Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Định tội danh đối với hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (780.78 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

HUỲNH NGUYỄN THANH TRÚC

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH VI
DÙNG VŨ LỰC HOẶC ĐE DỌA DÙNG VŨ LỰC
NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HUỲNH NGUYỄN THANH TRÚC

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH VI
DÙNG VŨ LỰC HOẶC ĐE DỌA DÙNG VŨ LỰC
NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành Luật Hình sự - Mã số: 60.38.40

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Quang Vinh

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011




LỜI CAM ĐOAN
Người viết luận văn này xin cam đoan rằng toàn bộ nội dung luận văn là kết
quả của một quá trình tổng hợp và nghiên cứu nghiêm túc của riêng bản thân người
viết. Tất cả ý kiến của các tác giả khác được đưa vào luận văn đều được người viết
giữ ngun ý tưởng và có trích dẫn.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH
VI DÙNG VŨ LỰC, ĐE DỌA DÙNG VŨ LỰC NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN .............................................................................................................................7
1.1 Lý luận chung về định tội danh .............................................................................7
1.1.1 Khái niệm, các loại và ý nghĩa của định tội danh ..........................................7
1.1.2 Cấu thành tội phạm – cơ sở pháp lý của định tội danh ...............................12
1.2 Khái niệm và những đặc trưng pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu có hành vi
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật hình sự
1999……………. ......................................................................................................21
1.2.1 Khái niệm các tội xâm phạm sở hữu có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ
lực nhằm chiếm đoạt tài sản ..................................................................................21
1.2.2 Những đặc trưng pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu có hành vi dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản .................................................23
1.3 Phân biệt các tội phạm ........................................................................................26
1.3.1 Phân biệt tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản ...................................26
1.3.2 Phân biệt các tội xâm phạm sở hữu có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ
lực với tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy. ...............................................................29
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH VI DÙNG VŨ
LỰC, ĐE DỌA DÙNG VŨ LỰC NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO BỘ

LUẬT HÌNH SỰ 1999 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ..............................................32
2.1 Các tội xâm phạm sở hữu có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm
chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật hình sự 1999 ...........................................................32
2.1.1 Tội cướp tài sản ............................................................................................32
2.1.2 Tội cưỡng đoạt tài sản ..................................................................................38
2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong định tội danh các tội xâm phạm sở
hữu có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản ..............41


2.2.1 Xác định những dấu hiệu pháp lý của các tội có hành vi dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản trong thực tiễn định tội danh.....................41
2.2.2 Một số vấn đề trong việc định tội danh đối với các tội có hành vi dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản .................................................52
2.2.3 Đánh giá tổng quan thực tiễn định tội danh đối với hành vi dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản .............................................................63
2.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động định tội danh đối với hành vi dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản ................................................52
2.3.1 Định hướng hoàn thiện hoạt động định tội danh theo cải cách tư pháp .....66
2.3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động định tội danh trong thực tiễn 68
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Định tội danh là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận
cũng như áp dụng pháp luật hình sự vào trong thực tiễn. Về mặt lý luận, nghiên cứu
định tội danh là vấn đề khá phức tạp, do đây là một quá trình tư duy yêu cầu sự hiểu

biết sâu rộng các quy định của pháp luật hình sự, chính sách và quan điểm lập pháp
của pháp luật Việt Nam, từ đó có thể đưa ra các kết luận định hướng cho hoạt động
định tội danh trong thực tế sao cho chính xác, hiệu quả. Về mặt thực tiễn, định tội
danh là khâu quan trọng ảnh hưởng đến cả quá trình áp dụng pháp luật. Việc đưa
các quy phạm pháp luật khái quát, trừu tượng vào trong thực tiễn với các hành vi
phạm tội phức tạp, biến đổi từng ngày, địi hỏi các chủ thể định tội danh khơng chỉ
có sự hiểu biết, khả năng tư duy mà cịn cần cả sự sáng tạo, linh hoạt trong việc đưa
các quy định mang tính khái quát chung của điều luật vào một hành vi cụ thể.
Do các đặc điểm đó mà trên thực tế định tội danh là vấn đề được quan tâm
và tranh luận cả về lý luận lẫn thực tiễn. Đặc biệt là vấn đề định tội danh đối với
hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản trong các tội xâm
phạm sở hữu. Hiện tội phạm có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm
chiếm đoạt tài sản có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, phương pháp, thủ
đoạn ngày càng tinh vi; tính chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng. Hành vi dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản là những hành vi được xác định
trong cấu thành của tội phạm nghiêm trọng xuyên suốt trong lịch sử pháp luật hình
sự cũng như trong Bộ luật hình sự hiện hành của nước ta. Các hành vi này cùng một
lúc xâm phạm hai khách thể: quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Hành vi dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra những hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng cho xã hội từ thiệt hại về tính mạng, sức khỏe đến thiệt hại về tài sản
của người bị hại. Tuy vậy, vấn đề nghiên cứu về định tội danh các tội phạm này vẫn
chưa được nghiên cứu một cách cụ thể và toàn diện.
Định tội danh cho hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt
tài sản là khá phức tạp và khó khăn, do các hành vi này mang tính khái qt cao, có
thể tồn tại trong nhiều tội danh khác nhau với những biểu hiện và ý nghĩa khác
nhau, dẫn đến sự bối rối và khó khăn cho những người tiến hành định tội danh. Hoạt


