Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.05 KB, 108 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRẦN TUYẾT MINH



TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO HÀNG
HÓA CÓ KHUYẾT TẬT GÂY RA CHO NGƢỜI TIÊU
DÙNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM


Chuyên ngành : Luật Dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Tuấn







Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN




Trần Tuyết Minh










Mục Lục
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU……………………………………………………………… 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH
NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT
TẬT GÂY RA CHO NGƢỜI TIÊU DÙNG Error! Bookmark not defined.
1.1. Những vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho
người tiêu dùng Error! Bookmark not defined.
1.1.1. Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Error!
Bookmark not defined.
1.1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho
người tiêu dùng Error! Bookmark not defined.
1.2. Sơ lược các quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng Error!
Bookmark not defined.
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1999 Error! Bookmark not defined.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1999 đến nay Error! Bookmark not defined.
1.3. Kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số nước trên thế giới về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu
dùng Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO HÀNG HÓA CÓ
KHUYẾT TẬT GÂY RA CHO NGƢỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM
Error! Bookmark not defined.
2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có

khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Có thiệt hại xảy ra Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Có tồn tại của hàng hóa có khuyết tật Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa khuyết tật và thiệt hại Error! Bookmark
not defined.
2.1.4. Vấn đề lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có
khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng Error! Bookmark not defined.


2.2. Chủ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật
gây ra cho người tiêu dùng Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại Error! Bookmark not
defined.
2.2.2. Chủ thể được bồi thường thiệt hại Error! Bookmark not defined.
2.3. Xác định thiệt hại của người tiêu dùng về tài sản, tính mạng, sức khỏe Error!
Bookmark not defined.
2.3.1. Thiệt hại về tài sản Error! Bookmark not defined.
2.3.2. Thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm Error! Bookmark not
defined.
2.4. Nguyên tắc bồi thường Error! Bookmark not defined.
2.5. Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra
cho người tiêu dùng Error! Bookmark not defined.
2.6. Đánh giá pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng
hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng Error! Bookmark not defined.
2.6.1. Những ưu điểm Error! Bookmark not defined.
2.6.2. Những tồn tại, hạn chế Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT BỒI THƢỜNG THIỆT
HẠI VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH
NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT
TẬT GÂY THIỆT HẠI CHO NGƢỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM Error!

Bookmark not defined.
3.1. Thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt hại về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng Error! Bookmark not
defined.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng Error! Bookmark not
defined.
3.2.1. Giải pháp tiếp tục nghiên cứu lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng Error! Bookmark not
defined.
3.2.2. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về trách nhiệm trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng Error! Bookmark not
defined.


3.2.3. Giải pháp cơ chế thực thi pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng Error! Bookmark not
defined.
KẾT LUẬN Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Error! Bookmark not defined.




DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS
: Bộ luật dân sự
BTTH
: Bồi thường thiệt hại

BVQLNTD
: Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
CLSPHH
: Chất lượng sản phẩm, hàng hóa
NTD
: Người tiêu dùng


















1

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, bên cạnh việc tạo điều kiện
thuận lợi để lưu thông, trao đổi hàng hóa, pháp luật Việt Nam cũng cần có cơ

chế ngăn chặn các sản phẩm, hàng hóa kém chất lượng, không bảo đảm an
toàn để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD), bảo vệ sản xuất trong
nước và lợi ích quốc gia. Vì yêu cầu đó nên liên tục những năm gần đây, nhà
nước ta đã ban hành các đạo luật chuyên ngành để quản lý chất lượng sản
phẩm, hàng hoá (CLSPHH).
Trong những năm gần đây, pháp luật về CLSPHH nước ta không
ngừng được hoàn thiện cho phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và bối cảnh hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Thực tiễn ở Việt Nam, đã có rất nhiều hàng hóa (máy móc, thiết bị đồ gia
dụng, thực phẩm, dược phẩm…) được sản xuất (kể cả từ nước ngoài cung cấp
tại Việt Nam) không đảm bảo chất lượng, gây nguy hại hoặc gây thiệt hại cho
người tiêu dùng (NTD) không chỉ về tài sản mà còn về tính mạng, sức khỏe.
Đây là vấn đề bức xúc lớn trong xã hội. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam không
có đạo luật đặc thù để buộc nhà sản xuất, nhà kinh doanh, nhà phân phối, nhà
cung cấp, người bán lẻ và những người khác cung cấp hàng hóa phải chịu
trách nhiệm về những thiệt hại do khuyết tật trong hàng hóa của họ gây ra cho
NTD. Vấn đề này mới chỉ được Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 quy định
có tính nguyên tắc là: “Cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác sản xuất, kinh
doanh không bảo đảm chất lượng hàng hoá mà gây thiệt hại cho người tiêu
dùng thì phải bồi thường” [34, Điều 630]. Đây là quy định mới mang tính
nguyên tắc và trên thực tế NTD chưa có công cụ pháp lý hữu hiệu để bảo vệ
mình. Cho nên, nếu nhà sản xuất cung cấp sản phẩm nguy hại cho tài sản, sức

