Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Thu thập chứng cứ của người bào chữa theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chun ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự.
Định hướng nghiên cứu
Mã số 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Võ Thị Kim Oanh
Học viên: Nguyễn Thị Huyền Trang
Lớp: Cao học Luật Hình Sự, Khóa 26

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020



LỜI CAM ĐOAN
Đề tài “Thu thập chứng cứ của người bào chữa theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam” là cơng trình do chính tác giả tìm hiểu, nghiên cứu và xây dựng dưới sự
hướng dẫn của TS. Võ Thị Kim Oanh. Mọi kết quả nghiên cứu của các công trình
nghiên cứu khác được sử dụng trong luận văn này đều được giữ nguyên ý tưởng và
trích dẫn đầy đủ nguồn theo đúng quy định. Nội dung của luận văn khơng sao chép
bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào.
Tác giả xin chịu trách nhiệm hồn tồn về tính trung thực của đề tài
Tác giả

Nguyễn Thị Huyền Trang


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS 2003

: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

BLTTHS 2015

: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

CQ THTT


: cơ quan tiến hành tố tụng

CQĐT

: Cơ quan điều tra

ĐTV

: Điều tra viên

KSV

: Kiểm sát viên

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

THTT

: tiến hành tố tụng

TTHS

: Tố tụng hình sự


VAHS

: Vụ án hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA
NGƯỜI BÀO CHỮA ................................................................................................7
1.1. Khái niệm chung về thu thập chứng cứ của người bào chữa ....................7
1.1.1. Khái niệm thu thập chứng cứ của người bào chữa ...................................7
1.1.2. Đặc điểm thu thập chứng cứ của người bào chữa ..................................10
1.1.3. Ý nghĩa của việc thu thập chứng cứ của người bào chữa .......................11
1.2. Cơ sở của việc quy định về thu thập chứng cứ của người bào chữa .......14
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển quy định về thu thập chứng cứ của
người bào chữa ....................................................................................................16
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 đến trước khi Bộ luật
tố tụng hình sự năm 1988 có hiệu lực thi hành .................................................16

1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2015 ....................................................17
1.4. Quy định của một số nước về thu thập chứng cứ của người bào chữa ..19
1.4.1. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ .........................................................................19
1.4.2. Cộng hòa liên bang Đức .........................................................................21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................25
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
VỀ THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG .......................................................................................................................26
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thu thập chứng cứ
của người bào chữa .............................................................................................26
2.2. Thực tiễn thu thập chứng cứ của người bào chữa ....................................44
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................55
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA ....................................................................................56


3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả thu thập chứng cứ của người bào chữa ......56
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu thập chứng cứ của người
bào chữa ...............................................................................................................59
3.2.1. Giải pháp về pháp luật ............................................................................59
3.2.2. Các giải pháp khác..................................................................................67
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................73
KẾT LUẬN ..............................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chứng cứ đóng một vai trị vơ cùng quan trọng trong việc xác định sự thật