2


động định tội danh đối với hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm
đoạt tài sản của các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn những hạn chế, bất cập như
khơng xác định chính xác sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm thực tế với cấu thành
tội phạm, đặc biệt đối với những vụ án mà hành vi phạm tội của bị can, bị cáo
không thể hiện các yếu tố cấu thành tội phạm một cách đặc trưng, rõ ràng, nhất là
các yếu tố khách quan mà chủ yếu là hành vi thực hiện tội phạm. Nguyên nhân của
những vướng mắc, hạn chế này xuất phát từ nhiều lý do khác nhau như bất cập của
văn bản giải thích luật, nhận thức pháp luật thiếu thống nhất, phân biệt các tội phạm
chiếm đoạt tài sản có sử dụng hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực cịn những
khó khăn nhất định về lý luận cũng như thực tiễn dẫn đến tranh chấp trong việc định
tội danh các hành vi này. Ngoài ra bất cập trong hoạt động định tội danh những
hành vi trên một phần cũng xuất phát từ trình độ, năng lực của người tiến hành tố
tụng còn hạn chế, thậm chí đơi khi là sự thiếu tinh thần trách nhiệm.
Định tội danh là vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự hình sự nói chung và vụ án có liên quan hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng
vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản nói riêng, là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm
hình sự và cá thể hố hình phạt một cách cơng minh, chính xác, đồng thời làm cơ sở
cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xác định thẩm quyền điều tra, truy tố,
xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng… góp phần đấu tranh phịng ngừa và
chống tội phạm, bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mọi công dân. Việc định tội danh sai sẽ dẫn đến hậu quả rất
lớn, đặc biệt là khơng đảm bảo được tính có căn cứ của hình phạt được tun, xét
xử khơng đúng người đúng tội, không đúng pháp luật. Đây cũng là một nguyên
nhân của tình trạng oan, sai đang tồn tại. Địi hỏi các chủ thể định tội danh phải có
trình độ lý luận cơ bản và vững chắc, trên cơ sở đánh giá, phân tích, tổng hợp từng
yếu tố của vụ án, áp dụng các văn bản pháp luật liên quan một cách chính xác thì
mới định tội danh đúng.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về định tội danh
đối với hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản, thống
nhất nhận thức các quy định của Bộ luật Hình sự về định tội danh các hành vi này;

phân biệt giữa các tội có sử dụng hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm
chiếm đoạt tài sản trong nhóm tội xâm phạm sở hữu, hay giữa chúng với một số tội
phạm khác; phân tích những sai sót, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật,


3

trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh đối
với các hành vi nêu trên có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Điều đó lý giải
việc người viết chọn đề tài nghiên cứu “Định tội danh đối với hành vi dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản trong Luật Hình sự Việt Nam”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vì tầm quan trọng của hoạt động định tội, các chuyên gia Luật hình sự trong
nước đã tốn rất nhiều tâm huyết để cho ra đời những tài liệu quý giá giúp cho việc
định tội ngày càng chính xác hơn. Trong số đó, có tác giả đi sâu nghiên cứu khái
niệm và các dấu hiệu đặc trưng cơ bản của tội phạm, làm rõ mối quan hệ giữa chúng
với cơ sở trách nhiệm hình sự giúp cho người định tội nhận thức sâu sắc về bản chất
của tội phạm như: Tìm hiểu khái niệm và những đặc trưng cơ bản của tội phạm theo
Luật hình sự Việt Nam của TS. Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
6/2001; Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB Công an nhân dân (2008) của GS.
TS. Nguyễn Ngọc Hịa biên soạn. Có tác giả đi sâu nghiên cứu một cách có hệ
thống những lý luận chung của tồn bộ q trình định tội: Định tội danh một số vấn
đề lý luận và thực tiễn của TS. Lê Cảm, Tạp chí Tịa án nhân dân số 3, 4, 5, 6 và
8/1999; Lý luận chung về định tội danh, NXB Công an nhân dân (2003) của
PGS.TS Võ Khánh Vinh; Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân (2004) của TS. Lê Văn Đệ. Có tác giả đi sâu
phân tích những trường hợp đặc biệt trong việc định tội: Thay đổi định tội danh Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của PGS.TS Võ Khánh Vinh, Tạp chí Tồ án
nhân dân số 11 và 12/2003; Định tội danh trong những trường hợp đặc biệt, luận
văn cao học Luật của Tạ Thị Kim Tuyến, do PGS.TS. Võ Khánh Vinh hướng dẫn.
Cũng có tác giả đi sâu nghiên cứu từng dấu hiệu của tất cả các tội phạm được quy

định trong Bộ luật hình sự: các Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội
phạm của Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, của Viện nghiên cứu khoa học
pháp lý; Các bình luận chuyên sâu Bộ luật hình sự phần các tội phạm của Thạc sĩ
Đinh Văn Quế... Một số tác giả lại tập trung phân tích những dấu hiệu đặc trưng của
một tội hoặc một nhóm tội phạm cụ thể giúp cho người định tội nhận thức được sự
khác nhau giữa chúng với các tội phạm khác thuộc cùng một nhóm hoặc thuộc
nhóm tội khác trong Bộ luật hình sự: Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong
Bộ luật hình sự 1999 của TS. Trần Văn Độ, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
6/2000; Đặc điểm và các dạng hành vi cơ bản của tội phạm tin học của Nguyễn


4

Mạnh Tồn, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2002; Về việc xác định tội danh
đối với một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực viễn thông của Mai Thế Bày, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật số 3/2002; Những dạng hành vi của tội tổ chức sử dụng trái
phép chất ma tuý của Trần Đức Thìn, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2002;
Phân biệt tội giết người với một số tội phạm khác xâm phạm tính mạng của con
người của Thạc sĩ Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí Tồ án nhân dân số 2/2003; Phân biệt
tội kinh doanh trái phép với một số tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế khác theo
Bộ luật hình sự 1999 của Trần Mạnh Đạt, Tạp chí Tồ án nhân dân số 9/2002; Đối
với nhóm tội xâm phạm sở hữu có: Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự
năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, NXB Chính trị Quốc gia (2010) do
Thạc sĩ Nguyễn Mai Bộ biên soạn; Bàn về định tội danh đối với một số tội xâm
phạm sở hữu của Lê Văn Luật, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 01/2006; Vấn đề định
tội danh trong các tội xâm phạm sở hữu của Nguyễn Ngọc Chí, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 8/1997; Định tội danh đối với hành vi chiếm đoạt tài sản có thủ
đoạn gian dối trong các tội xâm phạm sở hữu, khóa luận của Vũ Thị Mai Hương
năm 2011; Tội cướp tài sản trong luật hình sự Việt Nam của Thạc sĩ Nguyễn Văn
Báu, Tạp chí Luật học số 10/2010;

Hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản tuy được
nghiên cứu nhiều trong khoa học pháp lý hình sự nước ta nhưng nội dung của các
hành vi này thường được đặt trong các cơng trình nghiên cứu về các tội xâm phạm
sở hữu nói chung, trong các giáo trình và bình luận khoa học Bộ luật Hình sự hay ở
góc độ tội phạm học và được đề cập trong các bản tổng kết, các Nghị quyết của Hội
đồng thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao. Các cơng trình đó hoặc đã được thực hiện
trên cơ sở pháp luật hình sự cũ hoặc chỉ đề cập đến một số khía cạnh của hành vi
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản, cho đến nay nhìn chung
vẫn cịn thiếu cơng trình nghiên cứu tồn diện, hệ thống về việc định tội danh đối
với các hành vi này theo quy định của Luật hình sự Việt Nam hiện hành, nêu lên
những vướng mắc cũng như tìm ra những ngun nhân dẫn đến sai sót trong q
trình định tội để có các kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh đối với
hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản.


