Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Các quy định về quyết định hình phạt trong luật hình sự việt nam và việc đảm bảo quyền con người đối với người đối với người chưa thành niên phạm tội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (828.57 KB, 67 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN CON NGƢỜI VÀ QUYỀN CÔNG DÂN

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ VIỆC ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƢỜI ĐỐI
VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

Ngƣời thực hiện:
LÊ VŨ HUY

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2011


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt và quyền con ngƣời
của ngƣời chƣa thành niên phạm tội
1.1. Một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt
1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt
1.1.2. Các căn cứ quyết định hình phạt
1.1.2.1. Căn cứ vào các qui định của BLHS
1.1.2.2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm.
1.1.2.3. Căn cứ vào nhân thân người phạm tội.
1.1.2.4. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS
1.2. Một số vấn đề lý luận về quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm
tội
1.2.1. Khái quát về người chưa thành niên phạm tội
1.2.1.1. Khái niệm người chưa thành niên


1.2.1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
1.2.2. Khái niệm quyền con người
1.2.2.1. Định nghĩa
1.2.2.2. Các tính chất của quyền con người
1.2.2.3. Quyền con người và quyền công dân
1.3. Quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm tội
1.3.1. Quyền con người của người chưa thành niên
1.3.2. Quyền con người đặc thù của người chưa thành niên phạm tội
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VỚI VIỆC ĐẢM BẢO
QUYỀN CON NGƢỜI
2.1. Các loại hình phạt khơng áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
2.2. Giới hạn quyết định hình phạt đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội
2.2.1 Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm một tội
2.2.1.1. Quyết định hình phạt cảnh cáo đối với người chưa thành niên phạm tội
2.2.1.2. Quyết định hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội.
2.2.1.3. Quyết định hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên
phạm tội.
2.2.1.4. Quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội.
2.2.2. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội


2.3. Đánh giá chung
CHƢƠNG 3: NHỮNG BẤT CẬP TRONG CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYẾT
ĐỊNH HÌNH PHẠT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO
ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
3.1. Về hình phạt áp dụng đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội
3.1.1. Bất cập trong quy định tại Điều 71 BLHS
3.1.2 Bất cập trong quy định hình phạt phần các tội phạm
3.2. Về quyết định hình phạt đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội

3.2.1. Trong trường hợp phạm một tội
3.2.2. Trường hợp phạm nhiều tội
3.2.2.1. Qui định tại Điều 75 BLHS
3.2.2.2. Tổng hợp hình phạt cải tạo khơng giam giữ
3.3. Các trƣờng hợp khác
3.3.1. Trường hợp người chưa thành niên phạm tội có nhiều bản án.
3.3.2. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội nhiều lần, tội liên tục.
KẾT LUẬN


LỜI NĨI ĐẦU
- Lý do chọn đề tài
Pháp luật hình sự là một cơng cụ có hiệu quả của Nhà nước trong đấu tranh
phịng chống tội phạm và giữ gìn trật tự an tồn xã hội. Nhưng pháp luật hình sự lại
rất dễ xâm phạm đến quyền con người vì những chế tài của nó mang tính nghiêm
khắc rất cao, có khả năng tước bỏ những quyền thiết thân nhất của con người, kể cả
quyền được sống. Do đó, việc đảm bảo quyền con người trong các quy định của pháp
luật hình sự là vấn đề đang được quan tâm không chỉ ở Việt Nam mà trên cả phạm vi
thế giới. Trong đó, quyền con người của người chưa thành niên phạm tội càng phải
được quan tâm chú trọng một cách tồn diện và sâu sắc vì người chưa thành niên
chính là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, là nhân tố quyết định sự thành công, phát triển và phồn vinh của nước nhà.
Bộ luật Hình sự hiện hành xây dựng một chương riêng quy định đường lối xử lý
đối với người chưa thành niên phạm tội. Quy định này dựa trên cơ sở phân tích về
tâm, sinh lý đối với người chưa thành niên. Đây là đối tượng chưa phát triển đầy đủ
về thể chất cũng như về tâm, sinh lý, họ bị hạn chế về trình độ nhận thức cũng như
về kinh nghiệm sống, thiếu những điều kiện về bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế
chưa cao nên họ dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo
hiểm. Do đó, pháp luật hình sự Việt Nam đã đặt ra những nguyên tắc riêng khi xử lý
hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Chính sách hình sự của Nhà nước Việt

Nam đối với việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên là nhằm giúp
đỡ, cải tạo, giáo dục để người chưa thành niên nhận ra sai lầm từ đó sửa chữa những
sai lầm của mình, tạo điều kiện để các em có khả năng tái hòa nhập cuộc sống.
Tuy nhiên, các qui định của pháp luật hình sự hiện nay vẫn cịn một số điểm
hạn chế trong việc đảm bảo quyền của người chưa thành niên phạm tội, gây khó khăn
trong thực tiễn áp dụng vì phải áp dụng các nguyên tắc của luật hình sự. Do đó, tác
giả lựa chọn đề tài “Các quy định về quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt
Nam và việc đảm bảo quyền con người của người chưa thành niên phạm tội" làm đề
tài nghiên cứu khoa học nhằm nghiên cứu một cách toàn diện về quyền con người
của người chưa thành niên phạm tội trong các quy định về hình phạt hiện hành trong
pháp luật hình sự Việt Nam, hướng tới một hệ thống pháp luật hình sự ngày càng
đảm bảo tốt hơn quyền con người.
- Tình hình nghiên cứu đề tài
Đây là chủ đề mang tính thời sự nóng bỏng và nhạy cảm, được sự quan tâm
không chỉ của dư luận xã hội mà cịn của cả các nhà nghiên cứu lập pháp, khơng chỉ
trong nước mà cả dư luận quốc tế. Tuy nhiên, trong thời gian qua chưa có cơng trình

1


khoa học nghiên cứu một các toàn diện và sâu sắc về vấn đề đảm bảo quyền con
người của người chưa thành niên phạm tội bằng các quy định của pháp luật hình sự.
Hiện nay, đã có một khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật nghiên cứu về vấn đề này là
"Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội" do tác giả Đặng Thị
Thanh Thảo thực hiện (tháng 7 năm 2011), và một số bài viết ngắn đăng trên các tạp
chí viết về chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, những quy
định về người chưa thành niên phạm tội và vai trò của luật sư trong việc bảo vệ
quyền lợi cho các em, khái niệm người chưa thành niên và khái niệm tội phạm do
người chưa thành niên gây ra – cơ sở có tính pháp lí quan trọng để phịng ngừa, điều
tra tội phạm và xử lí người chưa thành niên phạm tội…