2

khỏe, tính mạng của NTD thì cũng không có đủ cơ sở pháp lý để đòi bồi
thường thiệt hại (BTTH).
Vì vậy, để nâng cao hiệu lực điều chỉnh của pháp luật với các quan hệ
xã hội về CLSPHH tương xứng với vai trò quan trọng của nó trong sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhà nước đã ban hành Luật Tiêu

chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 và Luật CLSPHH năm 2007. Đây là
các đạo luật chuyên ngành về CLSPHH với phạm vi điều chỉnh tương đối đầy
đủ, hệ thống phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đáp ứng nhu cầu vật chất,
tinh thần ngày càng cao của nhân dân.
Nhằm hoàn thiện chế tài trách nhiệm dân sự do vi phạm quy định của
pháp luật về CLSPHH trên cơ sở BLDS, Luật CLSPHH có những quy định
đặc thù về trách nhiệm dân sự một số điểm mới đáng chú ý sau:
- Xác định rõ trách nhiệm bồi thường của các chủ thể sản xuất, kinh
doanh vi phạm các quy định của pháp luật về CLSPHH mà gây ra thiệt hại
cho người khác là cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu BTTH cho mình.
- Xác định quyền được BTTH không những của NTD mà còn của
người mua đối với các thiệt hại do vi phạm các quy định của pháp luật về chất
lượng sản phẩm, hàng hoá gây ra. BLDS chỉ quy định NTD có quyền được
bồi thường. Quy định người mua được quyền BTTH trong Luật CLSPHH có
thể xem là đã lấp được “lỗ hổng” của BLDS.
- Quy định cụ thể các loại thiệt hại mà tổ chức, cá nhân vi phạm các
quy định của pháp luật về CLSPHH gây ra phải bồi thường cho người bị thiệt
hại. Trên cơ sở các quy định về BTTH của BLDS, Luật CLSPHH đã quy
định cụ thể các loại thiệt hại được xác định để bồi thường: thiệt hại về giá trị
hàng hoá, tài sản bị hư hỏng hoặc bị huỷ hoại; thiệt hại về tính mạng, sức

3

khoẻ con người; thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản
và chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
- Quy định các trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường trên cơ
sở nguyên tắc của pháp luật dân sự là một người chỉ phải bồi thường nếu có
thực hiện hành vi có lỗi gây ra thiệt hại của người khác. Đây là những trường
hợp được miễn trách nhiệm bồi thường mà chưa được quy định trong luật dân

sự và luật thương mại.
Bảo đảm CLSPHH có ý nghĩa rất quan trọng với NTD, người sản xuất
và nhà nước trong việc duy trì an ninh, trật tự công cộng và lợi ích quốc gia.
Nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, các công cụ quản lý khác và kiểm tra việc thực
hiện các quy định này, tác động đến các yếu tố hình thành CLSPHH để bảo
đảm an toàn cho sản phẩm, hàng hoá được đưa ra thị trường sử dụng như
BLDS (2005), Bộ luật hình sự (1999), Luật Cạnh tranh (2004), Luật Tiêu
chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (2006), Luật Dược (2005), Luật An toàn thực
phẩm (năm 2010), Luật BVQLNTD (2011).
Như vậy có thể khẳng định rằng, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
quy định trách nhiệm BTTH do hàng hóa kém chất lượng gây ra cho NTD
không ít, vấn đề chỉ còn ở chỗ các địa phương, cơ quan có trách nhiệm bảo vệ
NTD sẽ thực thi như thế nào mà thôi.
Chúng ta đã có nhiều luật, nghị định, thông tư hướng dẫn về bảo vệ
quyền lợi của NTD, nhưng việc thực thi còn rất hạn chế, xa rời thực tế. Nhiều
cơ quan, địa phương chưa tham gia bảo vệ NTD như trong luật đã quy định.
Khả năng tiếp cận các điểm khiếu nại của của NTD (đặc biệt là NTD ở nông
thôn, miền núi, vùng biên giới, hải đảo) còn rất hạn chế, NTD đa phần còn rất
mù mờ về quyền lợi của mình.

4

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đó, sau một thời gian tìm hiểu, tôi đã
chọn đề tài luận văn thạc sĩ luật học: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng theo pháp luật Việt
Nam”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước tới nay, nghiên cứu về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có
khuyết tật gây ra cho NTD vẫn đang còn đang bỏ ngỏ để các nhà nghiên cứu