5

3. Mục đích và phạm vi nghiên của đề tài:
Mục đích của đề tài:
Nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận định tội danh đối với nhóm tội
phạm cụ thể (nhóm tội phạm có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm
chiếm đoạt tài sản), phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật chỉ ra những vướng mắc
trong thực tế định tội danh đối với các hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực
nhằm chiếm đoạt tài sản, đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động định tội danh các hành vi này.
Phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động định tội danh chính là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự bao
gồm cả hình thức pháp lý là áp dụng pháp luật tố tụng hình sự và nội dung pháp lý
là áp dụng pháp luật hình sự. Tuy nhiên trong phạm vi đề tài này, người viết chỉ tập
trung nghiên cứu định tội danh đối với các tội trong nhóm tội xâm phạm sở hữu luật

quy định hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản dưới góc
độ nội dung pháp lý.
Đối tượng nghiên cứu:
Quy định của pháp luật về các tội xâm phạm sở hữu có hành vi dùng vũ lực,
đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản và thực trạng áp dụng pháp luật đối với
các tội phạm này.
Nhiệm vụ của đề tài:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về định tội danh các hành vi
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản, đánh giá thực tiễn áp
pháp luật trong hoạt động định tội chúng, trên cơ sở đó đề xuất một số giải
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động định tội hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa
vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản.

dùng
dụng
pháp
dùng

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, về đấu tranh phòng chống tội phạm.


6

Phương pháp cụ thể là sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu
khoa học chuyên ngành như phân tích, tổng hợp, so sánh, tham khảo chuyên gia.
Việc nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở thực tiễn hoạt động định tội danh hành vi
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản của các cơ quan tiến hành

tố tụng để làm rõ nội dung đề tài.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Việc nghiên cứu hồn thành đề tài có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực
tiễn. Đề tài góp một phần vào nhận thức chung về việc định tội danh hành vi dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản trong khoa học luật Hình sự
Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu tổng kết những vướng mắc trong thực tế định tội danh
về hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản, góp phần làm
phong phú thêm cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao hiệu quả của hoạt động
định tội đối với chúng, đảm bảo hoạt động định tội các hành vi này được chính xác.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
02 chương:
Chương 1: Khái quát chung về định tội danh đối với hành vi dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản.
Chương 2: Thực tiễn định tội danh đối với hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật hình sự 1999 và một số kiến nghị.


7

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI HÀNH VI DÙNG VŨ LỰC, ĐE DỌA DÙNG VŨ LỰC
NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1 Lý luận chung về định tội danh
1.1.1 Khái niệm, các loại và ý nghĩa của định tội danh
* Khái niệm
Trong lý luận cũng như trong thực tiễn, định tội danh là một trong những biện
pháp, cách thức đưa các quy phạm pháp luật hình sự vào cuộc sống, là tiền đề, cơ sở

cho việc áp dụng các quy phạm pháp luật khác của pháp luật hình sự và pháp luật tố
tụng hình sự. Định tội danh được thực hiện thơng qua ba khía cạnh, đó là q trình
nhận thức, là hoạt động áp dụng pháp luật và là sự đánh giá pháp lý hình sự đối với
một hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Định tội danh chính là một hoạt động tư duy logic và chặt chẽ, là một quá
trình nhận thức từ những điều đã biết để xác nhận những vấn đề chưa biết, quá trình
này chịu sự chi phối trên cơ sở sử dụng các phương pháp nhận thức như quan sát,
phân tích, tổng hợp và so sánh cùng các quy luật logic như: quy luật đồng nhất, quy
luật mâu thuẫn, quy luật bài trung hay quy luật lý do đầy đủ.
Định tội danh là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật, định tội
danh được hiểu là việc xác định sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã
được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm (CTTP) tương ứng do luật
hình sự quy định thơng qua các thủ tục tố tụng hình sự. Hoạt động định tội của
những người tiến hành tố tụng có những nét đặc thù tùy thuộc vào chức năng tố
tụng mà họ thực hiện. Đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên phạm vi hoạt động định
tội danh của họ khá rộng, tuy nhiên phạm vi hoạt động của Kiểm sát viên vẫn bị
giới hạn bởi những bằng chứng đã được thu thập trong hồ sơ, tức bị giới hạn bởi
khung pháp lý. Riêng Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thì phạm vi hoạt động định
tội hẹp hơn bởi chịu sự chi phối của chứng cứ và cáo trạng của Viện kiểm sát, Tòa
án chỉ được định tội danh đối với những hành vi bị Viện kiểm sát truy tố và phải
tuân thủ giới hạn xét xử.


8

Quá trình định tội danh diễn ra theo ba giai đoạn (ba bước) có tính logic. Giai
đoạn đầu tiên là xác định quan hệ pháp luật, người tiến hành hoạt động áp dụng
pháp luật hình sự xem xét, đánh giá hành vi cụ thể gây nguy hiểm cho xã hội đã
được thực hiện có dấu hiệu của tội phạm hay khơng. Việc đánh giá này có thể dựa
vào các căn cứ như tính chất của phương pháp, thủ đoạn, cơng cụ phương tiện thực

