Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Đấu tranh phòng,chống các tôi xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ LUẬN VĂN: VÕ THỊ KIM ÁNH

ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH
DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hình sự, Mã số: 60.38.40

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Duy Hưng

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2009


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: Võ Thị Kim Ánh – sinh ngày: 08/02/1980
Là học viên lớp Cao học luật khóa 10, Trường Đại học luật thành phố Hồ
Chí Minh
Được nhà trường giao đề tài luận văn “Đấu tranh phòng, chống các tội
xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước”.
Tơi xin cam đoan những nội dung đã trình bày trong luận văn là những
kiến thức của bản thân có được trong q trình học tập, tham khảo, nghiên cứu tài
liệu và thực tiễn công tác dưới sự hướng dẫn của tiến sĩ Nguyễn Duy Hưng.
Những nội dung của các tác giả khác đã được trích dẫn, ghi chú theo đúng quy
định. Nếu có khiếu nại sau này, tơi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.


MỤC LỤC
Trang


Phần mở đầu .................................................................................................... 1
Chương 1: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo pháp luật Việt Nam và
tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình phước.
1.1 Các tội xâm phạm tình dục trẻ em dưới góc độ pháp luật hình sự ................5

1.1.1 Khái niệm về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em ........................... 5
1.1.1.1 Khái niệm trẻ em.................................................................... 5
1.1.1.2 Khái niệm và đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm tình
dục trẻ em ......................................................................................... 7
1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý về các tội xâm phạm tình dục trẻ em... 11
1.1.2.1 Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112) .......................................... 11
1.1.2.2 Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114) ....................................... 18
1.1.2.3 Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115) ..................................... 21
1.1.2.4 Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116) ................................... 22
1.2 Tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh
Bình Phước.......................................................................................................24

1.2.1 Thực trạng tình hình tội phạm ........................................................ 24
1.2.2 Động thái tình hình tội phạm.......................................................... 30
1.2.3 Cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm.................................... 32
1.2.4 Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm.............................. 38
1.2.4.1 Đặc điểm tội phạm học về biểu hiện khách quan................ 38
1.2.4.2 Đặc điểm tội phạm học về nhân thân người phạm tội ........ 41
1.2.4.3 Đặc điểm tội phạm học về nạn nhân ................................... 47
Chương 2: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm xâm
phạm tình dục trẻ em
2.1 Nguyên nhân và điều kiện về kinh tế - xã hội.................................................50
2.2 Nguyên nhân và điều kiện về tâm lý xã hội ....................................................52

2.2.1 Tâm lý người phạm tội.................................................................... 53

2.2.2 Tâm lý người bị hại......................................................................... 55
2.2.3 Tâm lý của cộng đồng và gia đình.................................................. 56
2.3 Nguyên nhân và điều kiện về cơ chế quản lý..................................................56

2.3.1 Trong lĩnh vực văn hóa................................................................... 56
2.3.2 Những sơ hở, thiếu sót trong cơng tác quản lý hộ khẩu, hộ tịch.... 57
2.3.3 Những thiếu sót trong cơng tác giáo dục của nhà trường, gia đình
và xã hội.................................................................................................. 58
2.4 Nguyên nhân và điều kiện về chính sách pháp luật .......................................60


2.5 Nguyên nhân và điều kiện trong công tác đấu tranh phịng, chống
tội phạm............................................................................................................63

2.5.1 Những tồn tại trong cơng tác phòng ngừa tội phạm ...................... 63
2.5.2 Những tồn tại trong công tác điều tra, truy tố, xét xử.................... 65
Chương 3: Giải pháp đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm tình dục
trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước
3.1 Dự báo tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở Bình Phước trong thời
gian tới và thực trạng đầu tranh............................................................................73

3.1.1 Dự báo tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em ...................... 73
3.1.2 Thực trạng đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm ................ 76
3.2 Những giải pháp đấu tranh phịng, chống các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở
Bình Phước trong thời gian tới ..............................................................................77

3.2.1 Những định hướng phòng ngừa...................................................... 77
3.2.2 Một số giải pháp phịng ngừa......................................................... 82
3.2.2.1 Biện pháp kinh tế - văn hóa - xã hội.................................... 83
3.2.2.2 Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước............................... 85

3.2.2.3 Tăng cường cơ sở pháp lý cho công tác đấu tranh ............. 87
3.2.2.4 Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh ............................... 90
Kết luận .......................................................................................................... 94


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo đến nay đã giành được những thắng lợi to lớn và quan trọng trên
mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội; cơng cuộc cải cách hành chính, cải
cách tư pháp được thúc đẩy; việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa phát triển trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cùng với
cả nước, Bình Phước cũng đã đạt được những kết quả quan trọng tạo bước
tiến mới trong công cuộc xây dựng tỉnh nhà.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế thị
trường đồng thời cũng đem lại những yếu tố tiêu cực cho đời sống xã hội. Đó
là sự phân hóa giàu nghèo, sự tha hóa trong lối sống, tiêu cực, tệ nạn xã hội,
người lao động thiếu việc làm, cơ chế chính sách về văn hóa - xã hội chậm
đổi mới, nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết và tội phạm có
điều kiện phát sinh và tồn tại.
Trong những năm qua cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm ở
Bình Phước đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, là một tỉnh mới được thành
lập, kinh tế còn chậm phát triển, sự phân hóa giàu nghèo, sự phân bố dân cư
chưa hợp lý, sự di dân tự do, chủ yếu là các dân tộc thiểu số, trình độ dân trí
thấp, nghèo nàn, lạc hậu, thất học… đã làm cho diễn biến của tình hình tội
phạm, tệ nạn xã hội ở Bình Phước ngày càng phức tạp trong đó tình hình tội
phạm xâm phạm tình dục trẻ em ngày càng gia tăng, hình thức, đối tượng
phạm tội đa dạng, chúng lợi dụng sự ngây thơ cả tin của trẻ em, sự thiếu hiểu

biết, sự khiếm khuyết về thể chất, lợi dụng tình trạng bất khả kháng để hoạt
động phạm tội. Các tội xâm phạm tình dục là đặc biệt nghiêm trọng vì nó
khơng chỉ trực tiếp xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự của trẻ em trong nhiều
trường hợp gây tổn hại đến sức khoẻ, tính mạng, đến sự phát triển bình
thường về tình dục của trẻ em mà cịn làm băng hoại đến những giá trị thuần
phong mỹ tục của dân tộc. Tính nguy hiểm cịn thể hiện ở việc phạm tội thực
hiện hành vi phạm tội chính ngay tại ngơi nhà của mình, với chính những
người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, ni dưỡng. Đó là những