Các bài viết trên tập trung vào các quy định của pháp luật hình sự về trách
nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội mà chưa đề cập đến khía cạnh
đảm bảo quyền con người của người chưa thành niên. Do đó, với một góc nhìn mới,
nghiên cứu các quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội dưới góc độ quyền con người, tác giả hy vọng sẽ góp phần vào việc bảo
đảm quyền con người của người chưa thành niên phạm tội bằng chính các quy định
của pháp luật hình sự, bảo đảm tính nhân văn của pháp luật hình sự trong quá trình
giao lưu và hội nhập quốc tế.
-Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định về quyết định hình phạt trong pháp
luật hình sự Việt Nam, từ đó xem xét và đánh giá các quy định của pháp luật hình sự
hiện hành về vấn đề đảm bảo quyền con người của người chưa thành niên phạm tội
và kiến nghị những vấn đề cần giải quyết để ngày càng đảm bảo quyền con người
của người chưa thành niên trong pháp luật hình sự.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, phạm vi nghiên cứu của đề tài đề cập
đến các nội dung sau:
+ Một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt và quyền con người của người
chưa thành niên phạm tội.
+ Thực trạng các quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội với việc đảm bảo quyền con người.
+ Những bất cập trong các quy định về quyết định và kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả đảm bảo quyền con người của người chưa thành niên phạm tội.
-Các phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sẽ sử dụng các phương pháp sau để
chuyển tải các nội dung của đề tài và đạt được mục đích nghiên cứu: phương pháp

2


duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp,

so sánh, thống kê.
- Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Từ việc so sánh các quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam với các quyền con người của người chưa
thành niên đã được ghi nhận pháp luật quốc tế nhằm tìm ra những mặt tích cực cũng
như hạn chế của pháp luật hình sự Việt Nam về việc đảm bảo quyền con người của
người chưa thành niên phạm tội trong các quy định về quyết định hình phạt, đề tài sẽ
tìm ra những giải pháp hồn thiện các quy định về quyết định hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự nhằm ngày càng bảo đảm tốt
hơn quyền con người của người chưa thành niên. Các giải pháp dự kiến sẽ là đề xuất
hoàn thiện các quy định hiện hành bao gồm việc sửa đổi, bổ sung các quy định của
pháp luật hình sự về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
(các hình phạt được áp dụng, các hình phạt khơng được áp dụng, quyết định hình
phạt, đường lối xử lý…), kiến nghị các giải pháp khắc phục những hạn chế đang tồn
tại trong quá trình thực tiễn áp dụng pháp luật trong thời gian luật chưa được hoàn
thiện.
Với những giải pháp đề xuất, đề tài sẽ góp phần vào việc hồn thiện pháp luật
hình sự hiện hành và giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và quyết
định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm ngày càng bảo đảm tốt
hơn quyền con người của người chưa thành niên phạm tội bằng chính các quy định
của pháp luật hình sự.
- Bố cục của đề tài
Đề tài gồm những phần sau: Mục lục, Lời nói đầu, Nội dung, Kết luận, và Danh
mục tài liệu tham khảo.
Phần Nội dung gồm 3 chương:
+ Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt và quyền con người
của người chưa thành niên phạm tội.
+ Chương 2: Thực trạng các quy định về quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội với việc đảm bảo quyền con người.
+ Chương 3: Những bất cập trong các quy định về quyết định và kiến nghị

nhằm nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền con người của người chưa thành niên phạm
tội.

3


Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
VÀ QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1.1. Một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt
1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt
Tội phạm và hình phạt là hai chế định cơ bản nhất trong luật hình sự và ln đi
đơi với nhau. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị đe dọa áp dụng biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, đó chính là trách nhiệm hình sự (TNHS). Trong
các hình thức của TNHS, hình phạt là hình thức cơ bản và quan trọng nhất. Khi xác
định một người là có tội thì Hội đồng xét xử (HĐXX) phải áp dụng hình phạt đối với
họ nếu khơng có căn cứ miễn TNHS hay miễn hình phạt. Tuy nhiên, phần chế tài của
mỗi tội danh thường có nhiều loại hình phạt với mức tối đa, mức tối thiểu của hình
phạt đó, HĐXX phải lựa chọn một loại hình phạt cụ thể với một mức cụ thể đế áp
dụng cho người phạm tội. Hoạt động đó được gọi là quyết định hình phạt.
Quyết định hình phạt là việc Tịa án lựa chọn loại hình phạt với mức hình phạt
cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội.1
Ví dụ: A phạm tội giết người thuộc trường hợp qui định tại khoản 1 Điều 93
BLHS có mức hình phạt là 12-20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Trong trường hợp
này, khi áp dụng hình phạt đối với A, HĐXX phải lựa chọn 1 trong 3 loại hình phạt
đã được quy định tại Khoản 1 Điều 93 để áp dụng, giả sử HĐXX chọn hình phạt tù
có thời hạn thì phải tiếp tục lựa chọn mức áp dụng là bao nhiêu năm tù (trong giới
hạn từ 12 đến 20 năm). Giả sử HĐXX lựa chọn loại hình phạt áp dụng là tù có thời
hạn với mức hình phạt là 15 năm tù – đây là hoạt động quyết định hình phạt.
Quyết định hình phạt là một trong những khâu quan trọng của quá trình áp
dụng pháp luật hình sự. Sau khi định tội danh, nếu người phạm tội khơng có cơ sở để

miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt thì phải quyết định hình phạt đối với
họ.
Khi qui định các hình phạt trong các quy phạm pháp luật (QPPL) hình sự, xuất
phát từ chỗ các CTTP được quy định trong BLHS chỉ là những khuôn mẫu (mơ hình)
pháp lý được xây dựng từ thực tế đa dạng của mỗi loại tội phạm nên trong các QPPL
hình sự nhà làm luật cũng chỉ có có khả năng quy định những hình phạt với giới hạn
tương đối (trong phạm vi khung hình phạt) đối với từng loại tội phạm.
Tuy nhiên, trên thực tế, những hành vi tuy cùng phạm một tội danh nhưng tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội hoàn toàn khác nhau, với các tình tiết ln biến
1

Đại học Luật Tp.HCM, Tập bài giảng Luật hình sự, tr.247.

4


hóa một cách đa dạng và phong phú. Do đó, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn và của
các ngun tắc của luật hình sự địi hỏi hình phạt được áp dụng đối với người phạm
tội phải cụ thể trong phạm vi luật quy định, phải tương xứng với tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, phù hợp với nhân thân người phạm tội. Do vậy,
nhiệm vụ của Tịa án khi quyết định hình phạt là phải lựa chọn một hình phạt với một
mức áp dụng cụ thể và biện pháp chấp hành hình phạt đó.
* Về thẩm quyền quyết định hình phạt
Thẩm quyền quyết định hình phạt thuộc về cơ quan duy nhất đó là Tịa án. Tịa
án nhân danh Nhà nước, căn cứ vào qui định của luật hình sự, áp dụng hình phạt đối
với người phạm tội, thể hiện sự lên án của Nhà nước, xã hội đối với hành vi phạm
tội. Hoạt động quyết định hình phạt của Tịa án được thực hiện thông qua Hội đồng
xét xử.
* Ý nghĩa: Việc Tịa án quyết định một hình phạt cơng minh, có căn cứ và đúng
pháp luật có ý nghĩa quan trọng :

- Quyết định hình phạt đúng đắn chính là sự thực hiện các yêu cầu của
các nguyên tắc của Luật hình sự trong việc áp dụng pháp luật hình sự.
- Quyết định hình phạt là cơ sở pháp lý để thực hiện mục đích của hình
phạt là phịng ngừa riêng và phịng ngừa chung và cũng thơng qua đó đảm bảo
hiệu quả của hình phạt.
1.1.2. Các căn cứ quyết định hình phạt
Khi quyết định hình phạt, Tịa án có quyền lựa chọn loại và mức hình phạt áp
dụng với người phạm tội. Tuy nhiên, việc lựa chọn này không thể thực hiện một
cách tùy tiện mà phải trên những cơ sở, căn cứ để lựa chọn nhằm bảo đảm tính cơng
minh của pháp luật, nhằm áp dụng hình phạt tương xứng với tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội. Khơng thể quyết định hình phạt q nặng hoặc quá nhẹ,
nếu quyết định hình phạt quá nhẹ thì sẽ khơng đạt được mục đích phịng ngừa của
hình phạt, trong đó có mục cải tạo, giáo dục người phạm tội, cịn nếu quyết định hình
phạt q nặng thì sẽ không công bằng, tạo tạm lý không tin tưởng vào pháp luật. Do
đó, Điều 45 BBLHS quy định các căn cứ quyết định hình phạt như sau:
1.1.2.1. Căn cứ vào các qui định của BLHS
Các quy định của BLHS là căn cứ quyết định hình phạt bao gồm các quy định ở
phần chung và ở phần các tội.
- Căn cứ vào các quy định ở Phần chung của BLHS khi quyết định hình phạt
nhằm xác định các vấn đề mang tính ngun tắc về tội phạm và hình phạt.