hiện tội phạm; tính chất mức độ thiệt hại do hành vi gây ra hay tính chất của động
cơ, mức độ lỗi và nhân thân người phạm tội. Sau khi xác định hành vi cụ thể thực
hiện trên thực tế có dấu hiệu của tội phạm, quá trình định tội danh chuyển sang giai
đoạn thứ hai. Giai đoạn này những người tiến hành định tội danh xem tội phạm mà
chủ thể thực hiện thuộc loại tội phạm nào và được quy định ở chương nào trong
phần các tội phạm của Bộ luật hình sự (BLHS). Đó là xác định khách thể loại nào
được pháp luật hình sự bảo vệ đã bị tội phạm xâm hại, trong một số trường hợp nhất
định thì phải xác định cả chủ thể đặc biệt (như người có chức vụ hoặc quân nhân).
Giai đoạn thứ ba của việc định tội là phải xác định xem đó là tội phạm gì, đồng thời
tương ứng với CTTP nào (cơ bản, tăng nặng hay giảm nhẹ) và thuộc khoản nào
trong điều luật cụ thể. Giai đoạn tìm quan hệ pháp luật hình sự cụ thể này có thể
được coi là quan trọng nhất để so sánh, đối chiếu và kiểm tra các dấu hiệu của tội
phạm do điều luật cụ thể nào trong chương đã tìm được của giai đoạn hai quy định.
Quá trình định tội danh phải trải qua ba giai đoạn trên, cả ba giai đoạn này có thể
được thực hiện độc lập, cũng có thể thực hiện một cách đồng thời với nhau.
Định tội danh là sự đánh giá pháp lý hình sự đối với một hành vi nguy hiểm
cho xã hội. Với ý nghĩa là kết quả của hoạt động áp dụng pháp luật, định tội danh là
đánh giá pháp lý hình sự của một chủ thể đối với một hành vi nguy hiểm cho xã hội
đã được thực hiện trên thực tế, nghĩa là kết luận về tội phạm, điều luật cần áp dụng
đối với trường hợp phạm tội cụ thể. Việc đánh giá pháp lý này được thể hiện thơng
qua các quyết định tố tụng hình sự. Sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý
hình sự chính là tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một
cách cơng minh, có căn cứ và đúng pháp luật.
Như vậy, định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng
pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy
đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội
dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và mối
liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ



9

thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất
định1
* Các loại định tội danh
Căn cứ vào chủ thể tiến hành định tội danh, khoa học luật hình sự phân chia
định tội danh làm hai dạng: định tội danh chính thức và định tội danh khơng chính
thức.
Định tội danh chính thức cũng như định tội danh khơng chính thức đều là xác
định sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được
thực hiện trên thực tế với các dấu hiệu CTTP được quy phạm pháp luật hình sự quy
định. Nhưng chủ thể và hậu quả của hai dạng định tội danh này là khác nhau.
Định tội danh chính thức: là sự đánh giá về mặt Nhà nước tính chất pháp lý
hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được Nhà nước ủy quyền
thực hiện. Các chủ thể này là các cơ quan tiến hành tố tụng: cơ quan điều tra, truy
tố, xét xử và một số cơ quan khác có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra
cũng có quyền định tội danh trong giai đoạn khởi tố và điều tra vụ án trong phạm vi
pháp luật quy định. Đại diện cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện việc định
tội danh là những người có thẩm quyền trực tiếp tiến hành tố tụng hình sự đối với
vụ án hình sự cụ thể, đó là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân. Hậu quả của việc định tội danh do các chủ thể này thực hiện là những hậu
quả pháp lý tố tụng hình sự như khởi tố vụ án hình sự, bắt đầu quá trình điều tra,
khởi tố bị can, truy tố, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc ra bản án kết
tội, trên cơ sở đó phát sinh quyền và nghĩa vụ tương ứng giữa người phạm tội với
các cơ quan tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật. Điều 10 Bộ luật tố tụng
hình sự (BLTTHS) Việt Nam hiện hành quy định chỉ có tội danh cuối cùng trong
bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mới được coi là tội danh chính thức mà
người phạm tội đã thực hiện.
Định tội danh khơng chính thức: là sự đánh giá khơng phải về mặt Nhà nước
tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể. Các chủ thể của dạng

định tội danh này rất đa dạng, không nhất thiết là những người nhất định nào,
thường là các luật gia, cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ làm công tác giảng dạy,
cán bộ làm công tác thực tiễn, các sinh viên luật… hoặc bất kỳ người nào đó quan
1

Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 24


10

tâm nghiên cứu vụ án hình sự cụ thể tương ứng mà đưa ra tội danh. Việc định tội
danh này thể hiện trong các bài báo, báo cáo khoa học, sách chuyên khảo, giáo
trình, bài giảng của giáo viên luật.v.v…Định tội danh khơng chính thức khơng phát
sinh quyền và nghĩa vụ trong các quan hệ pháp luật hình sự, tố tụng hình sự giữa
người thực hiện hành vi nguy hiểm với các cơ quan tố tụng mà chỉ là sự thể hiện
quan điểm hay ý kiến cá nhân. Tuy nhiên đây là dạng định tội có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình nghiên cứu pháp luật và cũng là một phương pháp nhận thức luật
pháp, góp phần trong việc phát triển khoa học luật hình sự, nâng cao kiến thức của
cán bộ tư pháp, nâng cao trình độ cho sinh viên luật, đồng thời nó cũng góp phần
tạo thành dư luận xã hội về pháp luật.
* Ý nghĩa của việc định tội danh
Định tội danh là hoạt động áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự vào thực
tiễn cuộc sống nên nó có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, thể hiện trên một số khía cạnh
sau:
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay, việc hồn thiện hệ thống pháp luật nói chung và BLHS nói riêng là sự cần
thiết của khoa học về lĩnh vực tư pháp hình sự. Định tội danh là một giai đoạn cơ
bản của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự, do đó định tội danh đúng có
nghĩa là tn thủ chính xác, thống nhất và đầy đủ các quy định của đạo luật hình sự,
phản ánh được sự đánh giá pháp lý của Nhà nước đối với tội phạm đã thực hiện.