2

trường hợp bố hiếp dâm con, ông hiếp dâm cháu, anh em trong nội tộc hiếp
dâm lẫn nhau. Điều này thể hiện sự xuống cấp về đạo đức, bất chấp luân
thường đạo lý, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, gây hoang mang lo lắng
trong nhân dân.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm
tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
chương trình cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua đã có một số cơng trình, đề tài nghiên cứu khoa
học liên quan đến vấn đề đấu tranh phịng, chống các tội xâm phạm tình dục
trẻ em như luận văn cao học của tác giả Thái Rết, “đấu tranh phịng, chống
các tội phạm lạm dụng tình dục trẻ em ở Sóc Trăng” và một số bài trên các
tạp chí chun ngành: Tạp chí Tịa án, Tạp chí kiểm sát… có thể thấy rằng
cho đến nay chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu về tình hình tội
phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong những
năm gần đây. Bình Phước tuy là một tỉnh mới thành lập nhưng chịu sự ảnh
hưởng không nhỏ của mặt trái nền kinh tế thị trường và các luồng văn hóa
khơng lành mạnh của Phương Tây du nhập vào đã làm thay đổi nếp sống

truyền thống của dân tộc, làm ơ nhiễm đời sống văn hóa tinh thần của xã hội,
làm suy đồi đạo đức và tha hóa biến chất ở một bơ phận khơng nhỏ dân cư …
Tình hình đó gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự trị an và là một trong
những nguyên nhân làm phát sinh các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Đề tài
“đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh
Bình Phước” là một nghiên cứu chuyên sâu về công tác đấu tranh phịng,
chống các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên cơ sở phân tích nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội phạm, từ đó đề ra các giải pháp góp phần hạn chế,
đi đến loại trừ tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em ở Bình Phước nói riêng và
cả nước nói chung.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3.1 Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu của luận văn là tập trung làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn
cơng tác đấu tranh phịng, chống các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở Bình


3

Phước nhằm tìm ra nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, từ đó đề
ra các giải pháp hữu hiệu cho cuộc đấu tranh nhằm hạn chế và từng bước đẩy
lùi tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em ở Bình Phước.
3.2 Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo quy định của Bộ
luật hình sự năm 1999.
- Phân tích, làm sáng tỏ tình hình các tội xâm phạm ình dục trẻ em trên
địa bàn tỉnh Bình Phước từ năm 2004 đến năm 2008.
- Phân tích nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm xâm phạm
tình dục trẻ em.
- Dự báo tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trong thời gian
tới ở Bình Phước.

- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phịng, chống
các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở Bình Phước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình
Phước.
- Hoạt động đấu tranh phịng, chống các tội xâm phạm tình dục trẻ em
trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về địa bàn nghiên cứu: Tỉnh Bình Phước
- Về thời gian nghiên cứu: 5 năm từ năm 2004 đến năm 2008.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh
phịng, chống tội phạm nói chung và các tội xâm phạm tình dục trẻ em nói
riêng trong giai đoạn hiện nay; đồng thời sử dụng phương pháp thống kê,
phân tích, tổng hợp, so sánh, dự báo, điều tra xã hội học…
6. Kết quả của hoạt động nghiên cứu


4

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ làm phong phú thêm hệ thống đề tài
nghiên cứu tội phạm học, góp phần vào hệ thống lý luận tội phạm học ở Việt
Nam. Đề tài cũng góp phần hồn thiện hệ thống lý luận về biện pháp đấu
tranh phòng, chống các tội xâm phạm tình dục trẻ em nói riêng và tội phạm
nói chung; đóng góp ý kiến trong xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật
hình sự; có giá trị trong việc nghiên cứu xây dựng và thực hiện các chính sách
kinh tế - văn hóa - xã hội ở Bình Phước. Luận văn cịn có giá trị đối với cán

bộ làm công tác trong ngành Công an, Viện kiểm sát, Tịa án…
7. Cấu trúc của đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo pháp luật Việt Nam
và tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
Chương 2: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm xâm phạm
tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
Chương 3: Giải pháp đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm tình
dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước.


5

CHƯƠNG 1
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VÀ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ
EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC
1.1 Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo pháp luật Việt Nam

1.1.1 Khái niệm về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em
1.1.1.1 Khái niệm trẻ em
Để làm rõ khái niệm tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em, việc tìm hiểu
khái niệm trẻ em có ý nghĩa nhận thức lý luận và thực tiễn quan trọng đối với
công tác đấu tranh phịng, chống loại tội phạm này.
Trẻ em, đó là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn phát triển đầu tiên của
cuộc đời con người. Theo Điều 1 Công ước của Liên Hiệp quốc về quyền trẻ
em được thông qua ngày 20/10/1989 tại Viên (áo) và có hiệu lực ngày
02/9/1990 thì “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật
pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Các quốc

gia trong đó có Việt Nam, đã phê chuẩn Cơng ước này đều phải tuân thủ theo
quy định về tuổi trẻ em là người dưới 18 tuổi.
ở Việt Nam, chưa có sự quy định thống nhất về độ tuổi của trẻ em và
người chưa thành niên. Việc định nghĩa về trẻ em được đề cập ở nhiều văn
bản khác nhau.
Điều 1, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định: “trẻ em
được quy định trong luật này là công dân dưới 16 tuổi”. Luật Lao động quy
định: “trẻ em là người dưới 15 tuổi”. Theo quy định ở chương X Bộ Luật hình
sự (BLHS) năm 1999 thì “người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi”. Cịn khi nói đến các tội xâm phạm tình dục trẻ em, luật quy
định “trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Trong các văn bản quy định quyền và
nghĩa vụ của công dân Việt Nam (được quy định trong Hiến pháp, Luật Hơn
nhân gia đình, Luật Quốc tịch thể hiện trong các chế định quyền bầu cử, ứng
cử, nghĩa vụ quân sự, quyền kết hôn, tuổi chịu trách nhiệm hình sự) thì giới
hạn độ tuổi “trẻ em là dưới 18 tuổi”.


