Tải bản đầy đủ (.pdf) (240 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động thi hành án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (28.24 MB, 240 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

LÊ MẠNH HÙNG

TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO
NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ GÂY RA TRONG
HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH - 9 - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO
NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ GÂY RA TRONG
HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Văn Đại
Học viên: Lê Mạnh Hùng
Lớp cao học Luật: Khóa 1 – Khánh Hịa

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Đỗ Văn Đại, các số liệu kết quả nêu
trong Luận văn là trung thực, chính xác, chưa được cơng bố ở bất cứ cơng trình
nào và có trích dẫn nguồn đầy đủ.
Học Viên

Lê Mạnh Hùng


BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ Luật dân sự

THADS

: Thi hành án dân sự

TNBTCNN

: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

TNBTTH

: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại


MỤC LỤC
Trang

PHẦN MỠ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THIỆT HẠI
DO NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ GÂY RA TRONG HOẠT ĐỘNG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ ............................................................................................. 10
1.1. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do ngƣời thi
hành công vụ gây ra trong hoạt động thi hành án dân sự.............................. 10
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây
ra trong hoạt động Thi hành án dân sự ............................................................... 10
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thiệt hại dân sự do người thi hành công vụ gây
ra trong hoạt động Thi hành án dân sự ............................................................... 13
1.3. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt động Thi
hành án dân sự.................................................................................................... 15
1.3.1. Có thiệt hại thực tế xảy ra ........................................................................... 16
1.3.2. Có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại của người thi hành công vụ
thuộc trường hợp được quy định .......................................................................... 18
1.3.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế xảy ra và hành vi trái
pháp luật .............................................................................................................. 30
1.3.4. Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong Thi hành án dân sự
.............................................................................................................................. 32
1.3.5. Trường hợp không được bồi thường .......................................................... 35
1.4. Xác định thiệt hại đƣợc bồi thƣờng ........................................................... 37
1.4.1. Thiệt hại vật chất được bồi thường ............................................................ 37
1.4.2. Thiệt hại về tinh thần.................................................................................. 41
1.5. Nguyên tắc và thủ tục giải quyết bồi thƣờng ............................................ 43
1.5.1. Nguyên tắc giải quyết yêu cầu bồi thường của Nhà nước ......................... 43
1.5.2. Thủ tục yêu cầu giải quyết bồi thường ...................................................... 45
1.6. Chủ thể có trách nhiệm bồi thƣờng .......................................................... 53


KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................... 55

CHƢƠNG 2. NHỮNG BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ GÂY RA
TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ................................................... 57
2.1. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện về căn cứ xác định hành vi trái pháp
luật của ngƣời thi hành công vụ........................................................................ 57
2.2. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện về thời hiệu yêu cầu bồi thƣờng .......... 64
2.2.1. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện về căn cứ xác định hành vi trái pháp luật
của người thi hành công vụ .................................................................................. 64
2.2.2. Bất cập và kiến nghị hoàn thiệu về thời hạn yêu cầu cơ quan có trách
nhiệm bồi thường giải quyết yêu cầu bồi thường................................................. 66
2.3. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện về thiệt hại không đƣợc bồi thƣờng.... 68
2.4. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện về bồi thƣờng tổn thất tinh thần ......... 72
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................... 76
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỠ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất
trong đời sống xã hội. Đây cũng đồng thời là một nguyên tắc pháp lý hiến định
(Điều 16 Hiến pháp 2013). Trong một Nhà nước pháp quyền, dân chủ thì quyền
bình đẳng được thể hiện rõ nét trong mối quan hệ giữa Nhà nước và cơng dân.
Trên ngun tắc bình đẳng này, trong quá trình Nhà nước thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của mình thơng qua các hành vi của người thực thi công vụ nếu
gây ra thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì Nhà nước phải bồi thường. Cơ sở pháp
lý để giải quyết bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trước đây
đã được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như BLDS 1995,
BLDS 2005; Nghị định số 47/CP ngày 03/05/1997 của Chính phủ về việc giải

quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức Nhà nước, người có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra; Nghị quyết số 388/2003/NQUBTVQH11… Đặc biệt là với việc Luật TNBTCNN được Quốc hội thơng qua
ngày 18/6/2009 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010) đã tạo cơ sở pháp lý
quan trọng cho việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường cũng như việc giải
quyết bồi thường do người thi hành công vụ gây ra. THADS là một trong những
hoạt động thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật TNBTCNN và trên cơ sở các quy
định của Luật, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật để cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 16/2010/NĐCP ngày 03/3/2010 của Chính phủ; Thơng tư liên tịch số 24/2011/TTLT-BTPBQP ngày 15/12/2011 hướng dẫn thực hiện TNBTCNN trong hoạt động
THADS (đến nay đã được thay thế Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BTPBQP ngày 07 tháng 12 năm 2015 của Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng hướng dẫn
thực hiện TNBTCNN)... Như vậy, Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn
thi hành đã thiết lập cơ chế pháp lý cho việc thực hiện TNBTTH do người thi
hành công vụ gây ra; nâng cao kỷ cương, trách nhiệm công vụ của cán bộ, công
chức và đảm bảo quyền được bồi thường của các nhân, tổ chức khi bị thiệt hại
nói chung cũng như trong hoạt động THADS nói riêng…Tuy nhiên, thực tiễn
thực hiện TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS
thời gian qua đã phát sinh nhiều vướng mắc, bất cập, trong đó, nhiều vướng mắc,


2
bất cập có ngun nhân xuất phát từ chính những quy định hiện hành của Luật
cũng như của các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó có:
Một là, Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường chưa thực sự tạo thuận lợi
cho người bị thiệt hại. Theo Luật TNBTCNN thì một trong những căn cứ để xác
định trách nhiệm bồi thường là phải có văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật và thuộc
phạm vi trách nhiệm bồi thường quy định trong hoạt động THADS tại Điều 38
của Luật. Tuy nhiên, để có văn bản này, người bị thiệt hại phải yêu cầu cơ quan
THADS giải quyết thơng qua trình tự, thủ tục giải quyết của Luật Khiếu nại. Thực
tế, hiện nay còn nhiều trường hợp cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hành vi trái pháp
luật trong tổ chức THADS của cơ quan THADS gây ra, nhưng người bị thiệt hại