khách quan trong các vụ án hình sự. Nhưng trên thực tế các tài liệu được coi là
chứng cứ trong việc giải quyết vụ án hình sự đều do các cơ quan tiến hành tố tụng
và người tiến hành tố tụng trực tiếp thu thập và đánh giá, còn các tài liệu do người
bào chữa cho bị can, bị cáo cung cấp thì rất ít khi được sử dụng làm chứng cứ trong
việc giải quyết vụ án. Điều này dẫn đến một thực trạng rất nhiều trường hợp người
bào chữa khơng thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình vì lý do
những chứng cứ mà người bào chữa cung cấp không được các CQTHTT, người
THTT xem xét, thẩm định để làm căn cứ tài liệu trong hồ sơ vụ án.
Chính vì vậy, u cầu đặt ra cần phải có cơ chế đảm bảo cho việc thu thập
chứng cứ của người bào chữa trong vụ án hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu của tinh
thần cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay là nâng cao hiệu quả của hoạt động tranh
tụng. Điều này được thể hiện rõ tại Nghi quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ
chính trị về chiến lực cải cách tư pháp đến năm 2020.
“Khi xét xử Toà án phải đảm bảo cho mọi cơng dân bình đẳng trước pháp
luật, thực sự dân chủ khách quan. Việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu
vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng
cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, những người có quyền và lợi ích hợp pháp để ra
những bản án, quyết định đúng pháp luật có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp
luật quy định”
“Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo
đảm tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”1.
Như vậy, nếu chúng ta tạo được sự bình đẳng hơn nữa giữa bên tiến hành tố
tụng và bên tham gia tố tụng trong việc thực hiện quyền đưa ra chứng cứ để tạo
thành đối trọng thì việc giải quyết vụ án có thể nhanh chóng và kịp thời hơn, hạn
chế oan sai trong tố tụng hình sự và vai trị của người bào chữa trong tố tụng mới
Tiểu mục 2.2,mục 2, phần II Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020
1



2
được coi trọng. Nắm được điều này và vận dụng tinh thần của cải cách tư pháp
trong việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2015 chúng ta đã có quy định về việc
người bào chữa được quyền thu thập chứng cứ cũng như quy định các biện pháp mà
người bào chữa được tiến hành để thu thập chứng cứ. Việc sửa đổi này đã thể hiện
một bước tiến vượt bậc trong việc hiện thực hóa tinh thần của nghị quyết về cải
cách tư pháp vào từng quy định cụ thể, từng bước thực hiện mục tiêu xây dựng nền
tư pháp ngày càng dân chủ và tiến bộ.
Tuy nhiên, quy định này vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định như: chưa
có quy định rõ về trình tự thủ tục tiến hành thu thập chứng cứ của người bào chữa,
chưa có biểu mẫu riêng dành cho việc thu thập chứng cứ của người bào chữa; Chưa
quy định về trách nhiệm của các CQTHTT, người THTT khi người bào chữa có yêu
cầu thu thập chứng cứ cũng như trách nhiệm của những cá nhân, cơ quan, tổ chức
khi không cung cấp các tài liệu mà người bào chữa yêu cầu,…Khiến cho người bào
chữa gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện việc thu thập chứng cứ trên thực tế.
Vì vậy, nghiên cứu về thu thập chứng cứ của người bào chữa là một yêu cầu bức
thiết được đặt ra hiện nay để trả lời cho câu hỏi làm sao khiến cho việc thu thập chứng
cứ của người bào chữa được thực hiện một cách có hiệu quả trên thực tế nhằm đáp ứng
được yêu cầu của cải cách tư pháp là nâng cao tính tranh tụng trong hoạt động xét xử
VAHS. Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Thu thập chứng cứ của người bào chữa theo
Luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Để giải quyết vụ án hình sự một cách nhanh chóng, cơng bằng, đúng người
đúng tội địi hỏi chúng ta cần phải thu thập đầy đủ các chứng cứ cũng như đánh giá
và sử dụng các chứng cứ đó một cách đầy đủ, công tâm và đúng pháp luật.
Với lý do đó, việc nghiên cứu về thu thập chứng cứ của người bào chữa cũng
nhận được sự quan tâm nhất định của một số tác giả. Các nghiên cứu này có thể
chia làm ba loại:

- Các sách giáo trình, sách bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự được
sử dụng trong việc đào tạo của các trường luật, các viện nghiên cứu. Những tài liệu
này chủ yếu giải thích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về khái niệm chứng
cứ, các thuộc tính của chứng cứ, các nguồn của chứng cứ và đưa ra những phân tích
sơ bộ về q trình thu thập, đánh giá chứng cứ. Phần lớn là những kiến thức cơ bản
được trích dẫn từ quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;