6

Như vậy, trong hệ thống pháp luật hiện hành ở nước ta cịn có sự thiếu
thống nhất về giới hạn độ tuổi trẻ em. Tuy nhiên, trong các văn bản đó đều
thống nhất thừa nhận một vấn đề, đó là trẻ em là lứa tuổi luôn được và cần
được chăm sóc và bảo vệ, ln là đối tượng cần được xã hội dành cho sự giáo
dục toàn diện và tạo điều kiện tốt nhất để phát triển cả về thể chất và nhân
cách.
Để có cơ sở cho việc đưa ra một khái niệm về trẻ em, trước hết chúng
ta cần khái quát một số đặc điểm đặc trưng của trẻ em là:
- Về độ tuổi: mặc dù Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em nêu rõ:
“trẻ em là người dưới 18 tuổi” nhưng trong giải thích Cơng ước có lưu ý: tùy
từng quốc gia mà có thể quy định độ tuổi trẻ em có thể là thấp hơn; nhưng các

nước đều phải thống nhất chung là dưới 18 tuổi; nghĩa là việc quy định độ
tuổi thấp hơn tuỳ thuộc vào lịch sử, tập quán, điều kiện phát triển thực tế của
mỗi quốc gia. Mức độ tuổi trẻ em không quy định quá 18 tuổi.
- Về mặt xã hội: trẻ em là một lực lượng đông đảo trong xã hội, là lớp
người kế tục sự nghiệp của thế hệ đương thời. Tương lai của mỗi dân tộc, mỗi
quốc gia phụ thuộc vào sự giáo dục, chăm sóc trẻ em. Trẻ em có trở thành chủ
thực sự cho sự nghiệp phát triển xã hội hay không phụ thuộc vào việc nó được
chuẩn bị như thế nào. Gia đình, nhà trường, xã hội tác động như thế nào, tiếp
thu những kinh nghiệm nào… phụ thuộc vào ý thức trách nhiệm và sự gương
mẫu trong mọi hành vi, hoạt động của thế hệ những người đi trước. Do đó, trẻ
em có quyền được hưởng những quyền hợp pháp của mình và có quyền địi
hỏi ở người lớn sự bảo vệ, chăm sóc, giáo dục, giúp đỡ. Mọi thiếu sót trong
việc chăm sóc, giáo dục trẻ em đều có thể dẫn đến những hậu quả trên nhiều
mặt, mọi sự xâm hại đến quyền lợi của trẻ em đều đáng bị lên án.
- Về phát triển sinh lý: giai đoạn tuổi trẻ là giai đoạn xác lập, phân định
và hoàn thiện dần các chức năng sinh lý của các cơ quan trong cơ thể, do đó
có những biến động trong q trình phát triển. Vì vậy, xã hội cần phải đảm
bảo những điều kiện thuận lợi nhất, trước hết là điều kiện sinh hoạt vật chất
và giáo dục, hướng cho sự phát triển hài hồ, cân đối, khơi dậy những tiềm
năng sẵn có để mỗi đứa trẻ có thể phát huy những thế mạnh về mặt sinh học
trong sự phát triển sau này.


7

- Về tâm lý: những gì mà trẻ có được trong tâm lý trẻ là do quá trình
tiếp thu lĩnh hội từ bên ngồi, trong mơi trường sống của nó để hình thành
những phẩm chất tâm lý nói chung và nhân cách nói riêng. Trong giai đoạn
này nếu người lớn bỏ mặc cho trẻ tự phát triển sẽ dẫn đến chỗ tâm lý phát
triển tiêu cực, phiến diện, nhân cách hình thành và phát triển chậm chạp, bị

các nét tâm lý lệch lạc chèn ép có ảnh hưởng rất nguy hiểm cho giai đoạn
người chưa trưởng thành, nếu người lớn áp đặt hoặc xâm hại một cách thô bạo
lên các em sẽ dẫn đến sang chấn tâm lý, hậu quả khơn lường, bắt chước hoặc
tiến hành những việc làm tị mò của người lớn.
Từ những đặc điểm về độ tuổi, về tâm, sinh lý và đặc điểm về mặt xã
hội, căn cứ pháp luật Quốc tế và pháp luật hiện hành ở nước ta như đã phân
tích ở trên có thể đưa ra khái niệm về trẻ em như sau:
“Trẻ em là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ, ở độ tuổi
dưới 16”1. Quy định này phù hợp với Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em và quy định của Bộ Luật Hình sự về độ tuổi của trẻ em như tại các
điều về tội Hiếp dâm trẻ em, Giao cấu với trẻ em, Cưỡng dâm trẻ em và Dâm
ô đối với trẻ em.
1.1.1.2 Khái niệm và đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm tình dục
trẻ em
* Khái niệm tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em
Để đưa ra được khái niệm như thế nào là tội phạm xâm phạm tình dục
trẻ em trước hết chúng ta cần hiểu khái niệm xâm phạm, xâm phạm tình dục
trẻ em là gì? Theo từ điển Tiếng việt của Viện ngơn ngữ học thì khái niệm
“xâm phạm” nếu hiểu với nghĩa động từ là “động chạm đến quyền lợi của
người khác”.
Theo đó, chúng ta có thể hiệu xâm phạm tình dục trẻ em là hành vi
cưỡng bức hoặc lợi dụng sự phát triển chưa hồn thiện về thể chất và trí tuệ
của trẻ em để xâm phạm về danh dự, nhân phẩm, ảnh hưởng đến sự phát triển
bình thường về tình dục cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp khác của trẻ
em.
Vậy, tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em là gì?
1

Trần Phương Đạt(2005), Phịng ngừa tội phạm xâm hại trẻ em ở Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội, tr.16.



8

Khi nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học, thì tội phạm xâm phạm tình
dục trẻ em chỉ một nhóm tội bao gồm nhiều tội phạm cụ thể, xâm phạm tới
một loại đối tượng con người cụ thể thuộc lứa tuổi trẻ em. Trong luật Hình sự
Việt Nam khơng đặt ra một chương hay điều riêng về tội xâm phạm tình dục
trẻ em. Vì vậy, để làm rõ khái niệm này chúng ta phải xuất phát từ quy định
của Bộ Luật Hình sự về tội phạm.
Theo Điều 8 BLHS 1999 thì: “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có đủ năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,
tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cơng dân, xâm phạm
những lợi ích khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm tội phạm xâm phạm
tình dục trẻ em như sau:
“Tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật Hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quyền được tôn trọng về danh dự,
nhân phẩm, đến sự phát triển bình thường về tình dục của trẻ em”.
Đây là khái niệm chung chỉ tất cả những hành vi nguy hiểm xâm phạm
đến những khách thể khác nhau được luật hình sự bảo vệ mà có liên quan đến
sự phát triển bình thường về tình dục của trẻ em.
Trước khi BLHS năm 1985 ra đời, thì chưa có một văn bản pháp luật
hình sự nào quy định một cách có hệ thống và đầy đủ về các tội xâm phạm
tình dục trẻ em. Trong Quốc triều Hình luật tuy đã dành hẳn một chương để
quy định về các tội “thơng gian” trong đó có tội hiếp dâm và hình phạt đối với

người phạm tội “hiếp dâm thì xử tội lưu hay tội chết và phải nộp tiền tạ hơn
tiền tạ về tội gian dâm thường một bậc; nếu làm người đàn bà bị thương thì xử
tội nặng hơn tội đánh người bị thương một bậc. Nếu làm người đàn bà bị chết
thì điền sản kẻ phạm tội phải trả cho nhà người bị chết”. Như vậy, ở thời điểm
này các nhà làm luật cũng đã ý thức được sự nguy hiểm của tội hiếp dâm và