5


- Căn cứ vào các quy định ở phần các tội phạm của BLHS khi quyết định hình
phạt là quy định về khung hình phạt chính và hình phạt bổ sung cho từng loại tội, hay
nói cách khác, đó chính là chế tài đối với một tội phạm cụ thể được qui định trong
điều luật ở phần các tội phạm.
Khi quyết định hình phạt, tịa án phải căn cứ vào “các qui định của BLHS” để
lựa chọn loại hình phạt với mức hình phạt cụ thể để áp dụng đối với người phạm tội.

Qui định này một mặt xuất phát từ việc các quy định về tội phạm và hình phạt làm cơ
sở cho việc quyết định hình phạt đều được qui định trong BLHS nên khi quyết định
hình phạt bắt buộc phải dựa vào các qui định của BLHS; mặt khác nó cũng là yêu
cầu của nguyên tắc pháp chế XHCN trong quyết định hình phạt.
1.1.2.2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm.
Chế tài là hậu quả pháp lý bất lợi do thực hiện hành vi trái pháp luật gây ra, và
việc áp dụng chế tài là nhằm răn đe, giáo dục người có hành vi vi phạm pháp luật. Do
đó, việc áp dụng chế tài có hiệu quả hay khơng phải được tính tốn trên cơ sở tính
chất và mức độ của từng hành vi vi phạm. Mức độ nghiêm khắc của chế tài phải
tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm do hành vi vi phạm gây ra, không
quá nghiêm khắc, cũng không quá nhẹ so với hành vi vi phạm. Vì vậy, trong luật
hình sự, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đã được nhà làm luật sử dụng làm
căn cứ chủ yếu khi quy định tội phạm, quy định loại hình phạt và khung chế tài đối
với từng loại tội phạm cụ thể. Do vậy, khi quyết định hình phạt (là việc lựa chọn loại
và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi khung chế tài cho phép) Tòa án bắt buộc phải
căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
1.1.2.3. Căn cứ vào nhân thân người phạm tội.
Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc
điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn
đề TNHS của họ.
Nhân thân người phạm tội được coi là căn cứ để quyết định hình phạt nhằm đạt
được mục đích của hình phạt là trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội và ngăn
ngừa họ phạm tội mới. Bởi, việc áp dụng hình phạt có đạt được mục đích hay khơng
cịn phụ thuộc vào những đặc điểm nhân thân của người bị áp dụng. Đối với những
người có đặc điểm nhân thân khác nhau, dù họ cùng phạm một tội với tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội như nhau nhưng khả năng cải tạo, giáo dục họ vẫn
khác nhau, do đó, hình phạt áp dụng đối với họ là khác nhau.

6



1.1.2.4. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS là những tình tiết khơng có ý nghĩa về
mặt định tội, định khung hình phạt mà chỉ có tác dụng làm tăng hoặc giảm mức độ
TNHS trong phạm vi một khung hình phạt nhất định. Bởi, như đã nêu, tính nghiêm
khắc của chế tài phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội. Do đó, khi xuất hiện các tính tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS thì nó sẽ làm
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội tăng lên hoặc giảm đi, do đó, mức
hình phạt cũng phải được cân nhắc tăng hoặc giảm tương ứng.
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại Điều 46 BLHS và các tình tiết
tăng nặng TNHS được quy định tại Điều 48 BLHS. Trên thực tế, nhà làm luật không
thể qui định được các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS có ảnh hưởng đến mức độ
nào đối với việc quyết định hình phạt bởi vì ý nghĩa của từng tình tiết giảm nhẹ, tăng
nặng TNHS tùy thuộc vào từng loại tội cụ thể, vào từng vụ án cụ thể. Do vậy, khi
quyết định hình phạt Tịa án phải đánh giá các tình tiết này có ảnh hưởng như thế nào
đối với việc quyết định hình hình phạt. Hay nói cách khác, các tình tiết giảm nhẹ,
tăng nặng TNHS được coi là một trong những căn cứ quyết định hình phạt.
1.2. Một số vấn đề lý luận về quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên
phạm tội
1.2.1. Khái quát về người chưa thành niên phạm tội
1.2.1.1. Khái niệm người chưa thành niên
Người chưa thành niên là những đối tượng dễ bị tổn thương và được các Nhà
nước, các cộng đồng quan tâm bảo vệ. Nghiên cứu khái niệm người chưa thành niên
chính là nghiên cứu về phạm vi các đối tượng được xem là người chưa thành niên.
Người chưa thành niên có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
- Dưới góc độ tâm sinh lý:
Người chưa thành niên là những người đang trong giai đoạn đầu của quá trình
phát triển. Từ khi mới sinh ra, con người đã phải trải qua các giai đoạn phát triển
khác nhau để đạt được sự trưởng thành với sự phát triển toàn diện về thể chất cũng
như tinh thần. Cho đến giai đoạn đầu của lứa tuổi thanh niên, cùng với sự phát triển

mạnh mẽ của cơ thể, đời sống tâm lý của người chưa thành niên cũng có những biến
đổi sâu sắc. Họ có tâm lý muốn khẳng định mình, muốn được người khác chấp nhận.
Nhìn chung, ở lứa tuổi này, người chưa thành niên chịu sự tác động chủ yếu của môi
trường sống. Sự phát triển về nhân cách và sự hình thành các phẩm chất thuộc về
nhân thân của họ chịu sự chi phối có tính chất quyết định bởi nền giáo dục của gia
đình, nhà trường và xã hội.

7


Về thể lực: phải đến giai đoạn đầu của tuổi thanh niên (14-15 đến 17-18 tuổi 2)
thì sự phát triển của hệ xương mới bắt đầu được hoàn thiện, những cơ bắp tiếp tục
phát triển, nhịp độ tăng trưởng về chiều cao và trọng lượng bắt đầu chậm lại. Về hệ
thần kinh: sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc
bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Cấu trúc của bán cầu
đại não có những đặc điểm như trong cấu trúc tế bào não của người lớn. Số lượng
dây thần kinh liên hợp, liên kết và các phần khác nhau của võ não được tăng lên.
Điều đó tạo tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hóa hoạt động phân tích, tổng hợp... của
võ bán cầu đại não trong quá trình học tập và lao động.3
Do đó, có thể kết luận, dưới góc độ tâm sinh lý, người chưa thành niên là người
chưa phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần.
- Dưới góc độ pháp lý:
Khái niệm người chưa thành niên được ghi nhận trong các văn bản pháp luật
quốc tế cũng như pháp luật quốc gia. Các văn bản này căn cứ vào cơ sở khoa học là
sự phát triển về thể chất và tinh thần của con người theo độ tuổi để từ đó lấy độ tuổi
làm cột mốc xác định người chưa thành niên và người đã thành niên.
Theo pháp luật quốc tế, "người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Giới
hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và không được tước quyền
tự do của người chưa thành niên".4 Quy định này cho thấy trong pháp luật quốc tế,
người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi.