khai phá. Đã có một số công trình khoa học, bài viết hoặc tham luận được
công bố trên các sách chuyên khảo, tạp chí khoa học chuyên ngành hoặc diễn
đàn khoa học đề cập đến trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra
cho NTD như: luận văn cử nhân luật học “Trách nhiệm sản phẩm theo pháp
luật cộng đồng Châu Âu và pháp luật Việt Nam” của Nguyễn Thị Tường Vi;
luận văn tiến sỹ luật học “Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lượng
sản phẩm, hàng hóa” của TS. Chu Đức Nhuận; “Trách nhiệm sản phẩm và
việc bảo vệ người tiêu dùng trong pháp luật Việt Nam” của GS.TS. Lê Hồng
Hạnh; “Luật bảo vệ người tiêu dùng trong pháp luật Việt Nam” của PGS.TS.
Nguyễn Như Phát”; “Vấn đề trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật Việt
Nam” của TS. Nguyễn Văn Cương; “Trách nhiệm nghiêm ngặt và miễn, giảm
trách nhiệm trong pháp luật về trách nhiệm sản phẩm”; của Ths. Phạm Thị
Phương Anh; “Góp ý về Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi - Phần liên quan
đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của TS. Bùi Nguyên Khánh…hoặc
về kinh nghiệm quốc tế như “Các nguyên lý cơ bản của chế định trách nhiệm
sản phẩm tại Hoa Kỳ và một số quốc gia trên thế giới” của GS.TS. Lê Hồng
Hạnh, Trương Hồng Quang; “Bàn về Luật trách nhiệm sản phẩm trong kinh
doanh quốc tế” của TS. Tăng Văn Nghĩa; “Một số vấn đề về Luật trách
nhiệm sản phẩm cộng đồng Châu Âu” của TS. Nguyễn Am Hiểu; “Kinh
nghiệm xây dựng pháp luật vể trách nhiệm sản phẩm của một số nước

5

ASEAN” của Ths. Trần Thị Quang Hồng, Trương Hồng Quang; “Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do tác động của tài sản gây ra dưới góc nhìn của
so sánh” của Ths. Bùi Thị Thanh Hằng, Ths. Đỗ Giang Nam. Tuy nhiên, cho
đến thời điểm này, vẫn còn nhiều vấn đề về trách nhiệm BTTH do hàng hóa
có khuyết tật gây ra cho người NTD chưa được nghiên cứu làm rõ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về

trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD; nội dung các
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm BTTH do hàng
hóa có khuyết tật gây ra cho NTD và việc thực tiễn giải quyết việc BTTH do
hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD. Qua việc nghiên cứu nhận diện, phát
hiện những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD, từ đó
tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục để góp phần nâng cao trách nhiệm
của các cá nhân, tổ chức đối với CLSPHH, BVQLNTD, thúc đẩy nền kinh tế
sản xuất hàng hóa phát triển lành mạnh, ổn định và bền vững.
Xuất phát từ mục đích của việc nghiên cứu đề tài nêu trên, luận văn có
các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có
khuyết tật gây ra cho NTD như khái niệm BTTH ngoài hợp đồng; khái niệm
NTD; khái niệm hàng hóa khuyết tật; khái niệm trách nhiệm BTTH do hàng
hóa có khuyết tật gây ra cho NTD; kinh nghiệm về trách nhiệm BTTH cho
NTD của một số nước trên thế giới.
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về trách
nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm trách nhiệm BTTH do hàng
hóa có khuyết tật gây ra cho NTD.

6

4. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về trách
nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD và việc áp dụng các
quy định này trong thực tế.
5. Phạm vi nghiên cứu
Trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD là một
đề tài rộng, được nhiều ngành luật điều chỉnh như hình sự, hành chính, dân

sự. Vì vậy, trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ không thể giải quyết được
một cách trọn vẹn tất cả các nội dung của trách nhiệm BTTH do hàng hóa có
khuyết tật gây ra cho NTD. Do đó, đề tài tập trung nghiên cứu và giải quyết
một số vấn đề chính liên quan đến trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng và
trách nhiệm BTTHdo hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD theo pháp luật
Việt Nam, trên cơ sở đó đối chiếu với thực tiễn áp dụng các quy định đó trong
thực tế, đặc biệt là trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Từ đó, luận
văn sẽ đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD nhằm nâng cao
trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, cũng như nâng cao
nhận thức của NTD trong việc tự bảo vệ quyền lợi của mình, góp phần vào sự
phát triển chung của đất nước.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích: Phân tích các khái niệm về trách nhiệm BTTH
do hàng hóa có khuyết tật gây thiệt hại cho NTD để hiểu được bản chất cuả
nó. Bên cạnh đó, cần phân tích vai trò của trách nhiệm bồi thường thiệt hại để
nói lên sự cần thiết phải điều chỉnh cũng như hoàn thiện pháp luật về trách
nhiệm dân sự nói chung cũng như pháp luật về BVQLNTD nói riêng. Ngoài
ra, trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế của hàng lang pháp

7

lý về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD để có
phương hướng giải quyết những hạn chế đó.
Phưong pháp tổng hợp: Đưa ra một cái nhìn tổng quan về hệ thống
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra
cho người tiêu dùng.
Phương pháp liệt kê: Liệt kê hệ thống các văn bản có liên quan để tiện
theo dõi và làm căn cứ cho phần lý luận của mình.
7. Dự kiến những kết quả đạt đƣợc của luận văn