9

đã quy định một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội nhằm bảo vệ
những quyền lợi hợp pháp của người phụ nữ. Tuy nhiên, BLHS nhà Lê lại chỉ
quy định chung chung mà không phân chia thành các điều luật xâm phạm tình
dục cụ thể cho những đối tượng cụ thể. Đến Sắc luật số 03/SL ngày 15/3/1976
cũng chỉ quy định về tội hiếp dâm thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người. BLHS năm 1985 đã có một chương
riêng với nhiều điều luật khác nhau quy định về các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong đó có nhóm tội xâm phạm
tình dục. Dù vậy, BLHS năm 1985 cũng không tách các tội xâm phạm tình
dục trẻ em ra thành các điều luật mà được quy định chung trong các điều luật
hiếp dâm, cưỡng dâm và giao cấu với người dưới 16 tuổi và mức hình phạt
cũng thấp hơn. Do tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội và yêu cầu của
cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm mà BLHS năm 1999 đã tách các tội
xâm phạm tình dục trẻ em ra thành các điều luật riêng, đó là:
- Điều 112, tội hiếp dâm trẻ em.
- Điều 114, tội cưỡng dâm trẻ em.
- Điều 115, tội giao cấu với trẻ em.
- Điều 116, tội dâm ô đối với trẻ em.
Như vậy, so với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 đã quy định cụ
thể các tội xâm phạm tình dục trẻ em và được thể hiện dưới ba dạng: một là,
quy định bằng các điều luật cụ thể; hai là, quy định xâm phạm trẻ em là tình

tiết định khung tăng nặng; ba là, trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm.
* Đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm tình dục
Từ khái niệm về tội phạm xâm phạm tình dục và các quy định của Bộ
luật hình sự hiện hành, có thể đưa ra các đặc điểm pháp lý của các tội xâm
phạm tình dục trẻ em như sau:
- Thứ nhất, khách thể loại của các tội xâm phạm tình dục trẻ em là sự
phát triển bình thường về tình dục, nhân phẩm và về tâm sinh lý của trẻ em.
Sức khoẻ của trẻ em là tình trạng sức lực của các em đang sống trong
điều kiện bình thường. Cho nên sức khoẻ thực ra là trạng thái tâm lý, sự hoạt
động hài hoà trong cơ thể tạo nên những khả năng chống lại bệnh tật. Bản
thân các em là người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và trí tuệ. Sự xâm


10

phạm tình dục đến các em là bằng tác động ngoại lực làm cho trẻ yếu đi hoặc
gây nên những tổn thương ở các bộ phận trong cơ thể như: ảnh hưởng xấu đến
cơ quan sinh dục của bé gái hoặc gây thương tích cho trẻ làm cho hoạt động
của trẻ khó khăn hơn so với trước gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bình
thường về tình dục của trẻ em.
Nhân phẩm, danh dự của các em là những yếu tố về tinh thần, bao gồm
nhân phẩm, giá trị, sự tôn trọng của những người xung quanh, của xã hội đối
với trẻ em. Xâm phạm danh dự, nhân phẩm là làm cho trẻ bị coi thường, bị
khinh rẻ trong một tập thể trường lớp, nhóm bạn bè, trong nhân dân, trong xã
hội. Ngồi ra, sự xâm phạm tình dục còn ảnh hưởng đến tâm sinh lý trẻ em
như gây ra sự hoảng loạn về tinh thần, tâm lý xấu hổ, hoang mang lo sợ v.v…
- Thứ hai, mặt khách quan của các tội xâm phạm tình dục trẻ em là sự
biểu hiện ra bên ngoài của các hành vi, mà ở đây là dùng vũ lực, đe doạ dùng
vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của trẻ
em.

+ Dùng vũ lực là dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của trẻ
nhằm đè bẹp sự kháng cự, như: vật ngã, trói, đánh, giữ tay, chân… để thực
hiện hành vi phạm tội.
+ Thủ đoạn khác có thể là hành vi đe doạ dùng vũ lực uy hiếp tinh thần
làm cho trẻ khiếp sợ hoặc dùng các chất gây mê đưa trẻ vào tình trạng khơng
thể kháng cự để thực hiện hành vi phạm tội.
Tội phạm còn được thể hiện ở hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến trẻ bị lệ
thuộc hoặc trẻ đang trong tình trạng bị quẫn bách để thực hiện hành vi phạm
tội (ví dụ như tội cưỡng dâm trẻ em).
Về hậu quả nguy hiểm cho xã hội là những thiệt hại gây ra cho nhân
phẩm, danh dự thể hiện dưới dạng về thể chất (gây những thiệt hại về sức
khoẻ) hoặc những thiệt hại về tinh thần (xúc phạm danh dự, nhân phẩm
v.v…) gây tâm lý hoang mang lo sợ cho trẻ cả trong quá trình phát triển sau
này, sự lo sợ mất niềm tin khi tiếp xúc với người lớn. Hậu quả này không phải
là dấu hiện bắt buộc của tất cả các cấu thành tội phạm của nhóm tội này. Tất
cả các tội phạm của nhóm này đều có cấu thành tội phạm hình thức.


11

- Thứ ba, Mặt chủ quan của tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em đa số
được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp nhằm thoả mãn những nhu cầu cá nhân đê
hèn.
- Thứ tư, chủ thể của các tội xâm phạm tình dục trẻ em là những người
có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo luật định. Tuy vậy, nét
đặc trưng trong chủ thể của loại tội phạm này là người lớn chiếm đa số, nạn
nhân và người phạm tội có sự quen biết nhất định với nhau, ngoại trừ tội dâm
ô đối với trẻ em (Điều 116), các điều còn lại đòi hỏi chủ thể là chủ thể đặc
biệt.
- Thứ năm, về hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em được