đang phải chờ cơ quan THADS giải quyết để ban hành quyết định giải quyết khiếu
nại và xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ.
Hai là, thời hiệu yêu cầu bồi thường theo quy định Luật TNBTCNN là 02
năm kể từ ngày có văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành
công vụ. Quy định về thời hiệu yêu cầu bồi thường như Luật TNBTCNN hiện
hành là chưa thống nhất với những quy định của pháp luật dân sự, gây khó hiểu
và nhầm lẫn cho người bị thiệt hại. Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015
thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người
có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm. Mặt khác việc quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết bồi
thường chỉ cho phép trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được quyết
định giải quyết bồi thường hoặc hết thời hạn ra quyết định mà cơ quan có trách
nhiệm bồi thường khơng ra quyết định là quá ngắn, không tạo thuận lợi cho
người bị thiệt hại.
Ba là, Luật TNBTCNN chưa có quy định bồi thường thiệt hại trong trường
hợp người bị thiệt hại cũng có lỗi đã gây ra khó khăn trong việc áp dụng pháp
luật khi giải quyết các trường hợp này. Điều này cũng đã ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả hoạt động giải quyết bồi thường;
Bốn là, vấn đề bồi thường thiệt hại về tổn thất tinh thần trong hoạt động
THADS vẫn chưa được quy định rõ ràng trong Luật TNBTCNN hiện hành, dẫn
đến quan điểm và cách giải quyết việc bồi thường tổn thất tinh thần trong hoạt


3
động THADS chưa được thống, rõ ràng và khơng cịn phù hợp với quy định tại
Điều 30 và Điều 31 của Hiến pháp năm 2013.
Thực trạng nêu trên, đòi hỏi phải tổng kết, đánh giá một cách thực chất
tình hình thực hiện TNBTTH của Nhà nước do người thi hành cơng vụ gây ra
trong hoạt động THADS từ cả góc độ thể chế và thực tiễn thi hành có ý nghĩa
quan trọng để từ đó đưa ra kiến nghị, khuyến nghị góp phần hồn thiện pháp luật

và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật về TNBTTH do người thi hành
công vụ gây ra trong hoạt động THADS. Từ đó, học viên lựa chọn nghiên cứu đề
tài “TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS” làm
luận văn thạc sỹ luật học có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động
THADS là một vấn đề mới và chưa được đề cập, nghiên cứu nhiều dưới cả góc
độ khoa học và thực tiễn thi hành pháp luật. Một số cơng trình liên quan đến đề
tài ở những góc độ nhất định được công bố như sau:
Lê Thái Phương (2006), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của TNBTTH
của Nhà nước, Luận văn thạc sĩ Luật học1. Luận văn đã khái quát một số nội
dung về TNBTTH của Nhà nước, thực trạng pháp luật Việt Nam về bồi thường
thiệt hại, trong đó tác giả đã so sánh một số chế định cụ thể của pháp luật bồi
thường thiệt hại Việt Nam với chế định tương ứng của một số nước trên thế giới.
Tuy nhiên do lựa chọn đề tài rất rộng, nên luận văn của tác giả chưa đi sâu phân
tích, làm rõ TNBTCNN trong hoạt động thi hành án dân sự mà chỉ đề cập tới vấn
đề lý luận cũng như thực tiễn về một hoặc một số khía cạnh trong pháp luật về
TNBTCNN, hơn nữa luận văn của tác giả được nghiên cứu trong bố cảnh trước
khi Luật TNBTCNN được ban hành nên các căn cứ quy định, cũng như số liệu
phân tích, minh hoạt trong luận văn tương đối lạc hậu và chưa đề cập một cách
toàn diện tới việc TNBTCNN do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động
THADS.
Nguyễn Đỗ Kiên (2014), Thực hiện pháp luật về TNBTCNN do cơng chức
cơ quan hành chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học

1

Lê Thái Phương (2006), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của TNBTTH của nhà nước, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Trường Đại học luật Hà Nội.



4
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh2. Luận án đã xây dựng khái
niệm, phân tích rõ nội dung thực hiện pháp luật về TNBTCNN, xác định các yếu tố
đảm bảo thực hiện pháp luật về bồi thường của Nhà nước cũng như đánh giá kết
quả, hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về TNBTCNN. Trong Luận án tác giả
đã tập trung nghiên cứu về TNBTCNN ở nhiều cơ quan, trong đó có cơ quan
THADS, tuy nhiên do đề tài quá rộng nên tác giả chưa đi sâu vào lĩnh vực THADS,
cụ thể là TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS.
Đỗ Văn Đại và Nguyễn Trương Tín (2014), “Pháp luật Việt Nam về
TNBTCNN”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội3. Trong cuốn sách này, trên cơ sở
bình luận những bản án có tính điển hình, các tác giả đi sâu phân tích những quy
định của pháp luật Việt Nam về TNBTCNN, từ đó bình luận, so sánh với những
nội dung tương ứng của pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia khác nhau.
Qua đó, đưa ra một số ý kiến, đánh giá, nhận xét góp phần hồn thiện pháp luật
về TNBTCNN nói chung và TNBTTH do người thi hành cơng vụ gây ra trong
hoạt động THADS nói riêng ở nước ta. Đây là một tài liệu hữu ích, có giá trị
tham khảo cao đối với những người làm công tác pháp luật và những học giả
nghiên cứu về pháp luật bồi thường của Nhà nước. Đặc biệt cuốn sách này đã
giúp cho học viên được nghiên cứu một cách toàn diện về TNBTTH trong hoạt
động THADS để hoàn thành cơ bản luận văn.
Lê Thị Kim Dung và Nguyễn Văn Điệp (2014), “Thực tiễn giải quyết bồi
thường Nhà nước trong hoạt động THADS”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật (Số
chuyên đề Thực tiễn thi hành Luật Luật TNBTCNN), NXB Tư pháp, Hà Nội4. Nội
dung bài viết đề cập tương đối toàn diện về cơ sở pháp lý và phạm vi của việc giải
quyết TNBTCNN trong công tác THADS; thực tiễn triển khai và thực hiện Luật
TNBTCNN trong hệ thống cơ quan THADS và một số kinh nghiệm thực tiễn giải
quyết bồi thường Nhà nước trong THADS. Trong bài viết này các tác giả chủ yếu
nêu lên các quy định của pháp luật và kinh nghiệm giải quyết các vụ việc cụ thể
trong hoạt động giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động thi

2

Nguyễn Đỗ Kiên (2014), Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do cơng chức cơ
quan hành chính nhà nước gây ra ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh.
3
Đỗ Văn Đại và Nguyễn Trương Tín (2014), Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường của nhà nước,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4
Lê Thị Kim Dung và Nguyễn Văn Điệp (2014), "Thực tiễn giải quyết bồi thường nhà nước trong hoạt động
Thi hành án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật (Số chuyên đề Thực tiễn thi hành Luật Luật TNBTCNN),
NXB Tư pháp, Hà Nội.