Tuy nhiên, tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng
Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 qui định: "Trẻ em có nghĩa là người dưới
18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng đối với trẻ em đó quy định tuổi thành niên
sớm hơn". Như vậy, theo hai văn bản này, khái niệm người chưa thành niên và khái
niệm trẻ em đồng nhất với nhau – đều là người dưới 18 tuổi. Ở tuổi từ đủ 18 trở lên
thì được coi là người đã thành niên là đồng thời cũng khơng cịn là trẻ em. Các văn
bản này lấy tuổi làm ranh giới xác định người đã thành niên và người chưa thành
niên. Tuy nhiên, các văn bản này này không xác định mức tuổi một cách tuyệt đối
mà quy định mở để từng quốc gia thành viên của Cơng ước có quyền xác định tuổi
thành niên sớm hơn (tức dưới 18 tuổi) nhưng phải được qui định trong luật của quốc
gia đó.

2
3

Tâm lý tuổi học trò, Nxb Lao động, năm 2008, trang 42
Tâm lý tuổi học trò, Nxb Lao động, năm 2008, trang 43

Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do
thông qua ngày 14/12/1990, mục a Quy tắc 2.1
4

8


Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm người chưa thành niên được qui định
trong nhiều văn bản khác nhau.
Theo luật dân sự, khái niệm người chưa thành niên được qui định tại Điều 18
Bộ luật dân sự (BLDS): "Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên".
Theo luật lao động, khái niệm người chưa thành niên được qui định tại Điều

119 Bộ luật lao động (BLLĐ): "Người lao động chưa thành niên là người lao động
dưới 18 tuổi".
Theo Bộ luật hình sự 1999 (BLHS), người chưa thành niên phạm tội cũng là
người dưới 18 tuổi.5
Các văn bản này cũng lấy độ tuổi làm mốc chuẩn để xác định ranh giới giữa
người đã thành niên và người chưa thành niên. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy
sự khác biệt giữa BLHS, BLDS và BLLĐ trong cách thức phân định ranh giới này.
BLDS dùng cụm từ "chưa đủ", còn BLLĐ và BLHS dùng từ "dưới". Nhưng trong tất
cả các văn bản đã nêu, việc xác định người đã thành niên đều phải là người tròn 18
tuổi, đủ ngày, đủ tháng. Người chưa thành niên là người chưa tròn 18 tuổi.
Như vậy, việc xác định người chưa thành niên theo pháp luật Việt Nam có sự
đồng nhất với các Cơng ước của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, có một điểm mà chúng ta
cần lưu ý, đó là khái niệm người chưa thành niên trong pháp luật Việt Nam không
đồng nhất với khái niệm trẻ em như các Công ước của Liên hợp quốc. Theo Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004, "Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16
tuổi". Theo pháp luật Việt Nam, trẻ em là người có độ tuổi dưới 16, nhưng qui định
này khơng trái với các Cơng ước của Liên hợp quốc vì tại Cơng ước về quyền trẻ em
có qui định "Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp
dụng đối với trẻ em đó qui định tuổi thành niên sớm hơn". Như vậy, theo pháp luật
Việt Nam, khái niệm người chưa thành niên và trẻ em là hai khái niệm khác biệt,
người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi, còn trẻ em là người chưa đủ 16 tuổi.
Sự tồn tại hai khái niệm khác nhau như đã nêu có thể sẽ gây khó khăn trong
việc bảo vệ quyền của người chưa thành niên, bởi lẽ theo pháp luật quốc tế thì khái
niệm người chưa thành niên và trẻ em là đồng nhất nên việc bảo vệ người chưa thành
niên sẽ thực hiện theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 của Liên hợp
quốc. Còn theo pháp luật Việt Nam, việc bảo vệ quyền của người chưa thành niên
chưa có một văn bản riêng biệt. Hiện nay các qui định về đảm bảo quyền con người
của người chưa thành niên được ghi nhận một cách tập trung vào đối tượng người
chưa thành niên dưới 16 tuổi bằng các qui định của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo
5


Điều 68 BLHS 1999: "Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu TNHS theo
những qui định của Chương này,..."

9


dục trẻ em năm 2004. Quyền lợi cụ thể của những người chưa thành niên từ đủ 16
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi chưa được ghi nhận chính thức trong một văn bản luật riêng
biệt nào.
Như vậy, thông qua các qui định trong các Công ước của Liên hợp quốc và các
văn bản pháp luật Việt Nam, chúng ta có thể xác định: "Người chưa thành niên là
người chưa đủ 18 tuổi".
1.2.1.2 Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
Như đã phân tích ở trên, người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi. Bên
cạnh đó, Điều 12 BLHS qui định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) như sau:
"1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng."
Trong luật hình sự Việt Nam, người phạm tội là người đã thực hiện hành vi bị
luật hình sự qui định là tội phạm, nhưng không phải bất cứ người nào thực hiện một
hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui định trong BLHS cũng có thể trở thành người
phạm tội. Để trở thành chủ thể của tội phạm (người phạm tội) thì người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu
TNHS. Do vậy, người chưa thành niên phạm tội chỉ bao gồm các đối tượng ở các
nhóm tuổi sau:
+ Người từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi bị luật hình sự qui
định là tội phạm, bất kể đó là loại tội phạm gì, được thực hiện với lỗi gì.
+ Người từ đủ 14 đến chưa đủ 16 tuổi thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng với
lỗi cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp này, nếu người chưa

thành niên thực hiện hành vi nguy hiểm bị luật hình sự qui định là tội phạm rất
nghiêm trọng thì họ chỉ phải chịu TNHS khi tội phạm đó được thực hiện với lỗi cố ý,
còn nếu họ thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng nhưng với lỗi vơ ý thì khơng phải
chịu TNHS. Đối với trường hợp tội phạm mà những người ở độ tuổi này thực hiện là
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì họ đều phải chịu TNHS cho dù tội phạm đó được
thực hiện với lỗi cố ý hay vơ ý.
Từ đó, chúng ta có thể xác định những trường hợp người chưa thành niên thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng khơng phải là người phạm tội vì họ chưa
đủ tuổi chịu TNHS. Cụ thể:
+ Người chưa đủ 14 tuổi.

10


+ Người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội được luật hình sự qui định là tội phạm ít nghiêm trọng (cố ý hoặc vô ý), hoặc tội
phạm nghiêm trọng (cố ý hoặc vô ý), hoặc tội phạm rất nghiêm trọng với lỗi vơ ý.

