của Pháp hoặc người nước ngoài và người Việt trong vùng đất thuộc địa; Tòa án
Việt xét xử giữa người Việt với nhau…. Nhìn chung sự độc lập của Tịa án không
được thể hiện rõ do ảnh hưởng của nguyên tắc “ chia để trị” nên hoạt động xét xử
thời kỳ này chỉ chuyên về mục đích cai trị và nơ dịch của thực dân Pháp hoặc chỉ
bù nhìn đối với các Tòa án Việt.
1.2.2 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988
Khi Cách mạng tháng Tám thành cơng, chính quyền về tay nhân dân nhưng
vẫn còn nạn thù trong giặc ngồi. Để đối phó, Đảng nêu nhiệm vụ chính là “giữ
vững chính quyền” và để khẳng định chủ quyền của Nhà nước ta, Chính Phủ đã
nhanh chóng tiến hành hoạt động lập pháp nói chung, lập pháp về hình sự nói
riêng. Tại Điều 1 Sắc lệnh 51/SL ngày 17- 4-1946 đã ấn định thẩm quyền của Tòa
án như sau: “trong tồn cõi Việt Nam, các Tịa án Việt Nam có thẩm quyền đối với


một người, bất cứ quốc tịch nào”. Trước đó, Chính phủ cũng ban hành Sắc lệnh
13/SL ngày 24-1-1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán. Nguyên tắc
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được
quy định tại Điều 47 như sau: “Tòa án tư pháp sẽ độc lập với các cơ quan hành
chính. Các vị thẩm phán sẽ chỉ tôn trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác
không được can thiệp vào công việc tư pháp”. Cách thể hiện điều luật cho thấy sự
nhấn mạnh tính độc lập của Tư pháp - hay nói đúng hơn là của Tịa án với các cơ
quan hành chính, một cách phân định nguyên sơ nhất trong việc thực hiện các

quyền khác nhau của các cơ quan trong Bộ máy Nhà nước.
Nguyên tắc này cũng trở thành nguyên tắc hiến định khi Hiến pháp 1946
được thông qua ngày 9-11-1946. Về sau, trong các Hiến pháp qua các thời kỳ,
nguyên tắc độc lập xét xử vẫn được ghi nhận và cụ thể hóa trong các văn bản luật,
đặc biệt là TTHS cùng với một số nguyên tắc khác nhằm đảm bảo cho việc thực
hiện nhiệm vụ của luật TTHS là góp phần đấu tranh phòng và chống tội phạm một
cách hiệu quả.
Kể từ khi Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời, lúc Nhà nước non
trẻ, mới thành lập, trong bản Hiến pháp đầu tiên đã khẳng định vai trò quan trọng
của Tòa án với tên gọi là cơ quan tư pháp. Tại Điều 69 Hiến pháp 1946 quy định
“trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác
không được can thiệp”. Trước đó đã có những sắc luật quy định về hoạt động xét
xử và về sự độc lập của những người giữ vai trò xét xử. Điều 50 Sắc lệnh số 13/SL
quy định cụ thể: “Mỗi thẩm phán xử án quyết định theo pháp luật và lương tâm của
mình. Khơng quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc xử
án”.
Đặc điểm dễ nhận thấy của quy định thời kỳ này là sự đề cao vai trò cá nhân
của Thẩm phán mà chưa đề cập đến Hội thẩm do thời kỳ này còn áp dụng chế độ
Bồi thẩm đoàn – việc tham gia của các vị này chỉ ở các cấp xét xử đối với loại tội là
tiểu hình, một số vấn đề thuộc về chuyên mơn chỉ do Thẩm phán quyết định là
chính.
Đến thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng
miền Nam, pháp luật đã được sửa đổi bổ sung để phục vụ nhiệm vụ chiến lược cách
mạng. Hiến pháp 1959 ra đời cùng nhiều chế định mới. Nguyên tắc Tòa án xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật vẫn dược ghi nhận tại Điều 100 - Hiến pháp dù


về cách thể hiện có khác hơn so với Hiến pháp cũ với nội dung: “khi xét xử Tòa án
nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Ngay sau đó, luật tổ chức
Tịa án nhân dân được ban hành ngày 14-7-1960 đã cụ thể nguyên tắc trên tại Điều

4 “Khi xét xử Tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Việc
thay đổi chủ thể đích danh là Thẩm phán sang chủ thể chung là Tòa án là do sự
biến đổi của tình hình thực tế lúc này là đề cao tinh thần làm chủ tập thể của nhân
dân nên việc mở rộng quyền xét xử của Tòa án là nhằm nâng cao trách nhiệm của
Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN và
quyền làm chủ của nhân dân lao động, bảo vệ tài sản XHCN, tín mạng, tài sản, tự
do, danh dự và nhân phẩm của công dân; đồng thời bảo đảm sự không can thiệp
của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội vào hoạt động xét xử của Tòa án. Từ ngữ
sử dụng trong quy định này cũng chưa có sự chặt chẽ về kỷ thuật lập pháp: với
dụng ý nhấn mạnh tính độc lập của Tịa án khi xét xử nhà làm luật đã sử dụng từ
“có quyền” nhưng điều này lại dễ dẫn đến suy luận vậy thì trước khi sửa đổi nội
dung này thì Tịa án không độc lập chăng? Rất may là trong những lần sửa đổi sau
này, các nhà làm luật đã lược bỏ từ này nhằm bảo đảm sự chặt chẽ về mặt ngữ
nghĩa.
Ngay sau khi giải phóng miền Nam, trong khi chờ đợi sự thống nhất, trên
thực tế vẫn tồn tại Nhà nước: Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Nhà nước
Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam nên một số chính sách, văn bản quy phạm pháp
luật TTHS đã được ban hành nhằm kịp thời trấn áp tội phạm, bảo vệ Đất nước mới
được giải phóng. Trong đó có Sắc luật số 01/SL ngày 15-3-1976 của Hội Đồng
Chính Phủ Cách Mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam quy định tổ chức Tòa án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Tại Điều 5 Sắc luật cũng quy định: “Khi xét
xử, Tịa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Kế thừa và phát triển Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 ra
đời với nhiều quy định mới nhưng về nội dung nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật vẫn được giữ nguyên theo quy định tại Điều 131. Cùng với
sự ra đời của Hiến pháp 1980 thì luật Tổ chức Tòa án nhân dân được ban hành và
ghi nhận nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án.
Trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, Bộ luật TTHS được xây dựng và đến ngày
28-6-1988 thì được thơng qua. Điều 17 BLTTHS năm 1988 quy định: “Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Cũng như Hiến



×