5
hành án dân sự sự mà chưa đi sâu phân tích những bất cập của pháp luật và kiến
nghị hồn thiện pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS.
Ngoài ra, cịn có một số bài viết có liên quan đến bồi thường thiệt hại do
người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS được công bố trên các
tạp chí, các trang web, một số bài báo, bài tham luận được trình bày trong các
buổi hội thảo, tọa đàm về các lĩnh vực này... cũng là những tài liệu nghiên cứu
quan trọng được học viên lựa chọn tham khảo khi thực hiện luận văn.
Các cơng trình nghiên cứu về TNBTCNN đã được công bố chủ yếu tập
trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn về giải quyết bồi thường thiệt hại do người
có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng và người thi hành công vụ trong
lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước gây ra mà chưa đề cập, nghiên cứu đầy
đủ, toàn diện về TNBTTH trong lĩnh vực THADS với những đặc thù nhất định.
Do vậy, việc nghiên cứu TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt
động THADS gắn với những đặc thù riêng của hoạt động này có ý nghĩa cả về
mặt lý luận và thực tiễn, góp phần kiến nghị hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu

quả giải quyết bồi thường thiệt hại do người công vụ gây ra trong hoạt động
THADS cũng như ngăn ngừa những hành vi vi phạm công vụ gây thiệt hại dẫn
đến trách nhiệm bồi thường.
Cho tới thời điểm hiện tại, chưa có cơng trình khoa học nào tìm hiểu một
cách có hệ thống, chi tiết và đặc biệt chỉ ra những điểm bất hợp lý trong pháp
luật hiện nay và đề ra phướng hướng hoàn thiện pháp luật về TNBTCNN trong
hoạt động THADS theo tinh thần của Hiến pháp 2013, Bộ Luật dân sự 2015,
Luật TNBTCNN năm 2009 và các văn bản pháp luật khác có liện quan.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Khi nghiên cứu đề tài, học viên hướng tới mục đích đầu tiên là hiểu rõ các
quy định của pháp luật liên quan đến TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra
trong hoạt động THADS, bằng việc nghiên cứu các văn bản pháp luật như Bộ
Luật dân sự 2015; Luật TNBTCNN; Luật THADS và các văn bản dưới luật, học
viên mong muốn nêu lên một cách khái quát, toàn diện và đầy đủ về TNBTTH
do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS theo quy định của
pháp luật, góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về TNBTTH
do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS, từ đó tiếp thu được
cơ sở lý luận, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về TNBTTH do người thi


6
hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS, nhận diện được những bấp cập
của quy định pháp luật, đề xuất giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật bồi
thường thiệt hại trong THADS ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Mục đích tiếp theo mà học viên mong muốn, hướng tới là luận văn sẽ trở
thành một tài liệu khoa học pháp lý có giá trị khoa học nhất định phục vụ cho
việc nghiên cứu, học tập và có thể là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giải
quyết bồi thường thiệt hại trong hoạt động THADS. Kết quả nghiên cứu của luận
văn góp phần bổ sung lý luận về bồi thường thiệt hại do người thi hành cơng vụ
gây ra trong hoạt động THADS từ góc độ lý luận và thực tiễn thi hành pháp luật.

Những bất cập, đề xuất, giải pháp và kiến nghị được học viên trình bày trong
luận văn, hy vọng sẽ có giá trị tham khảo, nghiên cứu trong việc xem xét sửa
đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về TNBTCNN nói chung và TNBTTH do
người thi hành cơng vụ gây ra trong hoạt động THADS nói riêng. Mục đích
chính mà học viên mong muốn đạt được khi nghiên cứu và thực hiện đề tài khoa
học này là tham gia đóng góp những giải pháp, đề xuất và kiến nghị những nội
dung có giá trị pháp lý góp phần sửa đổi, bổ sung Luật TNBTCNN phù hợp và
theo kịp với yêu cầu thực tiễn của xã hội.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể như: Phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, Phương pháp
so sánh, Phương pháp tổng hợp, phương pháp duy vật biện chứng và một số
phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp khác để làm rõ TNBTTH do người
thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS, đánh giá thực trạng áp dụng
pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS và kiến nghị một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật về TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt
động THADS. Các phương pháp được dùng cụ thể như sau:
Phương pháp lịch sử được sử dụng nhiều tại Chương 1 của Luận văn, học
viên dùng phương pháp này để làm rõ chế định bồi thường thiệt hại của Nhà
nước và TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS
được hình thành và phát triển như thế nào. Học viên còn tiếp tục vận dụng
phương pháp này trong Chương 2 để đánh giá thực trạng việc bồi thường thiệt
hại của Nhà nước trước và sau khi áp dụng Luật TNBTCNN.