Ví dụ:
Người 15 tuổi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản theo Điều 138 BLHS thì tùy
trường hợp mà người này có thể đủ tuổi chịu TNHS hoặc không. Nếu hành vi của họ
thuộc trường hợp qui định tại khoản 1 Điều 138 BLHS thì họ khơng phải chịu TNHS
(chưa đủ tuổi chịu TNHS), vì đây là tội phạm ít nghiêm trọng, mức cao nhất của
khung hình phạt là 3 năm tù. Nhưng nếu hành vi của họ thuộc trường hợp qui định
tại khoản 3 Điều 138 BLHS thì họ phải chịu TNHS (đủ tuổi chịu TNHS), vì đây là
tội phạm rất nghiêm trọng được thực hiện với lỗi cố ý, mức cao nhất của khung hình
phạt lên đến 15 năm tù.
Như vậy, có thể kết luận, người chưa thành niên phạm tội là người có năng
lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS đã thực hiện tội phạm được qui định trong
BLHS khi chưa đủ 18 tuổi.

* Cách tính tuổi chịu TNHS:
Tuổi chịu TNHS là dấu hiệu bắt buộc khi xác định chủ thể của tội phạm. Một
người chưa đủ tuổi theo qui định tại Điều 12 BLHS thì khơng thể trở thành chủ thể
của tội phạm và đương nhiên họ không phải chịu TNHS. Do đó, việc xác định chính
xác tuổi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có vai trị quan trọng đối
với việc xác định một người có phải chịu TNHS hay khơng. Bên cạnh đó, việc xác
định chính xác tuổi cịn nhằm giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đúng các
chính sách, chủ trương, nguyên tắc, đường lối xử lý hình sự đối với những người ở
các nhóm tuổi khác nhau (như người chưa thành niên, người già,...).
Vấn đề xác định tuổi theo qui định của luật hình sự là tính tuổi trịn, tuổi đủ,
nghĩa là phải đủ ngày, đủ tháng. Ví dụ: Người chưa thành niên là người chưa đủ 18
tuổi, như vậy, người 17 tuổi 11 tháng 15 ngày vẫn được xem là người chưa đủ 18
tuổi và được xem là người chưa thành niên.
Việc tính tuổi của bị can, bị cáo sẽ căn cứ trên những giấy tờ có ghi nhận ngày
sinh của bị can, bị cáo mà trước hết chính là giấy khai sinh của họ.Tuy nhiên, trên
thực tế có những trường hợp không xác định được ngày, tháng, năm sinh của bị can,
bị cáo vì những lý do như bị can, bị cáo khơng có giấy khai sinh, khơng có giấy tờ
tùy thân... Điều này sẽ gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác
định tuổi chịu TNHS của bị can, bị cáo. Tuy nhiên, Viện kiển sát nhân dân tối cao,

11


Tịa án nhân dân tối cao, Bộ cơng an, Bộ tư pháp và Bộ lao động, thương binh và xã
hội đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTPBLĐTBXH ngày ngày 12 tháng 07 năm 2011 về hướng dẫn thi hành một số quy định
của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên, theo đó
hướng dẫn về việc tính tuổi của người phạm tội là người chưa thành niên. Theo
Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH, tuổi
chịu TNHS sẽ tính như sau:
- Nếu xác định được tháng cụ thể, nhưng không xác định được ngày nào trong

tháng đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của người phạm tội;
- Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày,
tháng nào trong q đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của quý đó làm
ngày sinh của người phạm tội;
- Nếu xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác
định được ngày, tháng nào trong nửa đầu năm hay nửa cuối năm thì lấy ngày 30
tháng 6 hoặc 31 tháng 12 tương ứng của năm đó làm ngày sinh của người phạm tội;
- Nếu không xác định được nửa năm nào, quý nào, tháng nào trong năm thì lấy
ngày 31 tháng 12 của năm sinh đó làm ngày sinh của người phạm tội.
Trong trường hợp đặc biệt, nếu không xác định được năm sinh của người phạm
tội thì tiến hành trưng cầu giám định để xác định tuổi của người phạm tội.
Như vậy, theo tinh thần của Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTCTANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH, việc xác định tuổi của người phạm tội được thực
hiện theo ngun tắc suy đốn có lợi . Điều này xuất phát từ nghĩa vụ chứng minh tội
phạm và người phạm tội thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; bị can, bị cáo có
quyền nhưng buộc phải chứng minh là mình vơ tội 6. Đồng thời, BLTTHS cũng qui
định "khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực
pháp luật" 7. Do đó, nếu cơ quan tiến hành tố tụng không xác định được chính xác họ
sinh vào ngày, tháng, năm nào thì phải suy đoán theo hướng tuổi thấp nhất cho họ
(suy đoán có lợi).

6
7

Điều 10 BLTTHS 2003
Điều 9 BLTTHS 2003

12


1.2.2. Khái niệm quyền con người

1.2.2.1. Định nghĩa
Quyền con người (hay nhân quyền) là một phạm trù lịch sử, có ảnh hưởng lớn
đến nhiều mặt của đời sống nhân loại, đặc biệt là trên lĩnh vực chính trị và pháp luật.
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 đã khẳng định sự coi thường và xâm
phạm đến các quyền con người dẫn đến những hành vi man rợ xúc phạm tới lương
tâm nhân loại, và việc tạo lập một thế giới trong đó con người sẽ được hưởng tự do
ngơn luận, tự do tín ngưỡng, và tự do thốt khỏi nỗi sợ hãi về sự đói đã được tuyên
bố như là khát vọng cao cả nhất của những người dân bình thường 8. Do đó, nhu cầu
kiến thức về lĩnh vực quyền con người ngày càng trở nên cần thiết cho cơng chúng
nói chung cũng như cho các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội.
Quyền con người là một phạm trù đa diện do đó có nhiều cách định nghĩa khác
nhau. Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định.
Các học giả theo trường phái pháp luật tự nhiên cho rằng: quyền con người là
đặc quyền tự nhiên. Đặc quyền tự nhiên này do pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn
pháp luật thực định. Quan niệm khác xem con người cũng như quyền con người
trong tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Theo quan niệm này, nhân quyền là một giá
trị nhân loại, đồng thời có tính lịch sử hình thành trong cuộc đấu tranh giai cấp và
được bổ sung mới qua các thời đại khác nhau.
Quyền con người là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ
bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Các quyền không thể tước bỏ được là các
quyền tự nhiên do Tạo hóa ban cho họ. Các quyền này không bị phá hủy khi xã hội
dân sự được thiết lập và khơng một xã hội hay một chính phủ nào có thể xóa bỏ hoặc
“chuyển nhượng” các quyền này. Các quyền không thể tước bỏ bao gồm quyền được
sống, quyền tự do (các quyền tự do ngôn luận và thể hiện, quyền tự do tín ngưỡng và
nhận thức, quyền tự do lập hội) quyền mưu cầu hạnh phúc và quyền được bảo vệ
bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, đây chưa phải là bản liệt kê đầy đủ các quyền
mà các cơng dân có được trong một nền dân chủ. Các xã hội dân chủ đồng thời thừa
nhận các quyền dân sự như quyền được xét xử công bằng, và còn lập nên các quyền
chủ chốt mà bất kỳ chính phủ dân chủ nào cũng phải duy trì. Vì các quyền này tồn tại
khơng phụ thuộc vào chính phủ, do đó chúng khơng thể bị luật pháp bãi bỏ cũng như

không phụ thuộc vào ý muốn nhất thời của đa số cử tri nào đó.
Học thuyết Mác-Lê Nin là một chỉnh thể thống nhất thể hiện những tư tưởng
nhân văn chân chính nhất của lồi người, là sự kế thừa một cách biện chứng giá trị
8