Thông qua việc tiến hành phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật
Việt Nam về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD và
thực tiễn áp dụng các quy định đó trong thực tế. Luận văn còn chỉ ra những
điểm còn bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật hiện hành và đưa ra
một số các giải pháp cần thiết để góp phần hoàn thiện chính sách, quy định về
trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây thiệt hại cho NTD, nhằm
nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa
đối với NTD nhưng vẫn đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ
thể này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được cơ cấu gồm 03 chương, như sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa
khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng
Chƣơng 2: Các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng

8

Chƣơng 3: Thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt hại và phương hướng
hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có
khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng





















9

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƢỜNG THIỆT HẠI DO HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬT GÂY RA
CHO NGƢỜI TIÊU DÙNG
1.1. Những vấn đề chung về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài
hợp đồng và trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật
gây ra cho ngƣời tiêu dùng
1.1.1. Khái niệm về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng
Ngay từ thời La Mã cổ đại khái niệm về “thiệt hại” đã được các luật gia
La Mã đề cập tới và cho rằng khái niệm này được cấu thành bởi hai thành
phần. Thành phần thứ nhất là Damnumemrgens-sự thiệt hại, sự mất mát của
một bộ phận tài sản cụ thể. Thành phần thứ hai là Lucrum cessans - bỏ mất lợi
tức, sự mất mát tài sản có thể có nếu hoàn cảnh diễn ra bình thường [48]. Như
vậy về cơ bản thì luật La Mã xác định thiệt hại là những tổn thất, mất mát về
tài sản đang có và sẽ có trong tương lai `- thiệt hại mang tính tài sản, bởi bản

chất của các quan hệ pháp luật dân sự là những quan hệ mang tính tài sản.
Ngày nay, những tư tưởng pháp lý này của các luật gia La Mã đã được các
nhà lập pháp kế thừa. Ví dụ, Điều 1149 của BLDS Cộng hoà Pháp quy định
“những thiệt hại phải bồi thường cho người có quyền gồm những khoản mà
họ mất và mức lợi mà họ không được hưởng” [27]. Hơn nữa, các nhà lập
pháp ngày nay còn phát triển, và xác định thêm thiệt hại còn bao gồm cả thiệt
hại phi vật chất (thiệt hại về tinh thần). BLDS Nhật Bản quy định tại Điều 707
thì một người chịu trách nhiệm BTTH cả những thiệt hại phi vật chất bất kể
thiệt hại như vậy xảy ra đối với quyền lợi, uy tín hay tài sản của người khác [20].
Từ những định nghĩa trên, có thể hiểu hiểu thông thường thì “thiệt hại
là những mất mát, hư hỏng nặng nề về người và của” [25, tr. 1570]. Theo
quan điểm pháp lý của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam thì: “thiệt hại là

10

tổn thất về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức
được pháp luật bảo vệ” [47, tr. 118].
Ở Việt Nam thì truớc khi có BLDS chính thức quy định về vấn đề này
thì tồn tại hai quan điểm trái ngược về xác định thiệt hại phi tài sản - thiệt hại
về tinh thần…Quan điểm thứ nhất cho rằng, thiệt hại tinh thần không thể bồi
thường vì tính mạng, tình cảm của con người là vô giá, do đó không có căn cứ
để xác định mức thiệt hại. Quan điểm thứ hai cho rằng, thiệt hại cả về vật chất
và tinh thần đều phải bồi thường vì mọi tính toán chỉ mang tính tương đối, mà
bản chất của BTTH đều là nhằm khắc phục hậu quả của thiệt hại đã xảy ra.
Đến khi nước ta chính thức có BLDS năm 1995 thì thiệt hại được chính thức
xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần thông qua quy
định về trách nhiệm BTTH như sau:
1. Trách nhiệm BTTH bao gồm trách nhiệm BTTH về vật chất
và trách nhiệm BTTH về tinh thần;
2. Trách nhiệm BTTH về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn

thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ
gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt
hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút;
3. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm
phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của
người khác, thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải
chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị thiệt
hại [33, Điều 310].
BLDS năm 2005 tiếp tục được kế thừa tại quy định này tại Điều 307 [34].
Như vậy ta có thể định nghĩa thiệt hại là tổn thất, mất mát về tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tin, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp
luật bảo vệ.

11

Trách nhiệm BTTH trước hết là một loại trách nhiệm pháp lý. Trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng theo chiều dài lịch sử của nhân loại được quy
định, áp dụng từ rất sớm. Vào thời kỳ La Mã (thế kỷ thứ VIII TCN đến thế kỷ
thứ VII SCN), pháp luật đã quy định “chế độ phục cừu” là nguyên tắc trả thù
ngang bằng như máu trả máu, mắt trả mắt, răng trả răng, tính mạng trả tính
mạng…Ngoài chế độ phục cừu, việc BTTH ngoài hợp đồng còn tuân theo
những nguyên tắc pháp luật ấn định trước như “chế độ phục kim” (bồi thường
bằng tiền) [31, tr. 10, 11]. Khi áp dụng nguyên tắc trả thù ngang bằng, lợi ích
của người bị thiệt hại không được bảo đảm, hơn nữa lại có một thiệt hại khác
phát sinh. Đây chính là lý do để sau đó người ta xem xét vấn đề BTTH. Như
vậy, xét về nguồn gốc lịch sử, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một
trong những chế định có lịch sử sớm nhất của pháp luật dân sự. Tuy nhiên,
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng cũng là chế định gây nhiều tranh cãi, có
nhiều quan điểm của các nhà nghiên cứu luật pháp cũng như các cán bộ làm
công tác thực tiễn.