quy định cụ thể trong từng điều luật. Trong đó, chỉ có điều luật quy định hình
phạt cao nhất là tử hình đối với tội hiếp dâm trẻ em. Các tội xâm phạm tình
dục trẻ em thuộc loại tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng. Ngồi hình phạt chính, nhiều điều luật của nhóm tội này quy
định hình phạt bổ sung, đó là hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định.2
1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý về các tội xâm phạm tình dục trẻ em
1.1.2.1 Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112)
Hiếp dâm trẻ em là tội phạm mới được quy định tại Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1985, trên cơ sở tách một phần
đoạn 2 khoản 1 và tồn bộ khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự 1985 thành Điều
112. Bộ luật hình sự năm 1999 về cơ bản vẫn giữ lại các dấu hiệu, các tình tiết
định khung hình phạt như Điều 112 BLHS năm 1985. Tuy nhiên, có bổ sung,
sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn xét xử và tình hình phát triển của xã hội.
Trong BLHS năm 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành không định
nghĩa thế nào là hiếp dâm trẻ em. Vì vậy, trong nghiên cứu khoa học cũng
như việc áp dụng pháp luật hình sự có nhiều cách hiểu khác nhau. Có ý kiến
cho rằng “hiếp dâm trẻ em là hành vi của một người dùng vũ lực, đe doạ dùng
vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ của nạn nhân hoặc dùng thủ
đoạn khác giao cấu trái ý muốn với người dưới 16 tuổi”3. ý kiến khác lại cho
2
3

Trần Phương Đạt(2005), Phòng ngừa tội phạm xâm hại trẻ em ở Việt Nam. Nxb CAND, HN, tr 29-31
Đinh Văn Quế(2006), Bình luân khoa học BLHS phần các tội phạm tập 1, Nxb Tổng hợp TP HCM, tr 200


12

rằng: “hiếp dâm trẻ em là hành vi của một người dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ

lực hoặc lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn
khác giao cấu trái ý muốn với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”4.
Khoản 1 Điều 112 BLHS 1999 quy định: nạn nhân của tội hiếp dâm trẻ
em là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Còn đối với trường hợp nạn nhân
là các em chưa đủ 13 tuổi, Điều 112 BLHS khẳng định: “mọi trường hợp giao
cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em”. Vì vậy, hiếp
dâm trẻ em phải được hiểu là hành vi của một người dùng vũ lực, đe doạ dùng
vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng
thủ đoạn khác giao cấu trái ý muốn với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
và giao cấu với người dưới 13 tuổi.
Việc nhà làm luật quy định nạn nhân dưới 13 tuổi dù có đồng ý để
người phạm tội giao cấu hay khơng thì hành vi giao cấu này vẫn bị coi là
phạm tội hiếp dâm trẻ em. Sở dĩ được quy định như vậy vì ở độ tuổi dưới 13
trẻ em cịn hết sức non nớt, yếu ớt về thể chất và trí tuệ, chưa có khả năng
biểu lộ ý chí đúng đắn, dễ bị người khác lôi kéo, rũ rê, mua chuộc, khó có thể
tự vệ được nên cần được bảo vệ và chăm sóc một cách đặc biệt kể cả sự bảo
vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời nhằm đảm bảo sự
phát triển bình thường, lành mạnh của các em. Cịn đối với nạn nhân từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi thì phải xác định việc giao cấu đó phải trái với ý muốn
của nạn nhân.
Các dấu hiệu pháp lý
* Khách thể
Khách thể của tội phạm này là quyền bất khả xâm phạm về tình dục và
quyền được tơn trọng về danh dự, nhân phẩm. Và trong một số trường hợp tội
phạm này còn xâm phạm đến sức khoẻ của trẻ em và trật tự an tồn cơng
cộng.
* Chủ thể
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Người thực hiện hành vi
phạm tội của tội này chỉ có thể là nam giới. Nữ giới chỉ có thể tham gia trong


4

Nguyễn Khắc Hải(2002), “về điều 112 trong BLHS năm 1999”, Tạp chí TAND, tr 17-18


13

vụ án đồng phạm hiếp dâm trẻ em với vai trò là người xúi giục, người giúp
sức hay tổ chức.
* Mặt khách quan
Hành vi khách quan của tội này là hành vi giao cấu với các em gái từ
đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của các em bằng thủ đoạn dùng
vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được hoặc
dùng thủ đoạn khác. Đối với trường hợp nạn nhân là các em chưa đủ 13 tuổi
thì “mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm
trẻ em”.
Hành vi giao cấu trái với ý muốn của trẻ em gái từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi là hành vi khách quan của cấu thành tội hiếp dâm trẻ em. Tình tiết
“trái với ý muốn” được thể hiện thông qua sự phản kháng, tự vệ của nạn nhân
như: cấu, cắn, cào… (phản kháng tích cực) hoặc qua sự khóc lóc, van xin…
(phản kháng tiêu cực) hoặc phản ứng sau khi tỉnh táo (đối với trường hợp bị
chuốc rượu hoặc bị bỏ thuốc mê). Nạn nhân cương quyết phản đối hành vi
hiếp dâm từ khi bắt đầu hành vi hiếp dâm cho đến khi hành vi hiếp dâm được
chấm dứt. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào người phạm tội giao cấu
được với người bị hại thì mới là phạm tội hiếp dâm trẻ em mà trong nhiều
trường hợp người phạm tội mới có hành vi dùng vũ lực nhằm giao cấu với
người bị hại là đã phạm tội hiếp dâm trẻ em. Trong trường hợp này gọi là
phạm tội hiếp dâm chưa đạt. Về dấu hiệu này, cũng có nhiều quan điểm khác
nhau. Có ý kiến cho rằng, nếu người phạm tội chưa giao cấu được với người
bị hại thì chưa coi là đã phạm tội hiếp dâm trẻ em. Lại có ý kiến khác cho

rằng tội hiếp dâm trẻ em là tội cấu thành hình thức nên chỉ cần người phạm
tội có hành vi dùng vũ lực là tội phạm đã hoàn thành. Tuy nhiên, trong điều
luật của tội hiếp dâm trẻ em thể hiện hành vi giao cấu là dấu hiệu khách quan
của cấu thành tội phạm (dấu hiệu bắt buộc). Thơng thường, đối với các tội cấu
thành hình thức, hành văn của điều luật thường được nhà làm luật dùng từ
“nhằm” để chí mục đích của người phạm tội, ví dụ như tội phản bội tổ quốc
(Đ 78), tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền (Đ 79), tội bạo loạn (Đ 82), tội