7
Phương pháp so sánh được sử dụng ở một số mục của Chương 1. Áp dụng
phương pháp so sánh này, học viên muốn trả lời câu hỏi, TNBTTH của Nhà
nước có phải là một dạng của TNBTTH ngồi hợp đồng hay khơng. Đồng thời

phân tích, so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam về TNBTCNN với các
quy định cơ bản về TNBTCNN ở một số nước trên thế giới, từ đó nêu lên quan
điểm của học viên.
Phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích và phương pháp bình luận
được vận dụng xuyên suốt trong cả 2 chương của luận văn nhằm làm rõ
TNBTTH của người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS như: căn
cứ xác định trách nhiệm bồi thường, các loại thiệt hại được bồi thường, nguyên
tắc và thủ tục giải quyết bồi thường, chủ thể có trách nhiệm bồi thường,
Thơng qua các phương pháp khoa học nêu trên học viên muốn làm rõ vấn
đề là khi người thi hành công vụ trong hoạt động THADS mà gây ra thiệt hại cho
tổ chức, cá nhân thì được Nhà nước bồi thường, từ đó phân tích những bất cập,
hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện hành về TNBTTH của Nhà nước trong hoạt
động THADS và đề xuất, kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật Việt Nam về
TNBTTH của Nhà nước nói chung và trong hoạt động THADS nói riêng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ đề tài khoa học luận văn thạc sĩ, học viên tập trung
nghiên cứu TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS
theo quy định pháp luật hiện hành ở nước ta. TNBTTH do người thi hành công
vụ gây ra trong hoạt động THADS thực chất là TNBTCNN và cịn bao gồm cả
trách nhiệm hồn trả tài sản, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành cơng vụ đối
với thiệt hại do có hành vi trái pháp luật gây ra. Ở đây học viên chỉ nghiên cứu
về TNBTTH mà khơng nghiên cứu trách nhiệm hồn trả. Do vậy phạm vi mà
học viên nghiên cứu bao gồm:
- Những vấn đề có bản về TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra
trong hoạt động THADS.
- Căn cứ là phát sinh TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra trong
hoạt động THADS.
- Những thiệt hại được bồi thường và không được bồi thường trong hoạt
động THADS.



8
- Trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường trong hoạt động THADS.
- Chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động THADS.
- Những bấp cập và kiến nghị hồn thiện pháp luật về TNBTCNN nói chung
và TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS riêng.
Qua việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về
TNBTTH do người thi hành cơng vụ có hành vi trái pháp luật gây ra khi trong
hoạt động THADS và các quy định pháp luật về TNBTCNN, học viên mạnh dạn
giới thiệu, nêu lên một vài quy định cơ bản về TNBTCNN ở một số nước trên
thế giới như Pháp; Mỹ; Trung Quốc;…
Trong chương 2 của luận văn, học viên cung cấp những vụ việc trong thực
tế đã được các cơ quan có thẩm quyền có văn bản giải quyết và tiến hành thực
hiện việc bồi thường thiệt hại, để tham khảo và cho thấy các bất cập, hạn chế
trong việc áp dụng luật tại một số Tòa án và các cơ quan THADS. Từ những bất
cập, hạn chế, học viên mạnh dạn đưa ra quan điểm cá nhân, đề xuất các giải
pháp, kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về TNBTCNN
trong lĩnh vực THADS cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
5. Các vấn đề dự kiến cần giải quyết
Thơng qua việc nghiên cứu tồn diện, có hệ thống đề tài này nội dung
luận văn có một số điểm mới là:
Trong chương 1 của luận văn, học viên tập trung giải quyết những vấn đề
mang tính lý luận, mạnh dạn xây dựng khái niệm pháp lý về khái niệm TNBTTH
do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS, nghiên cứu, phân
tích các căn cứ phát sinh và đặc điểm của TNBTTH do người thi hành công vụ
gây ra trong hoạt động THADS, cũng như làm rõ các quy định về TNBTTH
trong hoạt động THADS theo quy định của Luật TNBTCNN, có minh họa bằng
những vụ việc cụ thể mà các cơ quan THADS phải bồi thường thiệt hại do người
thi hành công vụ thuộc mình trực tiếp quản lý gây ra cho cá nhân, tổ chức bị thiệt
hại trong phạm vi cả nước. Ngoài ra, học viên còn nghiên cứu, tham khảo các

quy định về TNBTCNN do người thi hành công vụ gây ra ở một số nước trên thế
giới có thể được tìm hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhằm cung cấp, đánh giá
một cách tổng thể toàn diện về TNBTCNN ở một số nước điển hình trên thế giới
có tính chất tham khảo cho việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam về


9
TNBTTH do người thi hành cơng vụ gây ra nói chung và TNBTTH do người thi
hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS nói riêng.
Trong chương 2 của luận văn, học viên cập nhập những thông tin về số
liệu bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự, chỉ ra những bấp cập của
pháp luật về TNBTCNN nói chung và bồi thường thiệt hại trong hoạt động
THADS nói riêng, từ đó đề xuất, kiến nghị hồn thiện những quy định pháp luật
về TNBTTH trong hoạt động THADS.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về TNBTTH do người thi hành công vụ
gây ra trong hoạt động THADS.
Chương 2: Những bất cập và kiến nghị về TNBTTH do người thi hành
công vụ gây ra trong hoạt động THADS ở Việt Nam hiện nay.


10
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ GÂY RA
TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do
ngƣời thi hành công vụ gây ra trong hoạt động thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công

vụ gây ra trong hoạt động Thi hành án dân sự
Theo nguyên tắc chung của các mối quan hệ trong đời sống xã hội, khi
giữa các bên chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ tương ứng nếu có sự vi
phạm, xâm hại quyền thì phải có nghĩa vụ khơi phục, bồi hồn, bù đắp những tổn
thất, thiệt hại gây ra. Việc khôi phục, bồi hoàn, bù đắp những tổn thất, thiệt hại
gây ra được khái quát chung là bồi thường thiệt hại.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì bồi thường là việc "đền bù những tổn thất
đã gây ra”5 và thiệt hại được hiểu là “mất mát, hư hỏng nặng nề về người và
của”.6 Trong khi đó, theo Từ điển Luật học có định nghĩa thiệt hại là "tổn thất về
tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp
luật bảo vệ”7. Như vậy, với các quan niệm như trên, có thể hiểu một cách chung
nhất khái niệm thiệt hại là những tổn thất về vật chất và tinh thần của cá nhân, tổ
chức. Thiệt hại về vật chất bao gồm: tài sản bị mất, hủy hoại, bị hư hỏng; chi phí
phải bỏ ra để khắc phục, ngăn chặn thiệt hại cùng những hoa lợi, lợi tức không
thu được mà đáng ra thu được. Thiệt hại về tinh thần bao gồm: tổn thất về danh
dự, uy tín, nhân phẩm hoặc suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân.
Về mặt pháp lý, bồi thường thiệt hại là một dạng nghĩa vụ dân sự phát
sinh do gây thiệt hại; bồi thường thiệt hại là việc bù đắp lại những tổn thất và
khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra; do đó, bồi thường thiệt hại
là biện pháp trách nhiệm dân sự nhằm khơi phục lại tình trạng ban đầu, khắc
phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh

5

Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thơng tin, Hà Nội, tr 191.
Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thơng tin, Hà Nội, tr 1571.
7
Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển bách khoa- NXB Tư pháp,
Hà Nội, tr 118.
6



11
thần cho chủ thể bị thiệt hại - bên bị thiệt hại. Bồi thường thiệt hại là một chế
định quan trọng trong luật dân sự Việt Nam và ra đời từ rất sớm8.
Trong pháp luật dân sự, bồi thường thiệt hại là „„hình thức trách nhiệm dân
sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách
bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại”9.
Theo đại từ điển tiếng Việt thì trách nhiệm là “điều phải làm, phải gánh
vác hoặc phải nhận lấy về mình”10. Như vậy có thể hiểu, trách nhiệm là sự ràng
buộc trong các mối liên kết của con người, trong đó cá nhân hoặc tổ chức phải
thực hiện nghĩa vụ vì người khác hoặc vì cộng đồng11.
Theo quy định của pháp luật, TNBTTH là trách nhiệm dân sự, theo đó
người gây thiệt hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình đã
gây ra. Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 quy định: „„Người nào có hành vi xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích
hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường
hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Từ đó, có thể hiểu một
cách chung nhất TNBTTH là một dạng trách nhiệm pháp lý được đặt ra khi một
bên gây ra thiệt hại làm tổn thất về tài sản, tính mạng, sức khỏe, uy tin, danh dư,
nhân phẩm cho bên bị thiệt hại, theo đó bên gây thiệt hại phải đền bù những tổn
thất và khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm của mình gây ra bằng
những cách thức và tiêu chí do pháp luật đặt ra.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì thi hành là "Thực hiện điều đã chính thức
quyết định”12 và theo từ điển Luật học thì thi hành án là "giai đoạn kết thúc trình
tự tố tụng là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán
quyết của Tòa án nhất định có hiệu lực pháp luật”13. Như vậy, thi hành án có thể
được hiểu là thực hiện bản án quyết đinh của Tịa án đã có hiệu lực trên thực tế.
Yếu tố "dân sự” được hiểu là các bản án, quyết định dân sự kinh tế, lao động,
8


Hoàng Thế Liên (2009), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005 (tập II), Phần thứ ba: Nghĩa vụ dân
sự và hợp đồng dân sự, NXB Chính trị Quốc gia, tr 700.
9
Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển bách khoa- NXB Tư pháp,
Hà Nội, tr 31.
10
Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thơng tin, Hà Nội, tr 1678.
11
Nguyễn Đỗ Kiên (2014), Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ
quan hành chính nhà nước gây ra ở Việt Nam, Luận văn tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh.
12
Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thơng tin, Hà Nội, tr 1559.
13
Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển bách khoa- NXB Tư pháp,
Hà Nội, trang 464.


12
hơn nhân và gia đình, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự về
bồi thường thiệt hại, bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngồi, quyết
định của Trọng tài nước ngồi được Tịa án Việt Nam công nhận và cho thi hành
ở Việt Nam. Như vậy, THADS là hoạt động do cơ quan thi hành án tiến hành
theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định để đưa bản án quyết định dân sư của
Tòa án hoặc các quyết định khác theo quy đinh của pháp luật, được thực hiện
trên thực tế nhằm bảo đảm lợi ich của Nhà nước, quyền và lợi ich hợp pháp của
các tổ chức, cán nhân.
Theo Điều 106 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ:“Bản án, quyết định của Tồ
án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn

trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Quy
định nêu trên là nguyên tắc hiến định và yêu cầu khách quan trong hoạt động
THADS nhằm đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh các bản án, quyết định dân sự.
Việc xác định đúng bản chất của hoạt động THADS sẽ tạo cơ sở cho việc quy
định và giải quyết các yêu cầu bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ
trong hoạt động THADS gây ra.
Về bản chất, THADS là một dạng của hoạt động tư pháp vì THADS ln
gắn liền với hoạt động xét xử của Tịa án, mang tính tài sản, độc lập và do cơ
quan tư pháp có thẩm quyền thực hiện. Hoạt động THADS hiện nay, ngồi các
cơ quan THADS tổ chức thi hành thì cịn có tổ chức thừa phát lại cũng thực hiện
việc tổ chức THADS. Cụ thể: theo pháp luật hiện hành Hoạt động thừa phát lại
được thực hiện các công việc như sau: Tống đạt văn bản của Toà án hoặc Cơ
quan thi hành án dân sự. Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự. Trực tiếp tổ chức thi
hành án các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Với sự ra
đời của Thừa phát lại, người dân có quyền lựa chọn dịch vụ thi hành án tốt nhất,
đáp ứng nhu cầu của người dân trong việc thực thi bản án, quyết định của Tòa án
một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời. Tuy nhiên, hoạt động thừa phát lại
chưa có đạo luật có hiệu lực pháp lý cao, đồng bộ với các bộ luật, luật có liên
quan để điều chỉnh về chế định này. Hiện nay, cơ sở pháp lý cao nhất cho việc
thí điểm là Nghị quyết của Quốc hội với những quy định mang tính chất chủ
trương, còn tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại chỉ được quy định tại Nghị
định của Chính phủ và các Thông tư hướng dẫn; nhiều quy định pháp luật trong