Ở nước ta, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đã được qui định trong
Quốc triều Hình luật và Hoàng Việt luật lệ. Pháp luật mỗi nước có thể có
những qui định khác nhau liên quan đến xác định mức bồi thường, tuy nhiên
một nguyên tắc cơ bản luôn tồn tại - đó là: Người gây thiệt hại phải có trách
nhiệm BTTH cho người bị thiệt hại. Bộ luật Hồng Đức [41] và Bộ luật Gia
Long [17] đều chưa có sự phân biệt rõ nét về trách nhiệm bồi thường dân sự.
Sự phân biệt rạch ròi giữa trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự chỉ ra
đời trên cơ sở ba bộ dân luật đầu tiên Bộ Dân luật Bắc Kỳ, Bộ Dân luật Trung
Kỳ, Bộ Dân luật Sài Gòn đề cập về trách nhiệm bồi thường dân sự.
Tại BLDS năm 1995, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng: “Người nào
do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm

12

phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây
thiệt hại, thì phải bồi thường” [33, Điều 609]. Như vậy, người gây thiệt hại
cho người khác về tài sản, về sức khỏe, tính mạng và các quyền nhân thân
khác thì phải bồi thường theo nguyên tắc của trách nhiệm dân sự được quy
định tại khoản 3 Điều 605 BLDS 1995.
Khi BLDS năm 2005 được ban hành thay thế BLDS năm 1995, căn cứ
phát sinh trách nhiệm BTTH được quy định tại Điều 604 và nguyên tắc bồi
thường được quy định tại Điều 605, cũng tương tự như những quy định trong
BLDS năm 1995. Điều 604 BLDS hiện hành quy định căn cứ phát sinh trách
nhiệm BTTH khi một người có lỗi cho dù vô ý hoặc cố ý xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp
khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản, của pháp nhân hoặc chủ
thể khác mà gây thiệt hại phải bồi thường. Ngoài ra, trong trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng trong một số trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt
hại phải bồi thường cả trong trường hợp không cần điều kiện lỗi. Đó là trách

nhiệm do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; trách nhiệm của chủ sở hữu súc vật
phải BTTH do tài sản của mình gây ra; trách nhiệm BTTH của người gây ô
nhiễm môi trường cho dù không có lỗi.
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một trong những trách nhiệm
dân sự, được áp dụng với những người có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt
hại cho người khác nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục
hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần
cho bên bị thiệt hại. Chế định "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng’’ được hệ thống ở chương V, phần thứ 3 với các qui định từ Điều 604
đến Điều 630 làm cơ sở pháp lý quan trọng trong việc giải quyết BTTH do
hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

13

1.1.2. Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật
gây ra cho ngƣời tiêu dùng
1.1.2.1. Khái niệm về người tiêu dùng
“Tiêu dùng là dùng của cải, vật chất để phục vụ nhu cầu sinh hoạt, sản
xuất” [25, tr. 1640]. Đây là một trong những hoạt động cơ bản và tự nhiên
của con người. Khái niệm NTD ra đời và tồn tại gắn với nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, do đó, là một khái niệm khá mới mẻ ở Việt Nam.
NTD là người mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ để phục vụ cho nhu cầu
của bản thân hoặc gia đình mình, là NTD cuối cùng “end consumer”. Sản
phẩm hàng hóa qua sử dụng của NTD sẽ dần mất đi tính năng, công dụng, số
lượng, nói chung là không được tái tạo lại.
NTD “consumer”, “consommateur” là “người mua, sử dụng hàng hóa,
dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.” [40, Điều 3].
Trước đây, khi chưa có giải thích rõ ràng, vào năm 1991, các đương sự
đề nghị Tòa Công lý châu Âu (European Court of Justice) giải thích khái niệm

NTD bao gồm cả các doanh nghiệp khi mua sản phẩm, dịch vụ không nhằm
mục đích hoạt động kinh doanh, tuy nhiên, Tòa Công lý Châu Âu đã bác bỏ
đề nghị này và cho rằng, NTD chỉ được hiểu là các cá nhân NTD, không bao
gồm các chủ thể khác [63, tr. 365]. Khái niệm NTD trong các văn bản pháp
luật về bảo vệ NTD của Liên minh Châu Âu đã được giải thích trong Chỉ thị
số 1999/44/EC ngày 25/5/1999 về việc mua bán hàng hóa tiêu dùng và các
bảo đảm có liên quan [61]. Chỉ thị này giải thích: “NTD là bất cứ tự nhiên
nhân (tức là cá nhân) nào … tham gia vào các hợp đồng điều chỉnh trong Chỉ
thị này… vì mục đích không liên quan tới hoạt động kinh doanh hoặc nghề
nghiệp của mình.” [62, tr.359]. NTD theo quan niệm của pháp luật Cộng hòa
Pháp cũng chỉ là các cá nhân nhưng không bao gồm các cá nhân khi thực hiện