Đồng thời hỗ trợ việc thực thi các nguyên tắc tiến bộ được thừa nhận trong luật hình
sự quốc tế cũng như trong luật hình sự nước ta như ngun tắc khơng tránh khỏi
trách nhiệm, trách nhiệm do lỗi, nguyên tắc nhân đạo. Như vậy, tất cả những điều
này cho thấy định tội danh đúng góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Định tội danh đúng còn bảo đảm quyền con người, quyền đặc trưng tự nhiên
vốn có cần được tôn trọng và không thể bị tước đoạt của bất kỳ cá nhân con người
nào. Sự thực thi chính xác trong việc định tội danh là sự bảo đảm tối đa việc điều
tra, truy tố, xét xử đúng người đúng tội, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm, bảo vệ danh
dự nhân phẩm con người. Từ đó tạo nên lịng tin của cơng dân vào tính minh bạch,
sự bình đẳng của pháp luật cũng như sức mạnh và uy tín của hệ thống tư pháp, tính
nhân đạo và dân chủ trong xã hội. Với ý nghĩa thực tiễn quan trọng này, định tội
danh thật sự là một trong những công cụ bảo vệ các quyền và tự do của con người


11

với tư cách là những giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn
minh nhân loại.
Định tội danh đúng là bảo đảm công bằng xã hội, bởi khi hành vi của người có
lỗi cấu thành tội phạm nghiêm trọng hơn nhưng lại được định tội danh theo tội nhẹ
hơn hay ngược lại hành vi cấu thành tội ít nghiêm trọng nhưng bị định tội nặng hơn,
tức người có lỗi chịu hình phạt ít nghiêm khắc hơn hoặc quá nghiêm khắc so với
hình phạt đáng lẽ người đó phải chịu theo luật, cịn tội phạm thì được đánh giá nhẹ
về đạo đức, chính trị và pháp lý một cách thiếu cơ sở. Điều đó làm giảm hiệu quả
của cơng tác đấu tranh với tình hình tội phạm và cùng lúc gây ra sự căm phẫn hợp
pháp, công bằng của nhân dân. Nên định tội danh đúng là đáp ứng được địi hỏi của
ngun tắc cơng bằng.
Ngồi ra, định tội danh cịn là kênh thực hiện hóa chính sách hình sự vào thực
tiễn. Một trong ba hình thức chủ yếu của việc triển khai chính sách hình sự vào thực
tiễn đấu tranh phịng chống tội phạm ngồi sáng tạo pháp luật và giáo dục, phát

triển ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý trong xã hội, thì đó chính là hình thức áp
dụng pháp luật. Chính sách hình sự đã được pháp điển hóa thơng qua các quy phạm
pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự. Và định tội danh chính là
hoạt động thực tế của các cơ quan tiến hành tố tụng đưa các quy phạm pháp luật
hình sự, tố tụng hình sự này vào điều chỉnh các quan hệ xã hội trong thực tiễn.
Định tội danh đúng sẽ là tiền đề cho việc xác định khung hình phạt, quyết
định hình phạt được chính xác, phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình
phạt một cách cơng minh, có căn cứ, đúng pháp luật. Đồng thời để áp dụng chính
xác các quy định của BLHS về các tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi,
tái phạm, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, án treo, thời hiệu
v.v…
Định tội danh đúng là điều kiện cho việc áp dụng các quy định tố tụng hình sự
như thời hạn tạm giam, các biện pháp ngăn chặn, khởi tố vụ án hình sự, thẩm quyền
điều tra, truy tố, xét xử…Bằng cách này, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Bên cạnh
đó, định tội danh đúng cũng là yếu tố bảo đảm xác định chính xác tình hình tội
phạm trong một không gian, thời gian nhất định.


12

1.1.2 Cấu thành tội phạm – cơ sở pháp lý của định tội danh
Về mặt khoa học luật hình sự thì CTTP được coi là cơ sở pháp lý của định tội
danh, thực hiện việc định tội danh theo các dấu hiệu của CTTP là phương pháp
khoa học của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự. Muốn định tội danh cho
hành vi cụ thể gây nguy hiểm cho xã hội, người áp dụng luật hình sự phải căn cứ
vào các CTTP đã được quy định trong BLHS. Việc xác định tội danh chính là q
trình xác định xem hành vi phạm tội đã thỏa mãn các dấu hiệu của CTTP nào trong
BLHS. Nếu các tình tiết của hành vi phạm tội phù hợp với các dấu hiệu của CTTP
được quy định trong BLHS thì hành vi được định theo tội danh của CTTP đó. Chính

vì vậy CTTP là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng cho loại tội
phạm cụ thể được quy định trong BLHS và là mơ hình pháp lý của tội phạm.
* Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc
trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự.
CTTP được hình thành trên cơ sở tổng hịa các dấu hiệu thuộc bốn yếu tố của
CTTP: khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể của tội phạm. Các yếu tố
này quan hệ chặt chẽ với nhau, sự phân chia các dấu hiệu trong CTTP theo bốn yếu
tố trên là tương đối, chúng tồn tại trong một thể thống nhất tạo nên các CTTP riêng
biệt.
Khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại2
Đây là yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ tội phạm nào, theo luật hình sự
Việt Nam, những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là
những quan hệ xã hội đã được xác định tại Điều 8 của BLHS. Khách thể của tội
phạm có vai trị rất lớn trong q trình định tội danh, việc xác định đúng khách thể
là giai đoạn cần thiết, đầu tiên trong định tội danh, nó cho người áp dụng luật hình
sự định hướng tìm được một quy phạm cần thiết trong hệ thống pháp luật hình sự.
Trong cấu thành của một tội phạm cụ thể, khách thể của tội phạm là khách thể trực
tiếp.

2

Trường Đại học luật Hà Nội (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.
62


13

Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể bị loại tội phạm cụ

thể trực tiếp xâm hại. Bất cứ tội phạm nào cũng đều có khách thể trực tiếp. Có tội
phạm chỉ có một khách thể trực tiếp, nhưng cũng có tội phạm có nhiều khách thể
trực tiếp. Đó là trường hợp tội phạm xâm hại trực tiếp nhiều quan hệ xã hội và sự
gây thiệt hại cho bất cứ quan hệ xã hội nào trong số những quan hệ xã hội bị gây
thiệt hại cũng đều chưa thể hiện được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi. Bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi chỉ được thể hiện một cách đầy
đủ trong sự tổng hợp các thiệt hại đã gây ra hoặc đe dọa gây ra cho tất cả các quan
hệ xã hội. Nên không phải chỉ có một quan hệ xã hội được coi là khách thể trực tiếp
của tội phạm. Ví dụ: hành vi cướp tài sản vừa trực tiếp xâm hại quan hệ sở hữu vừa
trực tiếp xâm hại quan hệ nhân thân nên quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân đều là
khách thể trực tiếp của hành vi cướp tài sản.
Khách thể trực tiếp là cơ sở để người định tội danh xác định được CTTP cụ
thể tương ứng với hành vi phạm tội của người phạm tội. Định tội danh theo khách
thể trực tiếp của tội phạm là việc đánh giá pháp lý hình sự một trong những yếu tố
thể hiện rõ nét bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhằm lựa chọn đúng
quy phạm pháp luật hình sự trong phần các tội phạm của BLHS, làm căn cứ pháp lý
cho các bước tiếp theo của hoạt động định tội.
Ngoài ra, khi định tội danh cần phân biệt khách thể của tội phạm với đối
tượng bị sự xâm hại của hành vi phạm tội. “Đối tượng tác động của tội phạm là bộ
phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ”3.
Đối tượng tác động của tội phạm bao gồm các loại sau:
- Con người có thể là đối tượng tác động của tội phạm. Con người với ý nghĩa
vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội có thể là chủ thể của nhiều quan hệ
xã hội khác nhau. Trong số những quan hệ xã hội này có những quan hệ xã hội chỉ
có thể bị gây thiệt hại khi có sự biến đổi tình trạng bình thường của con người.
Quan hệ nhân thân là quan hệ xã hội thuộc loại này.
- Các đối tượng vật chất với ý nghĩa là khách thể của quan hệ xã hội có thể là
đối tượng tác động của tội phạm. Trong những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo


3

Trường Đại học luật Hà Nội (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân, Hà Nội, tr.
67


14

vệ, có những quan hệ xã hội bị tội phạm gây thiệt hại qua việc làm biến đổi tình
trạng bình thường của những đối tượng vật chất như quan hệ sở hữu …Tất cả những
hành vi làm biến đổi tình trạng bình thường của tài sản một cách trái pháp luật đều
là những hành vi gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu như hành vi chiếm đoạt, hành vi
chiếm giữ, hành vi sử dụng, hành vi hủy hoại hay làm hư hỏng v.v…
- Hoạt động bình thường của chủ thể có thể là đối tượng tác động của tội
phạm. Luật hình sự bảo vệ những loại quan hệ xã hội nhất định qua việc bảo đảm
hoạt động bình thường của chủ thể với ý nghĩa là nội dung của quan hệ xã hội.
Trong những trường hợp này hoạt động bình thường của chủ thể được coi là đối
tượng của tội phạm. Sự làm biến đổi tình trạng của đối tượng tác động ở đây chính
là sự cản trở hoạt động bình thường của chủ thể hoặc dưới hình thức làm biến dạng
xử sự của người khác hoặc dưới hình thức tự làm biến dạng xử sự của chính mình.
Ví dụ: hành vi đưa hối lộ (Điều 289 BLHS) là hành vi nhằm làm biến dạng xử sự
của người có chức vụ, quyền hạn; Hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Điều 259
BLHS) là hành vi tự làm biến dạng xử sự của chính mình.
Đối tượng tác động của tội phạm có ý nghĩa quan trọng đối với việc định tội
danh. Nó là yếu tố có ý nghĩa định tội. Ví dụ: đối tượng của tội sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, buôn bán hàng cấm theo Điều 155 BLHS phải là hàng hóa mà Nhà
nước cấm kinh doanh. Hoặc trong một số trường hợp đối tượng phạm tội là tình tiết
định khung của tội phạm. Ví dụ: trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trong tội hiếp
dâm theo Điều 112 BLHS. Vì vậy, để định tội danh đúng trong những trường hợp
này, một mặt cần phải phân tích, nhận thức đúng các quy định của pháp luật về vai

trò của các loại đối tượng, mặt khác phải xác định được đối tượng cụ thể trên thực
tế.
Như vậy, quá trình xác định khách thể của tội phạm nhìn từ góc độ định tội
danh là q trình tìm câu trả lời cho các câu hỏi: hành vi phạm tội xâm hại hoặc có
thể xâm hại tới quan hệ xã hội nào? Những quy phạm pháp luật hình sự nào bảo vệ
quan hệ xã hội đó? Định tội danh theo khách thể tội phạm giúp làm sáng tỏ một
trong những yêu cầu của quá trình định tội, bởi bất cứ tội phạm nào cũng là sự
thống nhất hữu cơ của các dấu hiệu CTTP.


15

Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những
biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan4.
Mặt khách quan bao gồm: hành vi phạm tội, hậu quả nguy hại, mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra cũng như những biểu hiện bên
ngoài khác như cơng cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm, hồn cảnh phạm tội
v.v…Việc đánh giá chính xác về mặt pháp lý hình sự các dấu hiệu thuộc mặt khách
quan của tội phạm giúp người định tội danh phân biệt đúng từng tội phạm cụ thể,
căn cứ vào các dấu hiệu cơ bản và điển hình nhất được nhà làm luật ghi nhận với
tính chất là các dấu hiệu bắt buộc tại điều (khoản) tương ứng trong Phần các tội
phạm BLHS, đồng thời tạo lập được một hệ thống lập luận chính xác, khách quan
để từ đó đưa ra kết luận về tội danh đối với hành vi đã thực hiện một cách thuyết
phục.
- Hành vi khách quan là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan, hành vi này
được người phạm tội thực hiện qua hành động hoặc không hành động phạm tội.
Hành động phạm tội là người phạm tội thực hiện những động tác cơ học của cơ thể
mà luật hình sự cấm. Khơng hành động phạm tội là người phạm tội không thực hiện
những động tác mà theo pháp luật họ có nghĩa vụ phải làm và có thể làm được. Việc

xác định, phân loại được CTTP nào có hành vi chỉ là hành động, cấu thành nào có
hành vi chỉ là khơng hành động, cấu thành nào có cả hai hành vi hành động và
khơng hành động có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội danh đúng.
- Hậu quả của tội phạm là những thay đổi nhất định trong thế giới khách
quan do hành vi phạm tội gây ra đối với các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ, hậu quả này có thể ở dạng vật chất hoặc phi vật chất. Do đó, việc xác định rõ
hậu quả phạm tội cũng là điều kiện quan trọng để định tội danh đúng. Hậu quả
phạm tội khi được nhà làm luật quy định là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm tại các
cấu thành tương ứng thì người định tội danh nhất thiết phải xác định được hậu quả
đó, nếu khơng xác định được hậu quả theo luật định thì hành vi đó khơng CTTP
hoặc CTTP ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay giai đoạn phạm tội chưa đạt. Trường
hợp hậu quả không được luật quy định là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm tại các