14

hoạt động phỉ (Đ 83)… từ những phân tích trên chúng ta cũng thấy rõ tội hiếp
dâm trẻ em là tội cấu thành vật chất chứ không phải cấu thành hình thức5.
Giao cấu vừa là hành vi, đồng thời cũng là hậu quả xảy ra của tội hiếp
dâm trẻ em. Điều này khi mới nghe qua tưởng chừng như trái quy luật tự
nhiên, khơng thể có một hiện tượng vừa là hành vi vừa là hậu quả. Nhưng ở
đây hành vi giao cấu không bao giờ là nguyên nhân của hậu quả bị giao cấu
mà hậu quả bị giao cấu là kết quả của hành vi dùng vũ lực nhằm giao cấu trái
với ý muốn của trẻ em gái từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Đây là dấu hiệu hết sức quan trọng mà các cơ quan tiến hành tố tụng
trong quá trình điều tra cần phải làm rõ để xác định có phạm vào tội hiếp dâm
trẻ em hay không. Nếu hành vi giao cấu không trái ý muốn của các em gái từ
đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì cấu thành tội giao cấu đối với trẻ em (Điều
115). Vì vậy, khi xác định việc giao cấu có trái với ý muốn của người bị hại
(trẻ em gái từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi) hay khơng ngồi lời khai của người
bị hại, chúng ta còn phải căn cứ vào những yếu tố như: mối quan hệ giữa hai
người, thủ đoạn thực hiện tội phạm, hoàn cảnh cụ thể khi xảy ra giao cấu,
nhân thân của cả hai người… chỉ khi nào chứng minh được việc giao cấu đó
là trái với ý muốn của trẻ em gái từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì người có
hành vi giao cấu mới bị coi là phạm tội hiếp dâm trẻ em.

Đối với người bị hại là các trẻ em gái dưới 13 tuổi thì dù có trái với ý
muốn hay khơng, người có hành vi giao cấu với các em đều là phạm tội hiếp
dâm trẻ em. Sở dĩ được quy định như vậy vì nhà làm luật coi việc lợi dụng độ
tuổi để có được sự đồng ý của nạn nhân cũng là một dạng cụ thể của thủ đoạn
khác – thủ đoạn lợi dụng tình trạng khơng có khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn
được.
Việc xác định trường hợp phạm tội này chủ yếu là xác định tuổi của
nạn nhân. Đây là yêu cầu bắt buộc của các cơ quan tiến hành tố tụng nên
trong hồ sơ vụ án nhất thiết phải có giấy khai sinh của người bị hại là trẻ em,
nếu khơng có giấy khai sinh thì phải có các tài liệu chứng minh người bị hại
là người chưa đến 16 tuổi. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp
việc xác định tuổi của người bị hại gặp rất nhiều khó khăn, các cơ quan tiến
5

Đinh Văn Quế(2006), Bình luận khoa học BLHS phần các tội phạm tập 1, Nxb Tổng Hợp TPHCM, tr.183.


15

hành tố tụng đã áp dụng hết mọi biện pháp nhưng vẫn không xác định được
tuổi của người bị hại. Vậy trong trường hợp này, việc tính tuổi của người bị
hại để xác định họ có phải là trẻ em hay khơng sẽ như thế nào? Vấn đề này có
hai ý kiến khác nhau.
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng: Nếu chỉ biết tháng sinh mà khơng biết
ngày sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó, nếu khơng biết ngày, tháng
sinh thì lấy ngày, tháng cuối cùng của năm đó. Ví dụ, cơ quan tiến hành tố
tụng chỉ xác định được cháu Nguyễn Thị A sinh tháng 6 năm 1992 thì lấy
ngày sinh của cháu A là ngày 30/6/1992; nếu chỉ biết năm 1992 thì lấy ngày
tháng sinh của cháu A là ngày 31/12/1992. Cách tính này là khơng có lợi cho
người phạm tội, vì người bị hại càng ít tuổi bao nhiêu thì người phạm tội càng

bị trách nhiệm nặng bấy nhiêu. Theo quan điểm này, xuất phát từ nguyên lý,
trẻ em cần được bảo vệ đặc biệt, nên cơ quan áp dụng pháp luật cũng phải
quan tâm đặc biệt hơn.
+ Quan điểm thứ hai cho rằng: nếu chỉ biết tháng sinh mà khơng biết
ngày sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đó, nếu khơng biết ngày, tháng sinh
thì lấy ngày đầu tiên, tháng đầu tiên của năm đó. Ví dụ, cơ quan tiến hành tố
tụng chỉ xác định được cháu Nguyễn Thị A sinh tháng 6 năm 1992 thì lấy
ngày sinh của cháu A là ngày 01/6/1992; nếu chỉ biết năm 1992 thì lấy ngày
tháng sinh của cháu A là ngày 01/01/1992. Theo quan điểm này thì việc tính
tuổi của người bị hại theo hướng có lợi cho người phạm tội nhưng cũng
khơng có nghĩa là gây bất lợi cho người bị hại là trẻ em. Vì dù là trẻ em hay
người đã đủ 16 tuổi hoặc người đã thành niên khi bị xâm hại, sự khác nhau về
tính chất nguy hiểm cho xã hội lại chính là người phạm tội chứ khơng phải là
ở phía người bị hại. Việc bồi thường danh dự, nhân phẩm, sức khoẻ, tài sản
cho người bị hại là trẻ em vẫn được đảm bảo theo đúng quy định của pháp
luật; khơng vì người bị hại là trẻ em thì được nhiều hơn người bị hại là người
đã thành niên.
Việc xác định tuổi của người bị hại có ý nghĩa đối với người phạm tội
nhiều hơn là đối với người bị hại. Do đó, tính tuổi của người bị hại theo quan
điểm thứ hai là hợp lý hơn. Tuy nhiên, để tránh tình trạng mỗi người xác định
một khác, thì các cơ quan có thẩm quyền cần có hướng dẫn cụ thể.


16

Như vậy, cấu thành tội hiếp dâm trẻ em đòi hỏi người phạm tội phải có
hành vi giao cấu với nạn nhân nhưng khơng địi hỏi hành vi giao cấu phải đã
kết thúc về mặt sinh lý. Tuỳ thuộc vào độ tuổi của nạn nhân mà hành vi giao
cấu là trái với ý muốn của các em gái từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tức là
các em gái không chấp nhận sự giao cấu hoặc hành vi giao cấu xảy ra khơng