14

hành vi mua sắm hàng hóa, dịch vụ để phục vụ hoạt động kinh doanh hoặc
hoạt động có tính nghề nghiệp cho mình [30, tr. 6].
Tại Hoa Kỳ, các quy định về bảo vệ NTD nằm cả trong pháp luật của
liên bang và pháp luật của các bang. Tuy không có một đạo luật chung thống
nhất về BVNTD mà trong đó khái niệm NTD được giải thích rõ ràng, nhưng
theo các chuyên gia pháp luật của Hoa Kỳ, khái niệm NTD chỉ được quan
niệm là cá nhân NTD tham gia giao dịch với mục đích chủ yếu vì nhu cầu cá
nhân hoặc sinh hoạt hộ gia đình.
Việc bảo vệ NTD ở Canada chủ yếu được quy định trong các đạo luật
về bảo vệ người tiêu dùng của các bang ở quốc gia này. Trong các đạo luật
này, NTD cũng chỉ được giải thích là các cá nhân.
Luật Tiêu dùng Pháp định nghĩa: “NTD được hiểu là người không phải
chủ doanh nghiệp, tức là thể nhân mua các sản phẩm và dùng các dịch vụ
không nhằm mục đích hoạt động nghề nghiệp, kiếm lợi nhuận để phục vụ cho
gia đình hoặc bản thân” [32, tr.24].
“NTD là người mua hàng hóa hoặc dịch vụ để sử dụng cho cá nhân, gia

đình hoặc hộ gia đình mà không có ý định bán lại; là một tự nhiên nhân sử
dụng sản phẩm phục vụ mục đích cá nhân, không phải nhằm mục đích kinh
doanh” [59, tr. 311].
“NTD là người mua hàng hóa hoặc dịch vụ nhằm mục đích cuối cùng
tiêu dùng hoặc sử dụng cho cá nhân, gia đình hoặc hộ gia đình” [60, tr.3].
Như vậy, nhìn chung, để xác định một chủ thể có phải là NTD hay
không, pháp luật các nước thường dựa vào các điều kiện sau:
Thứ nhất, đối tượng của giao dịch là những hàng hóa, dịch vụ được
phép lưu thông và đáp ứng được các nhu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần
của cá nhân con người. Đây là một điều kiện rất khó xác định bởi nhu cầu
sinh hoạt của con người trong điều kiện hiện nay rất đa dạng. Những hàng

15

hóa, dịch vụ thiết yếu hằng ngày của con người như đồ ăn, thức uống, thuốc
chữa bệnh, đồ chơi, đồ dùng học tập được coi là đối tượng đương nhiên của
giao dịch với NTD. Khi đó, các quy định của pháp luật BVQLNTD liên quan
đến vệ sinh, an toàn đối với con người được áp dụng, kể cả đối với trường
hợp hàng hóa chưa được bán cho NTD, cần phải kết hợp với mục đích của
việc mua hàng hóa đó dùng vào việc gì.
Thứ hai, NTD là cá nhân. Xác định NTD là cá nhân xuất phát từ chính
mục đích cho sự ra đời của lĩnh vực pháp luật BVQLNTD là hỗ trợ những
NTD yếu thế trong quan hệ với nhà cung cấp hàng hóa. Nhìn chung, khi tìm
hiểu về sản phẩm, khả năng tiếp cận và tiếp nhận thông tin, tham vấn của cá
nhân đơn lẻ là hạn chế hơn rất nhiều đối với một tổ chức. Hơn nữa, việc “tiêu
dùng” hay “sinh hoạt” của một tổ chức cũng là một điều khó xác định; đồng
thời sẽ khó coi việc “tiêu dùng” hay “sinh hoạt” của tổ chức là không vì hoạt
động chức năng hoặc nghề nghiệp của tổ chức đó. Chính vì vậy, nhìn chung,
đa số pháp luật BVQLNTD các nước và vùng lãnh thổ không coi tổ chức là
NTD. Ví dụ, trong một số bản dịch không chính thức ở Việt Nam cho rằng

luật của Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc quy định NTD bao gồm cả tổ chức là
suy diễn không chính xác.
Do đó, các giao dịch mà tổ chức tham gia sẽ được bảo vệ theo pháp luật
hợp đồng, mặc dù đối tượng của giao dịch là hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng. Các
tổ chức chỉ có thể kiện nhà cung cấp với tư cách người mua trong quan hệ
hợp đồng thông thường hoặc có thể trở thành đại diện của NTD mà thôi.
Một số trường hợp cá biệt coi các doanh nghiệp rất nhỏ cũng là NTD.
Ví dụ, theo Luật thực hành thương mại Ôxtrâylia, các giao dịch về hàng hóa,
dịch vụ có giá trị nhỏ hơn 40.000 đôla Ôxtrâylia thì người mua cũng được đối
xử như là NTD trong chế độ bảo hành, kể cả khi người mua là tổ chức. Trong
trường hợp, giá trị giao dịch lớn hơn 40.000 đôla Ôxtrâylia, để được coi là