13
các lĩnh vực có liên quan, đặc biệt là pháp luật về tố tụng, tài chính - ngân hàng...
chưa đồng bộ, thậm chí cịn là rào cản cho hoạt động của Thừa phát lại.
Đối với hoạt động THADS do các cơ quan THADS tổ chức thi hành là
một dạng của hoạt động tư pháp nhưng có những đặc thù riêng, trong quá trình

tổ chức THADS, thủ trưởng cơ quan thi hành án, Chấp hành viên và những
người thi hành công vụ khác có thể có quyết định, hành vi trái pháp luật xâm
phạm đến quyền, lợi ích và nghĩa vụ liên quan đến THADS. Do vậy, việc quy
định TNBTTH của người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS là rất
cần thiết. Trong quá trình tổ chức thi hành án, người thi hành công vụ vi phạm
các quy định pháp luật gây thiệt hại thì phải bồi thường. Theo quy định của Điều
38 Luật TNBTCNN thì Nhà nước có TNBTTH do hành vi trái pháp luật của
người thi hành công vụ gây ra trong các trường hợp liên quan đến việc ra hoặc
cố ý không ra hoặc tổ chức thi hành hoặc cố ý không tổ chức thi hành các quyết
định về: thi hành án; thu hồi, sửa đổi, bổ sung huỷ quyết định về thi hành án; áp
dụng biện pháp bảo đảm về thi hành án; cưỡng chế thi hành án; thi hành quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tồ án; hỗn thi hành án; tạm
đình chỉ, đình chỉ thi hành án; tiếp tục thi hành án.
Từ việc phân tích hoạt động THADS nêu trên và phạm vi trách nhiệm bồi
thường của nhà nước do người vi phạm công vụ gây ra trong hoạt động THADS,
theo quan điểm cá nhân học viên có thể đưa ra khái niệm: TNBTTH do người thi
hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS là trách nhiệm khôi phục, bù đắp
những tổn thất, thiệt hại về tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của cá nhân;
tài sản, uy tín của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác do
Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên và những người thi hành công vụ
khác ra hay cố ý không ra hoặc tổ chức thi hành hay không tổ chức thi hành các
quyết định: thi hành án; thu hồi, sửa đổi, bổ sung, hủy quyết định về thi hành án;
áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án; cư ng chế thi hành án; thi hành quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tồ án; hỗn thi hành án; tạm
đình chỉ, đình chỉ thi hành án và tiếp tục thi hành án.
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thiệt hại dân sự do người thi hành công
vụ gây ra trong hoạt động Thi hành án dân sự
Như đã phân tích nêu trên, TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra
trong hoạt động THADS chính là một dạng của TNBTCNN và cũng mang bản



14
chất là TNBTTH trong dân sự, do đó TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra
trong hoạt động THADS có những đặc điểm sau đây:
Một là, TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động
THADS trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
Trong q trình thực thi cơng vụ, nếu những hoạt động của người thi hành
công vụ nhân danh Nhà nước mà gây ra thiệt hại thì Nhà nước phải có trách
nhiệm bồi thường. Vấn đề bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra
không phải do hành vi vi phạm các nghĩa vụ về hợp đồng, vì vậy TNBTTH do
người thi hành công gây ra được đặt ra đối với các thiệt hại gây ra trong quá
trình thực thi cơng vụ là trách nhiệm bồi thường ngồi hợp đồng.
Hai là, TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động
THADS không chỉ là trách nhiệm bồi thường tài sản mà cịn là trách nhiệm khơi
phục lại những tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại:
TNBTTH do người thi hành công gây ra trong hoạt động THADS là một
dạng trách nhiệm dân sự. Do đó, trong q trình thực thi cơng vụ, Thủ trưởng cơ
quan THADS, Chấp hành viên và những người thi hành cơng vụ khác có thể gây
ra những thiệt hại về tài sản thì họ phải chịu trách nhiệm về tài sản hoặc họ có
những hành vi làm tổn hại tới danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tổ chức
khác thì họ phải bù đắp những tổn thất về mặt tinh thần cho người bị thiệt hại. Ví
dụ: do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ của cơ quan THADS đã
kê biên, bán căn nhà mà đã trải qua nhiều thế hệ của gia đình đã sinh sống. Rõ
ràng căn nhà không những là tài sản có giá trị lớn mà nói cịn là kỷ vật, nơi đã
xảy ra nhiều kỷ niệm có giá trị tinh thần đối với mọi người trong gia đình nên
khi mất đi chắc chắn sẽ làm ảnh hưởng lớn đến tinh thần của bị thiệt hại.
Ba là, trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường được thực hiện theo quy định
của Luật TNBTCNN, cụ thể là bắt buộc phải qua giai đoạn thương lượng giữa
người yêu cầu bồi thường với cơ quan giải quyết việc bồi thường:
Đối với TNBTTH trong dân sự, bên bị thiệt hại có quyền khởi kiện ngay

ra Tòa án để yêu cầu giải quyết việc bồi thường trong khi đó, đối với
TNBTCNN, khi có căn cứ xác định hành vi gây thiệt hại của người thi hành
công vụ là trái pháp luật, người bị thiệt hại phải gửi đơn yêu cầu bồi thường đến
cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Người bị thiệt hại và cơ quan có trách nhiệm
giải quyết việc bồi thường sẽ tiến hành thương lượng về việc bồi thường. Trong


15
trường hợp bên bị thiệt hại không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường
của cơ quan có trách nhiệm giải quyết việc bồi thường thì mới có quyền khởi
kiện ra Tòa án theo thủ tục Tố tụng dân sự.
Bốn là, chủ thể trong TNBTTH do người thi hành cơng vụ gây ra trong
hoạt động THADS gồm có: (i) Chủ thể được bồi thường là mọi cá nhân, tổ chức
bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS, mà không
phân biệt cá nhân, tổ chức là trong nước hay ngoài nước14; (ii) Chủ thể gây thiệt
hại là Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên và những người thi hành
công vụ khác; (iii) Chủ thể có trách nhiệm bồi thường là cơ quan THADS trực
tiếp quản lý người thi hành cơng vụ có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại.
Năm là, TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động
THADS chỉ phát sinh khi có hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ
gây ra thiệt hại tới quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân. Cụ thể là chỉ
phát sinh khi có các quyết định, hành vi của thủ trưởng cơ quan thi hành án,
Chấp hành viên và những người thi hành công vụ khác vi phạm các quy định
pháp luật và xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức có
liên quan đến hoạt động THADS. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi, quyết định
trái pháp luật của người thi hành cơng vụ trong q trình THADS đều phát sinh
TNBTCNN, mà chỉ những hành vi, quyết định trái pháp luật trong lĩnh vực
THADS thuộc quy định tại Điều 38 Luật TNBTCNN mà gây ra thiệt hại thì mới
phát sinh TNBTCNN.
1.3. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong hoạt