có ý muốn của các em, vì các em đang trong tình trạng khơng thể biểu lộ ý chí
được. Hành vi giao cấu với các em gái chưa đủ 13 tuổi thì dù có dùng thủ
đoạn trên hay được sự đồng ý của các em đều coi là hành vi hiếp dâm. Sở dĩ
được quy định như vậy vì nhà làm luật coi việc lợi dụng độ tuổi để có được sự
đồng ý của nạn nhân cũng là một dạng cụ thể của thủ đoạn khác – thủ đoạn
lợi dụng tình trạng khơng có khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn được.
Hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân được thực hiện bằng
một trong những thủ đoạn sau:
+ Thủ đoạn dùng vũ lực: là dùng sức mạnh vật chất đè bẹp hay làm tê
liệt sự kháng cự của nạn nhân chống lại việc giao cấu như: xơ ngã, vật lộn,
giữ, bóp cổ nạn nhân, bịp mồm, đánh, đấm, trói v.v…
+ Thủ đoạn đe doạ dùng vũ lực: là thủ đoạn được thực hiện thơng qua
lời nói, cử chỉ v.v… để nạn nhân hiểu rằng, nếu chống cự thì có thể bị đánh,
bị giết ngay tức khắc, làm tê liệt ý chí của nạn nhân, buộc nạn nhân phải chịu
sự giao cấu mà không dám chống cự.
Điều luật không quy định đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, nên có thể
hiểu hành vi đe doạ dùng vũ lực quy định ở đây bao gồm cả trường hợp đe
doạ dùng vũ lực ngay tức khắc và trường hợp đe doạ dũng vũ lực, tức là hành
vi doạ sẽ gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ nếu không thoả mãn yêu cầu
giao cấu của người phạm tội.
+ Thủ đoạn lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được của các em gái là
trường hợp các em rơi vào tình trạng nếu như bị người khác giao cấu thì
khơng thể chống cự lại được như: lợi dụng các em đang trong tình trạng ốm
đau, bị liệt chân, tay hoặc quá yếu ớt hoặc đang trong tình trạng mê man bất
tỉnh v.v…
Tình trạng này có thể do chính người phạm tội tạo ra cho nạn nhân để
thực hiện việc giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân.


17


+ Thủ đoạn khác: là những thủ đoạn ngoài các thủ đoạn trên giúp cho
người phạm tội có thể thực hiện việc giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn
của họ. Những thủ đoạn đó, theo thực tiễn xét xử có thể là những thủ đoạn lợi
dụng trẻ em gái đang trong tình trạng khơng có khả năng biểu lộ ý chí đúng
đắn được hoặc khơng cịn khả năng làm cho bản thân được như: lợi dụng trẻ
em gái đang trong tình trạng bị say rượu nặng hoặc đang trong tình trạng bị
bệnh tâm thần, cho thuốc kích dục hoặc lợi dụng sự kém hiểu biết của nạn
nhân để thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân. Đây là quy
định mở nhằm đáp ứng u cầu đấu tranh phịng, chống nhóm các tội phạm
này.
* Mặt chủ quan
Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố ý trực
tiếp. Người phạm tội biết hành vi giao cấu của mình là trái ý muốn nhưng vẫn
mong muốn thực hiện hành vi đó bằng một trong những thủ đoạn nói trên.
* Hình phạt
Đối với trường hợp nạn nhân từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, Điều 112
BLHS quy định 3 khung hình phạt.
- Khung 1: có mức hình phạt tù từ 7 năm đến 15 năm, áp dụng trong
các trường hợp chỉ một người hiếp dâm một người khơng có các tình tiết định
khung tăng nặng.
- Khung 2: có mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Do tính chất
nguy hiểm của hành vi phạm tội, người phạm tội hiếp dâm các em gái từ đủ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi có tính chất loạn ln; làm nạn nhân có thai; gây tổn
hại cho sức khoẻ của nạn nhân với tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; nạn nhân
là người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh
hay trường hợp tái phạm nguy hiểm.
- Khung 3: có mức hình phạt từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình áp
dụng trong các trường hợp phạm tội có tổ chức; nhiều người hiếp một người;
phạm tội nhiều lần; phạm tội đối với nhiều người; gây tổn hại cho sức khoẻ

của nạn nhân với tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; người phạm tội biết mình bị
nhiễm HIV mà vẫn thực hiện hành vi hiếp dâm; làm nạn nhân chết hoặc tự
sát.


18

Đối với trường hợp nạn nhân là các trẻ em gái chưa đủ 13 tuổi luật quy
định khung hình phạt có mức phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù
chung thân hoặc tử hình.
Ngồi hình phạt chính, điều luật cịn quy định hình phạt bổ sung cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một đến
năm năm.
1.1.2.2 Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114)
Do yêu cầu của việc đấu tranh với những hành vi xâm phạm tình dục
trẻ em đang xảy ra rất nghiêm trọng ở nước ta, các nhà làm luật đã tách
trường hợp phạm tội quy định tại điểm a khoản 2 Điều 113a BLHS 1985 ra
thành tội cưỡng dâm trẻ em.
Cưỡng dâm trẻ em là hành vi của một người dùng mọi thủ đoạn khiến
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi lệ thuộc mình hoặc đang ở trong tình
trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu với mình.
Các dấu hiệu pháp lý
* Chủ thể
Nếu ở tội hiếp dâm trẻ em, người thực hành thường chỉ là nam giới cịn
những người khác trong một vụ án có đồng phạm có thể là nữ giới, thì ở tội
cưỡng dâm trẻ em người thực hành có cả nữ giới. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử
người phạm tội là nữ giới rất ít gặp mà chủ yếu vẫn là nam giới.
* Mặt khách quan
Hành vi khách quan của tội này là người phạm tội dùng mọi thủ đoạn
khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi lệ thuộc mình hoặc đang ở trong

tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu với mình.
Các thủ đoạn mà người phạm tội cưỡng dâm trẻ em dùng như: lừa
phỉnh, mua chuộc, dụ dỗ, đe doạ hoặc bằng tình cảm, tiền bạc, lời hứa… tức
là người phạm tội không từ một thủ đoạn nào để làm cho nạn nhân phụ thuộc
vào mình hiểu rõ, nếu không để cho người phạm tội giao cấu thì sẽ bất lợi cho
mình. Ví dụ như người phạm tội dọa tố cáo một hành vi vi phạm pháp luật, vi
phạm đạo đức của nạn nhân hoặc doạ sẽ khơng giúp một việc gì đó để giúp
nạn nhân thốt khỏi tình trạng quẫn bách.


19

Giữa nạn nhân và người phạm tội phải có một quan hệ nhất định và
trong quan hệ đó, nạn nhân là người lệ thuộc vào người phạm tội, nếu giữa họ
khơng có mối quan hệ lệ thuộc, thì khơng thuộc trường hợp cưỡng dâm theo
điều luật này. Trừ trường hợp, giữa họ khơng có mối quan hệ lệ thuộc trước
đó, nhưng nạn nhân đang ở trong tình trạng quẫn bách và người phạm tội đã
lợi dụng tình thế này để thực hiện hành vi giao cấu với họ.
Miễn cưỡng giao cấu: là trường hợp nạn nhân khơng thuận tình, khơng
muốn hành vi giao cấu xảy ra, nhưng miễn cưỡng phải thực hiện hành vi giao
cấu với người phạm tội. Khác với tội hiếp dâm trẻ em ở loại tội phạm này,
nạn nhân có thể từ chối, cự tuyệt thực hiện hành vi giao cấu và chấp nhận sự
đe doạ của người phạm tội, chấp nhận sự bất lợi cho mình.
Hành vi giao cấu với các em gái từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là dấu
hiện bắt buộc của cấu thành tội cưỡng dâm trẻ em. Nếu các dấu hiệu khác đã
thoả mãn nhưng chưa có việc giao cấu xảy ra, thì chưa cấu thành tội phạm. Vì
vậy, đối với tội cưỡng dâm trẻ em khơng có giai đoạn phạm tội chưa đạt.
* Khách thể
Khách thể của tội cưỡng dâm trẻ em là quyền bất khả xâm phạm về tình
dục và được tơn trọng về nhân phẩm, danh dự.