Lời mở đầu Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền 1948

13


tinh hoa của nhân loại về con người và quyền con người. Các Mác đã xuất phát từ
con người là một thực thể thống nhất, một “sinh vật-xã hội ”. Do đó quyền con người
là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” và “quyền xã hội”.
Từ những cách tiếp cận khác nhau đã xuất hiện nhiều định nghĩa khác nhau về
quyền con người ở cấp độ quốc gia hay quốc tế.
Ở cấp độ quốc tế, định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền
con người : "Quyền con người là những bảo đảm pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo
vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn
hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người".9
Ngoài ra, cịn có các định nghĩa khác như "Quyền con người là những sự được
phép mà tất cả các thành viên của cộng đồng nhân loại, khơng phân biệt giới tính,
chủng tộc, tơn giáo, địa vị xã hội... đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là
con người".10 Định nghĩa này đã xem các quyền con người như là những quyền tự
nhiên, cơ bản của con người. Ở Việt Nam, quyền con người thường được hiểu là
những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận
và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế 11. Như vậy, các
quan điểm về quyền con người ở Việt Nam cũng thừa nhận quyền con người là
những quyền tự nhiên, tuy nhiên phải có sự ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc
gia hoặc pháp luật quốc tế.
Theo Từ điển Tiếng Việt 1992, quyền là: “điều mà pháp luật hoặc xã hội công

nhận cho được hưởng, được làm, được địi hỏi”. Từ đó, có thể hiểu quyền con người
là những quyền mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho họ được hưởng.
Như vậy, trong tư tưởng nhân loại hiện đại thì con người và những gì thuộc về
con người là những giá trị, mục đích cao cả nhất đối với mọi tổ chức và tất cả các xã
hội. Khái niệm quyền con người là một khái niệm mở bởi nó có thể thay đổi theo sự
phát triển của con người và xã hội loài người. Cũng vì lí do này mà việc bảo đảm
thực hiện quyền con người là một quá trình liên tục và phức tạp gắn chặt với từng
hoàn cảnh và điều kiện cụ thể. Nhưng tựu chung lại, để quyền con người có thể được
nhìn nhận là một giá trị cao cả thì Nhà nước phải là chủ thể đầu tiên có trách nhiệm
thực hiện quyền con người bằng hệ thống pháp luật dân chủ và tiến bộ.
Về bản chất, quyền con người là những vấn đề thuộc riêng về con người nên
bản chất của quyền con người xuất phát từ chính bản chất của con người. Con người
là một thực thể tự nhiên-xã hội, là sự thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội, cho
9

Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2009, trang 41
Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2009, trang 42
11
Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2009, trang 42
10

14


nên quyền con người cũng vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hội. Do con
người là một thực thể sinh học xã hội, cho nên quyền con người vừa mang tính phổ
biến vừa mang tính đặc thù. Tính phổ biến của quyền con người có nghĩa quyền con
người được áp dụng phổ biến mọi nơi, cho mọi đối tượng. Tính đặc thù của quyền
con người có nghĩa, quyền này ở mỗi quốc gia, mỗi lãnh thổ do trình độ phát triển
khác nhau mà có đặc điểm riêng phù hợp với điều kiện của quốc gia, lãnh thổ đó.

Quyền con người mang tính xã hội, nên trong xã hội có sự phân chia giai cấp nên nó
vừa mang tính giai cấp sâu sắc, vừa là một giá trị của nhân loại. Trong Nhà nước
XHCN có sự kết hợp hài hồ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợí ích tồn xã
hội. Lợí ích cá nhân là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, đồng thời bảo
đảm lợi ích của tập thể, của cả cộng đồng xã hội. Tức là quyền con người phải được
đặt trong mối quan hệ với nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người đối với xã hội và
được giải quyết trên cơ sở đảm bảo lợí ích xã hội.
Như vậy, “quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ con người
mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hố xã hội nhất định.
Quyền con người vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính xã hội, vừa mang tính phổ
biến, vừa mang tính đặc thù, vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính nhân loại và
thống nhất với quyền dân tộc cơ bản”.
Về đặc điểm của quyền con người đã được T.S Võ Thị Kim Oanh liệt kê như
sau:
- Quyền con người là những giá trị vừa gắn liền với cá nhân con người, vừa gắn
liền với lợi ích quốc gia dân tộc. Bởi, con người là công dân của một nhà nước, là
thành viên của một dân tộc, cộng đồng và khơng ai sống riêng rẻ ngồi cộng đồng.
- Quyền con người vừa mang tính chất tự nhiên, vừa mang tính xã hội vì con
người là sự thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội. Quyền con người xuất phát
từ đặc điểm tự nhiên của con người nhưng con người lại tồn tại trong xã hội nên
quyền con người cũng mang tính xã hội và bị chi phối bởi các đặc tính của xã hội mà
con người tồn tại.
- Quyền con người vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù. Vấn đề bảo
vệ quyền con người là vấn đề chung của toàn cầu nhưng mỗi quốc gia ghi nhận và
thực hiện vấn đề này ở những mức độ và cách thức khác nhau phụ thuộc vào tình
hình kinh tế, xã hội, chính trị của quốc gia đó.
Việc nắm vững bản chất và đặc điểm của quyền con người sẽ giúp tìm ra cách
lý giải cho việc tồn tại những mức độ khác nhau của việc bảo đảm quyền con người
khi nghiên cứu các chế định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia; tìm ra cách
thức đảm bảo quyền con người và hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như cơ


15


chế bảo đảm thi hành quyền con người sao cho hiệu quả nhất trong điều kiện cho
phép của xã hội hiện tại.
1.2.2.2. Các tính chất của quyền con người
- Tính phổ biến
Thuộc tính này có nghĩa quyền con người có ở tất cả các cá nhân, không phân
biệt chủng tộc, giới tính, tơn giáo, độ tuổi, thành phần xã hội,...tất cả mọi người đều
có những quyền như nhau. Quyền con người là thuộc tính tự nhiên vốn có và được
trao cho tất cả mọi người trong cộng đồng xã hội. Hay nói cách khác, thuộc tính này
khẳng định quyền con người là những quyền thiết thân của con người khi sinh ra đã
có mà khơng phụ thuộc vào các nhân tố xã hội.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, các quyền con người có tính phổ biến, nghĩa là
như nhau giữa mọi người, tất cả các cá nhân đều có các quyền này. Nhưng điều đó
khơng có nghĩa là mức độ hưởng thụ các quyền này giữa các cá nhân là như nhau,
mà các quyền con người sẽ còn phụ thuộc vào tư cách chủ thể, hay nói cách khác,
giữa các nhóm chủ thể khác nhau thì quyền của họ cũng khác nhau, nhưng những cá
nhân trong cùng một nhóm chủ thể thì quyền của họ sẽ là như nhau.
- Tính khơng thể chuyển nhƣợng
Quyền con người là những quyền không thể bị tước bỏ hoặc hạn chế bởi bất cứ
một thế lực nào, kể cả Nhà nước. Tuy nhiên, cũng cần ghi nhận những trường hợp
đặc biệt mà quyền con người có thể bị tước bỏ hoặc hạn chế, đó chính là khi một cá
nhân thực hiện những hành vi đi ngược với lợi ích của xã hội, ngược với tiêu chuẩn
chung của loài người, của cộng đồng xã hội, khi đó, họ đã tự tách biệt mình khỏi xã
hội lồi người thậm chí xâm phạm lợi ích của cộng đồng nên quyền của họ có thể bị
hạn chế hoặc tước bỏ nhằm bảo vệ quyền con người của những cá thể khác trong xã
hội, đúng chuẩn mực chung của xã hội lồi người.
- Tính khơng thể phân chia

Các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, khơng quyền nào có giá
trị cao hơn hay thấp hơn quyền nào. Bất cứ một quyền nào bị xâm phạm thì cũng đã
xâm phạm đến quyền con người.
Tuy nhiên, trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, trong từng bối cảnh xã hội mà
việc thực hiện, bảo đảm các quyền con người có thể có các thứ tự ưu tiên khác nhau.
Các thức tự ưu tiên này không dựa trên các giá trị cao hay thấp của quyền con người
mà dựa trên tình hình cấp thiết của việc bảo đảm các quyền đó trong từng bối cảnh
cụ thể.