động Thi hành án dân sự
TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS là
một loại trách nhiệm pháp lý và là một dạng của TNBTCNN, chỉ phát sinh khi
hội đủ các điều kiện do luật định. Trong trách nhiệm này, vấn đề xác định thiệt
hại được bồi thường là rất quan trọng. So với TNBTTH ngoài hợp đồng, việc
giải quyết TNBTTH của Nhà nước phức tạp hơn vì phải tuân thủ theo trình tự,
thủ tục nhất định. TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động
THADS bản chất là TNBTCNN trong hoạt động THADS nên cơ bản có ba chủ
thể là: người bị thiệt hại; người gây thiệt hại và cơ quan có trách nhiệm bồi
14

Chính phủ (2008), Tờ trình số 161/TTr-CP ngày 13 tháng 10 năm 2008 của Chính phủ trình Quốc hội về
dự án Luật bồi thường của Nhà nước, Hà Nội.


16
thường. TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS là
trách nhiệm xuất phát từ hành vi của người thi hành công vụ. Đây được coi là
một dạng trách nhiệm vì hành vi của người khác. Để Nhà nước phải chịu
TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động THADS thì những
điều kiện thông thường để quy trách nhiệm của người thi hành công vụ phải hội
đủ (với hàm ý là nếu không có Nhà nước thì chính người thi hành cơng vụ phải
chịu trách nhiệm). Vì lẽ đó mà các căn cứ xác định TNBTTH do người thi hành
công vụ gây ra trong hoạt động THADS tập trung vào người thi hành cơng vụ, ở
đây khi người bị thiệt hại có được văn bản của cơ quan Nhà nước thẩm quyền
xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật thì TNBTTH do
người thi hành cơng vụ gây ra trong hoạt động THADS chỉ phát sinh khi có các
điều kiện sau: (1) Có thiệt hại thực tế xảy ra; (2) Có hành vi trái pháp luật gây ra
thiệt hại thuộc phạm vi TNBTCNN quy định tại Điều 38 Luật TNBTCNN; (3)
Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế xảy ra và hành vi trái pháp luật

của người thi hành công vụ; (4) Lỗi của người gây ra thiệt hại được đặt ra khi
người thi hành công vụ không thực hiện hành vi ra quyết định hoặc không tổ
chức thi hành quyết định về thi hành án dân sự.
1.3.1. Có thiệt hại thực tế xảy ra
Thiệt hại thực tế được định nghĩa là những thiệt hại có thể tính tốn
được15. Cần nhận thức rõ rằng thiệt hại thực tế khơng có nghĩa là những thiệt hại
đã xảy ra, ngay sau thời điểm có sự kiện gây thiệt hại. Những thiệt hại gián tiếp
cũng thể hiện là thiệt hại thực tế nếu như nhất định sẽ xảy ra và có thể ước lượng
được. Trong TNBTTH ngồi hợp đồng, một trong những căn cứ làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường là phải có thiệt hại. Đây là điều kiện tiên quyết của trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bởi vì mục đích của bồi thường thiệt
hại là nhằm khơi phục lại hồn tồn hoặc một phần tình trạng tài sản trước khi
xảy ra thiệt hại hoặc bù đắp những tổn thất do tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm,
danh dự, uy tín bị xâm phạm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng
khơng thể xảy ra khi khơng có thiệt hại xảy ra 16. Điều 584 Bộ luật dân sự 2015 về
căn cứ phát sinh trách nhiệm, Bộ luật dân sự đề cập đến “thiệt hại”. Điều 6 Luật
15

Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr 445.
16
Đinh Thị Mai Phương (2009), Về bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp theo pháp luật Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, tr 61.


17
TNBTCNN cũng quy định việc xác định TNBTCNN phải có các căn cứ sau đây:
“có thiệt hại thực tế”. Bộ Luật dân sự yêu cầu có “thiệt hại xảy ra” cịn Luật
TNBTCNN u cầu có “thiệt hại thực tế”. Ở đây có sự khác nhau về thuật ngữ,
nhưng khơng có sự khác biệt về nội dung giữa hai văn bản. Tinh thần của hai văn

bản này là nếu khơng có thiệt hại xảy ra trong thực tế thì TNBTTH khơng phát sinh.
Về nội hàm thực tế, Luật yêu cầu phải có: “thiệt hại thực tế” và văn bản hướng dẫn
đã làm rõ khái niệm này. Theo khoản 1 Điều 7 của Thông tư liên tịch số
17/2015/TTLT-BTP-BQP ngày 07 tháng 12 năm 2015 của Bộ Tư pháp và Bộ
Quốc phòng hướng dẫn thực hiện TNBTCNN trong hoạt động THADS (Thông
tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BTP-BQP) quy định: “Thiệt hại thực tế là thiệt hại
có thực mà người bị thiệt hại phải chịu do hành vi trái pháp luật của người thi
hành công vụ gây ra theo quy định từ Điều 45 đến Điều 49 của Luật và pháp
luật có liên quan”. Như vậy, nếu người thi hành công vụ do hành vi trái pháp luật
gây ra thiệt hại thực tế thì sẽ phát sinh TNBTTH do người thi hành công vụ gây ra
trong hoạt động THADS.
Ví dụ: Quyết định số 145/QĐ-BTP ngày 21 tháng 01 năm 2013 của Bộ Tư
pháp về việc giải quyết khiếu nại của ông Võ Văn Học, bà Huỳnh Thị Nga trú tại
thôn Thạch By 1, xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi17, trong quá
trình tổ chức thi hành án Chi cục THADS huyện Đức Phổ đã áp dụng biện pháp
cưỡng chế kê biên tàu cá QNG số 94852-TS của vợ chồng ông Học, bà Nga không
đúng quy định pháp luật và đã gây thiệt hại thực tế đối với con tàu nên Bộ Tư pháp
đã kết luận “thiệt hại về con tàu QNG 94852-TS của bà Nga, ơng Học là có thật.
Trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại nói trên thuộc về Chi cục THADS huyện
Đức Phổ”. Như vậy khi người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật và hành vi
trái pháp luật đã gây ra thiệt hại thì mới phát sinh trách nhiệm bồi thiệt hại do người
thi hành công vụ gây ra.
Cũng từ quy định nêu trên, nếu người u cầu bồi thường khơng chứng
minh được có thiệt hại thực tế thì Nhà nước sẽ khơng bồi thường. Trong thực
tiễn, đã có trường hợp người u cầu khơng chứng minh được là có thiệt hại thực
tế nên Tịa án từ chối yêu cầu bồi thường dù có hành vi trái pháp luật của người
thi hành công vụ.
17

Bộ Tư pháp (2013), Quyết định số 145/QĐ-BTP về việc giải quyết khiếu nại của ông Võ Văn Học, bà Huỳnh Thị

Nga trú tại thôn Thạch By 1, xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.