4

Trường Đại học luật Hà Nội (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân, Hà Nội, tr.
71


16

khung tương ứng thì nó cũng có ý nghĩa quan trọng đối với việc quyết định hình
phạt.
- Việc xác định rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả
xảy ra chính là điều kiện quan trọng để định tội danh chính xác và quyết định hình
phạt đúng pháp luật. Quan hệ nhân quả là mối quan hệ giữa các hiện tượng của thế
giới khách quan, tồn tại bên ngồi và khơng phụ thuộc vào ý thức chủ quan của
người phạm tội. Một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một hậu quả nguy
hiểm cho xã hội, nếu về mặt khách quan hậu quả đó do chính hành vi của họ gây ra.
Xác định điều này chính là sự xác định giữa hành vi và hậu quả có mối quan hệ

nhân quả với nhau. Xác định quan hệ nhân quả là xác định mối quan hệ đặc biệt
giữa hai hiện tượng khách quan: hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã
hội. Quan hệ nhân quả không tồn tại độc lập, riêng lẻ mà chỉ tồn tại trên cơ sở tồn
tại của hai hiện tượng khách quan đó. Để xác định rõ quan hệ nhân quả đòi hỏi
người định tội danh phải xác định được những căn cứ sau:
+ Nguyên nhân bao giờ cũng xảy ra trước so với hậu quả về mặt thời gian.
Khơng thể có ngun nhân xảy ra đồng thời hoặc sau hậu quả, đây là căn cứ cần
thiết đầu tiên cho việc kiểm tra sự tồn tại của quan hệ nhân quả. Vì vậy nếu xác
định căn cứ này khơng thỏa mãn thì có thể loại trừ được sự tồn tại quan hệ nhân
quả.
+ Hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm phải có khả năng thực tế
gây ra hậu quả và cũng chính là nguyên nhân gây ra hậu quả.
+ Khi hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm được thực hiện thì
nó tạo ra sự thay đổi tình trạng bình thường của đối tượng bị tác động và khả năng
thực tế gây nên hậu quả phạm tội trong thực tế khách quan.
- Ngồi ra trong q trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố
tụng còn phải thu thập, kiểm tra và đánh giá các tình tiết khác thuộc mặt khách quan
của tội phạm như thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, thủ đoạn, phương pháp, phương
tiện thực hiện tội phạm, bởi các tình tiết này trong một số trường hợp là dấu hiệu cơ
bản của CTTP có ý nghĩa về định tội danh hoặc trong việc định khung tăng nặng.
Trường hợp không được luật quy định là dấu hiệu bắt buộc của CTTP, thì các tình
tiết đó cũng có ý nghĩa quan trọng đối với việc cá thể hóa hình phạt.


17

Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm
tội. Mặt chủ quan phản ánh mối liên hệ giữa ý thức và ý chí của người phạm tội với
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người đó đã thực hiện. Đánh giá pháp lý các dấu

hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm là nhằm xác định hình thức lỗi của tội phạm
được thực hiện cũng như vai trị của lỗi, động cơ và mục đích phạm tội trong việc
định tội danh đối với tội phạm.
Nguyên tắc chung khi xem xét mặt chủ quan của tội phạm, người định tội
danh nhất thiết phải chứng minh được lỗi (cố ý hoặc vô ý) của tội phạm. “Người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là có lỗi nếu khi thực hiện nhận thức
được hoặc có đủ điều kiện kiện để nhận thực được tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi và có đủ điều kiện lựa chọn, thực hiện hành vi khác phù hợp với địi hỏi của
xã hội”5. Trong BLHS hiện hành có quy định một số CTTP mà trong đó hình thức
lỗi hoặc mục đích phạm tội được nhà làm luật ghi nhận là dấu hiệu định tội bắt buộc
của CTTP cơ bản, những trường hợp này để đảm bảo định tội danh chính xác địi
hỏi người định tội danh cần xem xét hành vi cụ thể nào trong thực tế khách quan
cho phép nói lên rõ rệt nhất ý thức và ý chí cũng như động cơ và mục đích của
người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm.
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện
hành vi phạm tội. Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan của người
phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong quá trình định
tội danh, động cơ và mục đích phạm tội chỉ được xem xét trong các tội có lỗi cố ý.
Chỉ trong trường hợp luật quy định về dấu hiệu động cơ, mục đích thì chúng mới là
dấu hiệu định tội.
Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố CTTP, vì vậy nếu khơng thỏa
mãn dấu hiệu chủ thể của tội phạm thì hành vi nguy hiểm cho xã hội sẽ không bị coi
là tội phạm. “Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt
độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể”6.

5

Nguyễn Ngọc Hòa (2008), Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.91.
Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân

dân, Hà Nội, tr. 69.
6


18

Một người để trở thành chủ thể của tội phạm địi hỏi người đó phải có năng
lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định. Năng lực trách nhiệm hình sự
là năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi thực hiện và năng lực điều
khiển được hành vi theo đòi hỏi tất yếu của xã hội. Để có được năng lực này, con
người phải đạt độ tuổi nhất định được quy định tại Điều 12 BLHS. Do đó, hai điều
kiện năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi là những dấu hiệu pháp lý bắt buộc
của chủ thể của tội phạm. Hai dấu hiệu này được phản ánh trong tất cả các CTTP.
Tóm lại, khi xác định các dấu hiệu của một CTTP cụ thể cần phải xem xét
toàn bộ hệ thống pháp luật hình sự hiện hành. Việc làm sáng tỏ CTTP được hiểu là
làm sáng tỏ một kết luận logic, vì vậy nó là một đảm bảo quan trọng đối với định tội
danh chính xác. Và định tội danh là việc đối chiếu, so sánh một hiện tượng xảy ra
trong thực tiễn khách quan sinh động với một CTTP, với những dấu hiệu đặc trưng
cơ bản nói lên bản chất của loại tội phạm tương ứng.
* Cấu thành tội phạm là mơ hình pháp lý của tội phạm
Phần các tội phạm của BLHS tồn tại như một mơ hình về tội phạm làm cơ sở
pháp lý cho việc định tội danh. Mơ hình đó thể hiện dưới dạng một cấu thành cụ thể
và sự đánh giá tội phạm về phương diện pháp lý của Nhà nước tức định tội danh
được thể hiện dưới dạng CTTP đó. Bởi vậy CTTP là mơ hình khái qt, mang tính
khoa học gồm những dấu hiệu chung, cơ bản nhất của tội phạm cùng thuộc một
loại. Đó là những dấu hiệu điển hình và có tính lặp đi lặp lại ở tất cả các hành vi
phạm tội thuộc loại đó. CTTP là hệ thống các dấu hiệu cần và đủ để xác định tội
phạm. Chúng cần ở nghĩa thiếu bất kỳ một dấu hiệu nào của cấu thành đều không
thể buộc tội người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và do đó khơng thể
truy cứu trách nhiệm hình sự người đó. Chúng đủ vì khơng cần phải xác định thêm