16


- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau
Các quyền con người nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự
vi phạm quyền này sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo
đảm các quyền khác, và ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp
hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác.
1.2.2.3. Quyền con người và quyền công dân
Quyền con người có mối liên hệ mật thiết với quyền cơng dân. Các Mác cho
rằng quyền con người và quyền công dân ln nằm trong một chỉnh thể thống nhất,
có mối quan hệ biện chứng với nhau. “Quyền cơng dân chính là quyền con người
trong một xã hội cụ thể, trong một chế độ chính trị-xã hội nhất định với một nền
pháp luật cụ thể do Nhà nước đó thừa nhận quy định”.
Quyền con người và quyền công dân là hai phạm trù rất gần gũi nhưng khơng
hồn tồn đồng nhất. Quyền công dân là khái niệm xuất hiện cùng cách mạng tư sản.
Cách mạng tư sản đã đưa con người từ những thần dân trở thành những công dân với
tư cách là những thành viên bình đẳng trong một Nhà nước và pháp điển hóa các
quyền tự nhiên của con người dưới hình thức các quyền cơng dân trong pháp luật.
Như vậy, về bản chất, các quyền cơng dân chính là các quyền con người được các
Nhà nước thừa nhận và áp dụng cho cơng dân của mình.

Tuy nhiên, quyền cơng dân khơng phải hình thức cuối cùng và tồn diện của
quyền con người. Với ý nghĩa là một khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối
quan hệ giữa công dân với Nhà nước, được xác định thông qua một chế định pháp
luật đặc biệt là chế định quốc tịch, quyền công dân là tập hợp những quyền tự nhiên
được pháp luật của một nước ghi nhận và bảo đảm, nhưng chỉ cho những người có
quốc tịch của nước đó. Khơng phải ai cũng được hưởng các quyền công dân của một
quốc gia nhất định, và không phải hệ thống quyền công dân của mọi quốc gia đều
giống hệt nhau, cũng như đều hồn tồn tương thích với hệ thống các tiêu chuẩn
quốc tế về quyền con người.
Trong khi đó, quyền con người là một khái niệm rộng hơn. Về tính chất, quyền
con người khơng bị bó hẹp trong mối quan hệ giữa cá nhân với Nhà nước mà thể
hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại. Về phạm vi áp
dụng, do không bị giới hạn bởi chế định quốc tịch, chủ thể của quyền con người là tất
cả các thành viên của loài người, bất kể vị thế, hoàn cảnh, quốc tịch... Nói cách khác,
quyền con người được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người thuộc mọi
dân tộc đang sinh sống trên phạm vi tồn cầu, khơng phụ thuộc vào biên giới quốc
gia, tư cách cá nhân hay môi trường sống của chủ thể quyền.

17


Một cá nhân con người, ngoại trừ những người không quốc tịch, về hình thức
đồng thời là chủ thể của cả hai loại quyền con người và quyền công dân, tuy nhiên,
sự phân biệt trong thụ hưởng hai quyền này chỉ được thể hiện trong một số hoàn cảnh
đặc biệt. Ví dụ, một người nước ngồi hay người khơng quốc tịch sẽ không được
hưởng một số quyền công dân (và cũng là những quyền con người) đặc thù, chẳng
hạn như quyền bầu cử, ứng cử...như công dân của nước mà người đó đang sinh sống
hay làm việc, tuy nhiên, người đó vẫn được hưởng các quyền con người phổ biến
(mà đồng thời cũng là các quyền công dân) áp dụng cho mọi thành viên của nhân loại
trong mọi hoàn cảnh, cụ thể như quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân...

1.3. Quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm tội
1.3.1. Quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên
Người chưa thành niên là nhóm người dễ bị tổn thương và được quan tâm bảo
vệ không chỉ bằng pháp luật quốc gia mà còn được bảo vệ bằng các quy định của
pháp luật quốc tế. Do đó, khi nghiên cứu về quyền con người của người chưa thành
niên, chúng ta có thể tiếp cận các quyền này ở hai góc độ là pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia.
* Theo pháp luật quốc tế (CRC – Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em 1989)
Pháp luật quốc tế đồng nhất người chưa thành niên và trẻ em là một – người chưa
đủ 18 tuổi. Do đó, khi nghiên cứu về quyền con người của người chưa thành niên
trong pháp luật quốc tế chính là nghiên cứu về quyền con người của trẻ em. Các
quyền này được nghi nhận tại Công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên hợp quốc
thông qua năm 1989 (CRC).
Công ước về quyền trẻ em (Convention on the Rights of the Child) đã được Đại
hội đồng Liên hợp quốc thông qua theo Nghị quyết số 44/25 ngày 20/11/1989.
Những điểm nổi bậc của Công ước:
- Mọi trẻ em đều có quyền cố hữu là được sống và các Nhà nước phải đảm bảo
đến mức tối đa quyền được sống còn và phát triển của trẻ.
- Mọi trẻ em đều có quyền có họ tên và quốc tịch khi sinh ra.
- Trẻ em không thể bị tách rời khỏi các bậc cha mẹ, trừ khi điều đó do các nhà
chức trách có thẩm quyền tiến hành vì lợi ích của trẻ.
- Các quốc gia phải giúp đỡ trẻ em đồn tụ gia đình bắng cách cho phép trẻ em
rời khỏi hay trở về đất nước của mình.

18


- Cha mẹ có trách nhiệm hàng đầu trong việc nuôi dạy con cái, song Nhà nước
phải cung cấp cho họ những trợ giúp cần thiết và phải phát triển những cơ sở chăm
sóc trẻ em.