18
Ví dụ: Bản án số 24/2012/DS-ST ngày 23/7/2012 của Tịa án nhân dân
huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai18, Hội đồng xét xử xét thấy “Đối với yêu cầu bồi
thường 19.000.000đồng/tháng mà ơng Liêm cho rằng đó là thiệt hại do khơng thể
làm ăn, phát triển kinh tế vì đất bị cưỡng chế sai: vấn đề này Hội đồng xét xử nhận
thấy: muốn có thu nhập phải đầu tư vốn, cơng sức chứ khơng phải chỉ để đất trống
là có được thu nhập. Ơng Liêm cũng khơng có chứng minh nên khơng có căn cứ để
chấp nhận”. Học viên nhận thấy, quyết định của Tòa án là rất thuyết phục, phù hợp
với thực tiễn và bảo đảm cho việc bồi thường đúng với thiệt tế đã xảy ra.
1.3.2. Có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại của người thi hành công
vụ thuộc trường hợp được quy định
Hành vi trái pháp luật là những hành vi xử sự cụ thể của con người được
thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của
pháp luật, xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác. Chỉ những quyền và lợi
ích được pháp luật bảo vệ thì các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp đó mới là hành vi trái pháp luật.
Người thi hành công vụ có bổn phận thực hiện hành vi cơng vụ đúng
khn khổ do pháp luật quy định. Những hành vi vượt qua khỏi khuôn khổ pháp
luật quy định bị coi là hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, việc đánh giá thế nào là
trái pháp luật đối với mỗi hành vi cũng khơng đơn giản mà phải xem xét một
cách tồn diện và linh hoạt. Ở Việt Nam hiện nay, về hành vi trái pháp luật, lý
luận về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng chỉ đề cập những điểm cơ bản
trên những nguyên tắc chung của Luật Dân sự đó là khơng được xâm phạm đến
quyền, lợi ích của người khác. Việc xâm phạm mà gây ra thiệt hại có thể là hành
vi vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả hành vi vi phạm đường
lối chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng

cộng đồng dân cư…19
Ở một số nước trên thế giới, lý luận về bồi thường thiệt hại nói chung và bồi
thường Nhà nước nói riêng khá phong phú và phát triển theo những khuynh hướng
khác nhau. Các nhà luật học ở một số nước đã đưa ra quan niệm “chừng nào mà
18

Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (2012), Bản án số 24/2012/DS-ST.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (Tập 2), NXB Công an Nhân dân,
Hà Nội, tr 265.
19


19
hậu quả của hành vi của quyền lực công đi ngược lại pháp luật, nó cần phải coi là vi
phạm pháp luật, bất luận hành vi tự nó là hợp pháp hay khơng”20. Các quan điểm
này có ý nghĩa sâu sắc trong nhận thức về tính trái pháp luật của hành vi gây thiệt
hại bởi người thi hành công vụ, thể hiện khuynh hướng đề cao các quyền, lợi ích
chính đáng của cá nhân, tổ chức hay là đề cao quản lý Nhà nước.
Hành vi trái pháp luật có thể là hành động hoặc không hành động. Hành
động là trường hợp người thực hiện công vụ đã làm việc đáng ra không được
làm hoặc vượt quá phạm vi được phép (chủ động). Khơng hành động là trường
hợp người đó khơng làm, không thực hiện nhiệm vụ đáng phải làm (thụ động).
Trong lĩnh vực THADS, phạm vi TNBTCNN được quy định tại Điều 38 Luật
TNBTCNN thì Nhà nước có TNBTTH do hành vi trái pháp luật của người thi
hành công vụ gây ra trong các trường hợp sau đây: (i) Ra hoặc cố ý không ra
quyết định về: thi hành án; thu hồi, sửa đổi, bổ sung huỷ quyết định về thi hành
án; áp dụng biện pháp bảo đảm về thi hành án; cưỡng chế thi hành án; thi hành
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án; hỗn thi hành án;
tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án; tiếp tục thi hành án. (ii) Tổ chức thi hành hoặc
cố ý không tổ chức thi hành các quyết định về thi hành án nêu trên và được cụ

thể hóa tại Điều 6 Thơng tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BTP-BQP trong lĩnh vực
THADS. Theo đó, TNBTCNN trong hoạt động THADS phát sinh trong những
trường hợp sau:
1.3.2.1. Trường hợp ra quyết định thi hành án trái pháp luật hoặc không
ra quyết định thi hành án

Quyết định thi hành án “là văn bản do Thủ trưởng cơ quan Thi hành án
dân sự ban hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để thi hành một
hoặc nhiều khoản của bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành
án dân sự, làm căn cứ để Chấp hành viên lập hồ sơ và tổ chức việc thi hành
án, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các
đương sự tham gia vào việc thi hành án”21. Do đó, để có căn cứ tổ chức
THADS thì trước khi tổ chức THADS Thủ trưởng cơ quan THADS có thẩm
quyền thi hành án phải ra quyết định thi hành án để đảm bảo quyền và lợi ích
20

Dương Văn Hậu (2008), “Một số vấn đề lý luận về bồi thường Nhà nước nhìn từ góc độ ranh giới giữa bồi
thường và đền bồi”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật (số chuyên đề pháp luật bồi thường nhà nước), Hà Nội, tr 45.
21
Cục Thi hành án dân sự (nay là Tổng cục Thi hành án dân sự) (2007), Quy Trình, thủ tục Thi hành án dân
sự, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr 45.


×