những dấu hiệu khác mới có cơ sở buộc tội và đủ để phân biệt một CTTP cụ thể này
với các CTTP khác (điều này không loại trừ việc xác định các tình tiết thực tế khác
nhằm cá thể hóa hình phạt, quyết định hình phạt bổ sung…)
CTTP là khái niệm pháp lý của loại tội phạm cụ thể, là sự mô tả khái quát
loại tội phạm nhất định trong luật hình sự. Quan hệ giữa tội phạm với CTTP là quan
hệ giữa hiện tượng và khái niệm. Tội phạm là hiện tượng xã hội cụ thể, tồn tại
khách quan còn CTTP là khái niệm pháp lý của hiện tượng đó. Khi CTTP đã được
quy định trong luật hình sự thì nó có giá trị pháp lý để thực hiện. Khi đã xác định


19

được CTTP của một loại tội phạm cụ thể thì các nhà làm luật đặt tên và đưa vào quy
định trong luật hình sự, nhờ đó có thể định tội này hay tội khác. Mỗi CTTP được
các nhà làm luật đặt một tên tương ứng với điều luật, tức trở thành tội danh được
quy định trong Phần các tội phạm của BLHS. Như vậy có thể nói rằng, nếu khơng
có CTTP được quy định trong luật hình sự thì cũng khơng có cơ sở để xác định một
tội phạm với tên gọi cụ thể - tức tội danh nào đó. Vì vậy, CTTP là mơ hình pháp lý
của tội phạm.
CTTP là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự, là cơ sở pháp lý để
định tội danh, còn cơ sở thực tế để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người
là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người đó thực hiện. Điều này loại trừ nguyên
tắc tương tự trong pháp luật hình sự, đồng thời đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong
áp dụng pháp luật hình sự, đảm bảo cho việc định tội danh được tiến hành trên cơ
sở pháp luật, ý thức pháp luật.
Trong luật hình sự dựa theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội, CTTP phân thành ba loại:
+ CTTP cơ bản: cấu thành này bao gồm những dấu hiệu mô tả tội phạm và
cho phép phân biệt tội này với tội khác, là loại cấu thành chỉ có dấu hiệu định tội.
Đây là cấu thành cơ bản của một tội danh, mỗi tội danh đều phải có một CTTP cơ

bản, cho nên loại cấu thành này vừa địi hỏi có tính khái qt cao, vừa đòi hỏi phải
rõ ràng, phản ánh được những nội dung biểu hiện về cấu trúc có tính đặc trưng của
một loại tội, đủ để phân biệt các loại tội phạm với nhau đồng thời phân biệt với
trường hợp chưa phải là tội phạm.
+ CTTP tăng nặng: là CTTP ngoài dấu hiệu định tội cịn có thêm dấu hiệu
định khung tăng nặng, tức dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã
hội tăng lên một cách đáng kể.
+ CTTP giảm nhẹ: là CTTP ngoài dấu hiệu định tội cịn có thêm dấu hiệu
định khung giảm nhẹ, tức dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã
hội giảm xuống một cách đáng kể.
Để xác định tội danh, cơ sở pháp lý của việc xác định tội danh là CTTP cơ
bản. Một người chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt
giảm nhẹ hay tăng nặng khi đã thỏa mãn các dấu hiệu cơ bản của CTTP. Các cấu


20

thành tăng nặng hay giảm nhẹ đều xuất phát từ các dấu hiệu đặc trưng cơ bản của
tội phạm cộng với tình tiết định khung tăng nặng hoặc giảm nhẹ.
Như vậy, với sự phân tích trên có thể thấy rằng trong ba loại CTTP này chỉ
CTTP cơ bản là cấu thành có ý nghĩa trong việc định tội danh.
Khoa học luật hình sự cũng phân loại CTTP theo đặc điểm cấu trúc của nó
gồm:
+ CTTP vật chất: là cấu thành mà mặt khách quan bao gồm hành vi, hậu quả
và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Để xác định một tội phạm hoàn
thành khi định tội danh phải xác định tất cả các tình tiết đó.
+ CTTP hình thức: là cấu thành có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành
vi nguy hiểm cho xã hội. Cịn hậu quả của tội phạm khơng phải là dấu hiệu bắt buộc
đối với định tội danh, tức là để định tội danh chỉ cần xác định hành vi phạm tội là
đủ.

+ CTTP cắt xén: cũng giống trong CTTP hình thức, trong CTTP loại này chỉ
có dấu hiệu hành vi mà khơng có dấu hiệu hậu quả. Nhưng khác với CTTP hình
thức, dấu hiệu hành vi trong CTTP cắt xén khơng phải là sự phản ánh chính hành vi
phạm tội (của loại tội được CTTP cắt xén phản ánh) mà là hành vi “hoạt động”
nhằm thực hiện hành vi đó – hành vi phạm tội của loại tội phạm được CTTP cắt xén
phản ánh. CTTP tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79 BLHS)
là CTTP thuộc loại này. Trong CTTP của tội này, dấu hiệu hành vi phản ánh tất cả
những hoạt động nhằm thành lập hoặc tham gia tổ chức có mục đích lật đổ chính
quyền, chứ khơng phải phản ánh chính hành vi thành lập hoặc tham gia là hai loại
hành vi phạm tội của loại tội phạm này. Trong CTTP cắt xén thì tội phạm hồn
thành ngay từ khi có hành vi bất kỳ nhằm thực hiện hành vi phạm tội.
Như vậy, việc phân loại CTTP theo đặc điểm cấu trúc là cơ sở xác định thời
điểm hoàn thành tội phạm, có ý nghĩa cho việc định tội.


×