- Trẻ em khuyết tật phải có quyền được chăm sóc, giáo dục và chữa trị đặc biệt.
- Trẻ em có quyền được hưởng tình trạng sức khỏe ở mức cao nhất có thể được.
Các nhà nước phải đảm bảo cho tất cả các trẻ em được chăm sóc sức khỏe, trong đó
chú trọng các biện pháp phòng ngừa, giáo dục sức khỏe và giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ
em.
- Giáo dục tiểu học phải là bắt buộc và miễn phí. Kỷ luật nhà trường phải tôn
trọng nhân phẩm của trẻ em. Giáo dục phải chuẩn bị cho trẻ em một cuộc sống trong
tinh thần hiểu biết, hịa bình và khoan dung.
- Trẻ em phải có thời gian nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí và có các cơ hội bình đẳng
trong các hoạt động văn hóa và nghệ thuật.
- Nhà nước phải bảo vệ trẻ em khỏi bị bóc lột về kinh tế và những công việc ảnh
hưởng đến công việc học tập của các em hay làm tổn hại đến sức khỏe và hạnh phúc
của các em.
- Nhà nước phải bảo vệ trẻ em chống lại việc sử dụng bất hợp pháp những chất
ma túy và tham gia vào việc sản xuất, buôn bán các chất ma túy.
- Phải nổ lực hết khả năng để xóa bỏ tệ nạn mại dâm, bn bán và bắt cóc trẻ em.
- Khơng được áp dụng hình phạt tử hình và tù chung thân cho những người phạm
tội dưới 18 tuổi.
- Trẻ em bị giam giữ phải giam tách biệt với người lớn và không bị tra tấn hay đối
xử, trừng phạt tàn bạo, hạ nhục.
- Không trẻ em nào duối 15 tuổi phải tham gia vào các công việc chiến tranh.
Những trẻ em bị ảnh hưởng của xung đột vũ trang phải được bảo vệ đặc biệt.
- Trẻ em người thiểu số hay bản địa phải được tự do thực hành văn hóa, tơn giáo
và ngơn ngữ riêng của dân tộc mình.
- Trẻ em bị xao nhãng, bị bóc lột hay ngược đãi phải được giúp đỡ phục hồi và tái
hòa nhập xã hội.

19



- Trẻ em vi phạm pháp luật phải được phải được đối xử theo cách thức nhằm
nâng cao ý thức của các em về nhân phầm và giá trị cá nhân để hội nhập các em vào
xã hội.
- Các nhà nước phải phổ biến rộng rãi các quyền được ghi nhận trong Công ước
tới cả người lớn và trẻ em.
* Theo pháp luật Việt Nam
Nhà nước Việt Nam coi con người là mục tiêu và động lực của mọi chính sách
phát triển kinh tế - xã hội và luôn nhất quán trong việc đảm bảo và thúc đẩy các
quyền con người. Hiến pháp năm 1992, văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, đảm
bảo mọi cơng dân có quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bình
đẳng trước pháp luật; quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội;
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo; quyền tự do đi lại và cư trú trên đất nước Việt
Nam; quyền khiếu nại và tố cáo; quyền lao động, học tập, chăm sóc sức khỏe...
khơng phân biệt giới tính, sắc tộc, tơn giáo. Trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật Việt
Nam tiếp tục cụ thể hóa các quyền này, phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế
về nhân quyền .
Trong pháp luật Việt Nam, chưa có một văn bản riêng biệt ghi nhận các quyền
con người của người chưa thành niên. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta có một văn bản
ghi nhận các quyền con người của một nhóm đối tượng trong nhóm người chưa
thành niên là trẻ em, đó chính là Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.
Theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, thì trẻ em có những
quyền cơ bản sau đây:
- Quyền được khai sinh và có quốc tịch của trẻ em
Quyền này được qui định tại Điều 11 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004, phù hợp với Điều 7 CRC.
Trẻ em phải được khai sinh để xác định sự sinh ra và tồn tại tồn tại của một cá
nhân trong cộng đồng xã hội nhằm tạo cơ sở thực hiện những biện pháp bảo vệ,
chăm sóc tốt nhất dành cho trẻ.
Quyền có quốc tịch cũng là một quyền tự nhiên của con người. Khi trẻ được sinh
ra, ngồi việc khai sinh thì trẻ em cịn phải có quốc tịch để xác lập quyền và nghĩa


20


vụ pháp lý giữa cá nhân và quốc gia mà trẻ em đó mang quốc tịch, tạo cơ sở pháp lý
để trẻ em được bảo hộ bằng pháp luật của quốc gia đó.
- Quyền được chăm sóc, ni dưỡng của trẻ em
Tương ứng với các qui định tại Điều 8, 18, 20, 24 CRC, quyền được chăm sóc,
ni dưỡng của trẻ em được qui định tại Điều 12 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em năm 2004.
Trẻ em là những người chưa phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần. Quyền
được chăm sóc và ni dưỡng của trẻ em là một quyền không thể thiếu nhằm bảo
đảm sự phát triển tồn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức của trẻ.
- Quyền được sống chung với cha mẹ của trẻ em
Quyền này được qui định tại Điều 13 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004, phù hợp với qui định tại Điều 9 CRC.
Gia đình là mơi trường sống tốt nhất dành cho trẻ. Gia đình là cái nơi ni dưỡng,
giáo dục và nâng dỡ suốt đời cho mỗi con người, là mơi trường hình thành và phát
triển nhân cách ccho trẻ, là nơi để trẻ rèn luyện lối sống, đạo đức, tinh thần và kinh
nghiệm sống cho trẻ

12

. Do đó, trẻ em cần có gia đình, mà người bảo hộ theo pháp

luật đương nhiên của trẻ chính là cha mẹ của chúng.
- Quyền được tơn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự của
trẻ em
Tương ứng với các nội dung tại Điều 16, 31, 32, 34, 35, 36, 37 CRC, Điều 14
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 qui định trẻ em đực gia đình,

Nhà nước và xã hội tơn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự.
Con người có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc13. Đó là những quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm của con người đã được
cả cộng đồng thế giới thừa nhận.
- Quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em
Quyền này được qui định tại Điều 15 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004, phù hợp với qui định tại Điều 24 CRC.

12
13

Con hư tại ai?, Nxb Thanh Hóa, 2008, trang 77.
Tun ngơn độc lập của Hoa kì 1776.

21


Trẻ em là người chưa phát triển toàn diện về thể chất cũng như về tinh thần. Do
đó, trẻ em là đối tượng cần phải chăm sóc đặc biệt để phát triển trí tuệ, thể chất. tinh
thần và đạo đức. Theo đó, cha mẹ là người chịu trách nhiệm đầu tiên đối với việc
chăm sóc trẻ.
- Quyền học tập của trẻ em
Quyền này được qui định tại Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004, phù hợp với qui định tại Điều 28, 29 CRC.
Trẻ em là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc, là nhân tố quyết định sự thành công, phát triển và phồn vinh
của nước nhà. Do đó, cần phải bảo đảm quyền được học tập của trẻ em, cũng
chính là góp phần bảo đảm sự phát triển trong tương lai của đất nước.
- Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du

lịch của trẻ em
Quyền này được qui định tại Điều 17 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004, phù hợp với qui định tại Điều 31 CRC.
Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Do đó, trẻ em cần phải được tham
gia vào các hoạt động xã hội để được phát triển toàn diện, bao gồm các hoạt động vui
chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch.
- Quyền được phạt triển năng khiếu của trẻ em
Quyền này được qui định tại Điều 8 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004.
Trẻ em có quyền được phát triển năng khiếu và được khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi để phát triển năng khiếu.
- Quyền sở hữu tài sản của trẻ em
Quyền này được qui định tại Điều 19 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004.
Trẻ em được sở hữu và thừa kế tài sản theo qui định của pháp luật. Tuy nhiên, trẻ
em khơng thể tự mình tham gia vào các quan hệ dân sự mà cha mẹ, người giám hộ
có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của trẻ em, đại diện cho trẻ em trong
các giao dịch dân sự, giữ gìn, quản lý tài sản của trẻ em và giao lại cho trẻ em.

22


×