* Mặt chủ quan
Tương tự như mặt chủ quan của tội hiếp dâm trẻ em, người phạm tội
thực hiện hành vi của mình là do cố ý, và người phạm tội biết hành vi của
mình làm cho người lệ thuộc mình hoặc đang ở trong tình trạng quẫn bách
phải miễn cưỡng giao cấu nhưng vẫn dùng mọi thủ đoạn để thực hiện hành vi
đó.
Người bị hại trong vụ án cưỡng dâm trẻ em (từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi) cũng có thể là trẻ em nam, nhưng chủ yếu là trẻ em nữ. Cho dù là nam
hay nữ thì họ phải là người lệ thuộc vào người phạm tội hoặc là người đang ở
trong tình trạng quẫn bách. Người lệ thuộc ở đây có thể lệ thuộc về tinh thần
hoặc lệ thuộc về mặt vật chất bắt nguồn từ nhiều quan hệ khác nhau như: cha
với con, thầy với trò, thầy thuốc với bệnh nhân, cha cố với con chiên v.v…
Người ở trong tình trạng quẫn bách là người tuy khơng có mối quan hệ
lệ thuộc với người phạm tội nhưng do nhiều nguyên nhân họ rơi vào trong


20

tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu với người phạm tội. Người rơi
vào trong tình trạng này khơng cịn sáng suốt lựa chọn một xử sự bình thường
như những người khác hoặc trong lúc bình thường khác.
Sự miễn cưỡng của người bị hại là ý thức chủ quan của họ, nên trong
nhiều trường hợp việc xác định nó khơng phải bao giờ cũng dễ dàng. Có
người lúc giao cấu họ khơng hề miễn cưỡng nhưng sau đó vì một lý do nào đó
họ lại tố cáo rằng mình phải miễn cưỡng giao cấu hoặc ngược lại, lúc giao cấu
họ đã miễn cưỡng nhưng sau đó họ lại khai là khơng có sự miễn cưỡng.
Vì vậy, để xác định người bị hại có miễn cưỡng giao cấu với người
phạm tội hay khơng cần phải căn cứ vào các tình tiết khách quan của vụ án
mà đặc biệt là mối quan hệ lệ thuộc giữa người bị hại với người phạm tội,
hoàn cảnh lúc xảy ra việc giao cấu.

Đối với trẻ em dưới 13 tuổi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội hiếp dâm trẻ quy định tại Điều 112 BLHS.
* Hình phạt
Điều 114 quy định ba khung hình phạt với các mức đều thấp hơn so với
tội hiếp dâm trẻ em, mức phạt cao nhất là tù chung thân.
- Khung 1: mức phạt tù từ 5 năm đến 10 năm được áp dụng cho các
trường hợp phạm tội khơng có tình tiết định khung tăng nặng.
- Khung 2: có mức phạt tù từ 7 năm đến 15 năm được áp dụng trong
các trường hợp phạm tội có tính chất loạn ln; làm nạn nhân có thai; gây tổn
hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và tái
phạm nguy hiểm.
- Khung 3: có mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung
thân được áp dụng trong trường hợp phạm tội nhiều người cưỡng dâm một
người; phạm tội nhiều lần; đối với nhiều người; gây tổn hại cho sức khoẻ của
nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn
phạm tội; làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Cũng giống tội hiếp dâm trẻ em, tội cưỡng dâm trẻ em quy định ngồi
hình phạt chính cịn hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.
1.1.2.3 Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115)


21

Khác với tội hiếp dâm trẻ em và tội cưỡng dâm trẻ em, điều luật chỉ
quy định “người nào” có thể là người đã thành niên cũng có thể là người chưa
thành niên, còn tội giao cấu với trẻ em (Điều 115) điều luật quy định cụ thể
“người nào đã thành niên” tức là người đã đủ 18 tuổi trở lên.
Nhằm bảo vệ sự phát triển bình thường về tâm sinh lý cho trẻ em, ngăn
chặn những hành vi lợi dụng sự non nớt, nhẹ dạ của trẻ em đẩy họ vào những

quan hệ tình dục quá sớm, gây ảnh hưởng xấu về mọi mặt cho trẻ em mà các
nhà làm luật đã quy định tội giao cấu với trẻ em. Theo đó, ta có thể định nghĩa
“giao cấu với trẻ em là hành vi của một người đã thành niên giao cấu với trẻ
em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi không trái với ý muốn của nạn nhân”.
Các dấu hiệu pháp lý
* Chủ thể
Chủ thể của tội này chỉ có thể là người đã thành niên (nam hoặc nữ) tức
là người đã đủ 18 tuổi.
* Mặt khách quan
Người phạm tội có hành vi giao cấu (thuận tình) với trẻ em từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi tức là việc giao cấu này là hồn tồn có sự đồng tình của
hai người khơng bên nào ép buộc bên nào. Sự đồng tình này có trường hợp là
do xuất phát từ tình u giữa hai người, cũng có trường hợp do hồn cảnh gia
đình q éo le của một số trẻ em gái từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đã bán
dâm cho khách để kiếm tiền.
Hành vi giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi không thuộc hành vi phạm tội
của tội giao cấu với trẻ em mà “mọi hành vi giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi
đều phạm tội hiếp dâm trẻ em” (Đ 112). Hành vi giao cấu với người từ đủ 16
tuổi trở lên cũng không phải là hành vi phạm tội của tội này.
* Mặt chủ quan
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm tội biết người mà mình
giao cấu là người ở độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, có thể là nam giới,
nhưng chủ yếu là nữ giới.
Việc người phạm tội thực hiện được hành vi giao cấu là hồn tồn có
sự tự nguyện của người bị hại, khơng hề có sự cưỡng bức hay ép buộc nào.
Mặc dù vậy và thậm chí có trường hợp họ u cầu khơng xử lý đối với người


×