16

NTD, người mua phải chứng minh mục đích sử dụng là tiêu dùng của mình.
Tuy vậy, chúng ta nên nhìn nhận đây là một đối xử tương đương như là NTD
của pháp luật đối với trường hợp cá biệt này. Bởi lẽ, pháp luật BVQLNTD
được đặt ra để hỗ trợ luật dân sự và thương mại, để khắc phục những hạn chế
của quyền tự do khế ước khi có sự không cân xứng về điều kiện kinh tế, trình
độ hiểu biết giữa các bên trong giao dịch chứ pháp luật BVQLNTD không
thay thế luật dân sự và thương mại.
Thứ ba, việc mua hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích tiêu dùng, sinh
hoạt cho cá nhân, hộ gia đình.
Mục đích tiêu dùng, sinh hoạt ở đây có nghĩa là NTD mua hàng hóa,
dịch vụ để sử dụng cho các nhu cầu của cá nhân và gia đình mình. Mục đích
tiêu dùng, sinh hoạt không phải là phục vụ cho việc bán lại, hoạt động sản
xuất kinh doanh khác hoặc các hoạt động nghề nghiệp. Việc mua sản phẩm
phục vụ tiêu dùng nhằm bán lại (ví dụ: mua bánh mỳ từ nhà sản xuất để về
bán lẻ), hoặc chế biến thành sản phẩm khác để bán (ví dụ: mua bánh mỳ từ
nhà sản xuất, thêm các gia vị, thức ăn khác tạo thành các món ăn mới rồi đem

bán) không được coi là hành vi tiêu dùng và chủ thể thực hiện chúng không
phải là NTD. Cũng cần lưu ý là NTD có thể không có quan hệ trực tiếp với
nhà cung cấp. Họ có thể được người mua tặng, cho, cấp phát. Chẳng hạn
người cha mua sữa cho con uống, đứa con không tham gia giao dịch mua bán
nhưng nó vẫn là NTD.
Luật BVQLNTD của Việt Nam không quy định về hàng hóa, dịch vụ
tiêu dùng. Tuy vậy, có thể hiểu được rằng, đó là những gì được phép lưu
thông và được người ta mua về để sử dụng cho các mục đích sinh hoạt, tiêu
dùng cá nhân và cho gia đình. Cũng tương tự như các nước, điều kiện về mục
đích cũng được sử dụng để xác định NTD theo Luật BVQLNTD. NTD mua,
sử dụng hàng hóa cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng. Luật BVQLNTD đã đưa

17

thêm “mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của…tổ chức” là chưa được rõ ràng [40,
Điều 3]. Bởi lẽ, hoạt động tiêu dùng, sinh hoạt của tổ chức không thể xác định
được. Khi đó, tổ chức không phải là NTD mà nhân viên của họ, những người
được cấp, phát nước uống mới là NTD.
Sự khác nhau giữa “người tiêu dùng” và “khách hàng”
Khách hàng là người mua hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho bản thân
hoặc để làm nguyên liệu cho sản xuất (người sản xuất mua sản phẩm về để
tiếp tục gia công, chế biến trong quá trình sản xuất để làm ra hàng hóa) hoặc
là người lưu thông mua hàng hóa về để phục vụ cho quá trình thực hiện dịch
vụ của mình. Trường hợp khách hàng mua hàng hóa hay dịch vụ để thỏa mãn
nhu cầu tiêu dùng cá nhân cho bản thân, gia đình hoặc tập thể thì khách hàng
ở đây sẽ đồng nghĩa với khái niệm NTD. “NTD” là một thuật ngữ pháp lý còn
“khách hàng” không phải là một thuật ngữ pháp lý.
1.1.2.2. Khái niệm về hàng hóa có khuyết tật
Từ điển Thuật ngữ pháp luật Pháp - Việt định nghĩa sản phẩm có
khuyết tật (produits défectueux) là:

Động sản không bảo đảm sự an toàn mà người ta có thể trông
đợi một cách chính đáng. Nếu khiếm khuyết của sản phẩm gây thiệt
hại đến người hoặc tài sản khác, thì người sản xuất, người phân
phối, người bán hoặc người cho thuê sản phẩm đó có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại [28, tr. 709].
Theo Black’s Law Dictionary thì sản phẩm có khuyết tật (defective
products) là sản phẩm gây ra nguy hiểm một cách bất hợp lý trong điều kiện
sử dụng bình thường, không đáp ứng được yêu cầu mà người sử dụng mong
đợi, không phù hợp với tiêu chuẩn thiết kế ban đầu hoặc có lỗi kỹ thuật trong
thiết kế, sản xuất sản phẩm [61, tr. 1225].
Định nghĩa của Luật BVQLNTD về hàng hóa có khuyết tật như sau:

18

3. Hàng hóa có khuyết tật là hàng hóa không bảo đảm an toàn
cho người tiêu dùng, có khả năng gây thiệt hại cho tính mạng, sức
khỏe, tài sản của người tiêu dùng, kể cả trường hợp hàng hóa đó
được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật hiện
hành nhưng chưa phát hiện được khuyết tật tại thời điểm hàng hóa
được cung cấp cho người tiêu dùng, bao gồm:
a) Hàng hóa sản xuất hàng loạt có khuyết tật phát sinh từ thiết
kế kỹ thuật;
b) Hàng hóa đơn lẻ có khuyết tật phát sinh từ quá trình sản
xuất, chế biến, vận chuyển, lưu giữ;
c) Hàng hóa tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn trong quá trình
sử dụng nhưng không có hướng dẫn, cảnh báo đầy đủ cho người
tiêu dùng [40, Điều 3].
Như vậy, quan điểm của pháp luật Việt Nam về hàng hóa có khuyết tật
đã thể hiện nội dung cơ bản là hàng hóa không đảm bảo an tòan cho NTD vì
những khuyết tật của hàng hóa phát sinh do thiết kế, sản xuất hay việc hướng

dẫn, cảnh báo, sử dụng.
Theo Chỉ thị số 85/374/EEC ngày 25 tháng 7 năm 1985 của Cộng đồng
Châu Âu về sự tương quan hóa các bộ luật, quy định và các điều khoản hành
chính của các quốc gia thành viên liên quan đến trách nhiệm pháp lý đối với
các sản phẩm khuyết tật (sau đây gọi tắt là Chỉ thị 85 về trách nhiệm sản
phẩm) thì một sản phẩm được coi là khiếm khuyết khi nó không an toàn mà
người có liên quan mong đợi [9].
Theo Luật trách nhiệm đối với sản phẩm Nhật Bản, sản phẩm khuyết
tật xuất phất từ sự thiếu an toàn mà sản phẩm ban đầu mang lại, phải kể đến
bản chất của sản phẩm, cách thức sử dụng sản phẩm có thể nhìn thấy trước

19

được từ ban đầu, thời gian khi nhà sản xuất phân phối sản phẩm và các hoàn
cảnh khác liên quan đến sản phẩm.
Như vậy, mặc dù có nhiều cách tiếp cận và giải thích khác nhau về
hàng hóa khuyết tật, tuy nhiên một điểm tương đồng trong các định nghĩa về
sản phẩm có khuyết tật đó là sản phẩm có thể gây ra nguy hiểm trong điều
kiện sử dụng bình thường, không bảo đảm an toàn mà NTD mong đợi một
cách chính đáng. Ví dụ, ô tô dù là của hãng nổi tiếng hay hãng bình thường,
dù giá cao hay giá thấp nhưng không được rú ga phóng đột ngột, khi tắt máy
không được trôi xe; xe máy dù đắt hay rẻ không cháy nổ khi đang chạy; bình
ga dù van loại gì nhưng phải không nổ; thuốc chữa bệnh có thể có tác dụng
phụ nhưng không gây tai biến…Mức độ an toàn cao hơn phụ thuộc vào mức
giá mà NTD bỏ ra để có quyền được bảo đảm an toàn tương ứng với mức giá
đó. Chất lượng hàng hóa được hình thành trong tất cả mọi hoạt động, mọi quá
trình tạo ra sản phẩm với vòng đời gồm các giai đoạn sau: thiết kế, chế tạo và
đưa vào lưu thông [57]. Do vậy, khuyết tật của sản phẩm có thể có 03 loại
khuyết tật do thiết kế, khuyết tật do sản xuất và khuyết tật do không cảnh báo
hoặc cảnh báo không đầy đủ những nguy hiểm có thể xảy ra trong quá trình

sử dụng sản phẩm.
Khuyết tật do thiết kế, do sản xuất là những khuyết tật phát sinh do việc
thiết kế hoặc hoạt động sản xuất mà tạo ra những “thiếu sót vốn có trên sản
phẩm”, làm cho sản phẩm có “đặc tính” nguy hiểm cho người sử dụng. Sự
khác nhau cơ bản giữa khuyết tật do sản xuất và khuyết tật do thiết kế là
khuyết tật trong giai đoạn sản xuất sản phẩm xuất hiện khi thành phẩm không
tuân theo dự kiến hoặc quy cách chất lượng mà nhà sản xuất đề ra. Ví dụ, khi
sản xuất đã sử dụng những vật liệu không đúng tiêu chuẩn. Trong khi đó,
khuyết tật do thiết kế (design defect) xảy ra khi sản phẩm được sản xuất theo
đúng thiết kế, nhưng tự thân sản phẩm có những dấu hiệu có thể gây ra nguy

×