3
- Các sách chuyên khảo, tham khảo
Các sách viết chuyên về thu thập chứng cứ của người bào chữa gần như
khơng có, chỉ có những cuốn sách viết chung về chứng cứ hoặc chế định bào chữa
nói chung như:
+ Chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Th.s Nguyễn Văn Cừ, NXB
tư pháp, 2005;
+ Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, TS Đỗ Văn Đương, NXB tư
pháp, 2006.
+Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, TS Trần Quang
Tiệp, NXB chính trị quốc gia Hà Nội, 2009;
+Những điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015, TS. Luật sư Phan Trung Hồi, NXB Chính trị quốc gia – sự thật, 2016
Những sách chuyên khảo này chủ yếu giải thích chứng cứ, nguồn chứng cứ
và q trình chứng minh vụ án hình sự, các quy định chung về người bào chữa. Nội
dung nghiên cứu chưa đi sâu vào phân tích, đánh giá quyền thu thập chứng cứ của
người bào chữa cũng như trình tự thủ tục và các biện pháp người bào chữa được
thực hiện để thu thập chứng cứ. Chủ yếu viết theo hướng bao quát tất cả các vấn đề
liên quan đến chứng cứ và người bào chữa.
- Các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành, kỷ yếu hội thảo:
+ Bài viết: Khái niệm chứng cứ trong tố tụng hình sự: Nhìn từ góc độ lịch sử
và luật so sánh, Nguyễn Văn Du, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11, 2005. Bài

viết này khái quát chứng cứ trong lịch sử tư pháp hình sự và khía cạnh pháp lý của
chứng cứ ở dưới góc độ so sánh luật giữa hệ thống pháp luật khác nhau. Có giá trị
tham khảo để tiếp cận đúng xu hướng phát triển hệ thống pháp luật chứng cứ, phù
hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới.
+ Bài viết: Một số ý kiến về chứng cứ trong vụ án hình sự, Nguyễn Văn Bốn,
Tạp chí Kiểm sát, số 17, 2004; Một số vấn đề lý luận về phương pháp thu thập,
kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự, TS Trần Quang Tiệp, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 5, 2007; Về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự,
TS Trần Quang Tiệp, Tạp chí Kiểm sát, số 18&20, 2008; Hoàn thiện các quy định
về thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong tố tụng hình sự, PGS.TS Hoàng


4
Thị Minh Sơn, Tạp chí Luật học, số 7, 2008; Các bài viết chủ yếu đi vào phân tích
q trình thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ nói chung không đi vào nghiên cứu
cụ thể vấn đề thu thập chứng cứ của chủ thể là người bào chữa cũng như chưa đánh
giá được những điểm còn hạn chế trong việc quy định về thu thập chứng cứ của chủ
thể này.
Hiện nay, chưa có một luận văn thạc sỹ nào nghiên cứu chuyên sâu về việc
“thu thập chứng cứ của người bào chữa” theo BLTTHS năm 2015, luận văn này sẽ
đi sâu nghiên cứu các vấn đề về “thu thập chứng cứ của người bào chữa” dựa trên
việc phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận, cũng như thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật liên quan. Đồng thời, cũng đưa ra được những giải pháp nhằm
nâng cao hơn nữa hiệu quả trong việc áp dụng các quy định pháp luật về thu thập
chứng cứ của người bào chữa góp phần quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình
sự đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp
luật nhưng cũng thể hiện được bản chất nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong pháp luật
nói chung và pháp luật hình sự nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về thu thập

chứng cứ của người bào chữa và đi đến đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy
định pháp luật liên quan đến việc thu thập chứng cứ của người bào chữa trong Luật
tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn qua đó góp phần hồn thiện nhận thức của các
CQTHTT, người THTT về vai trò của người bào chữa trong VAHS, trong đó có vai
trị thu thập chứng cứ, để từ đó vận dụng và áp dụng các quy định của pháp luật một
cách đúng đắn nhất, khơng gây khó khăn cho người bào chữa khi thu thập chứng cứ.
Bên cạnh đó, cũng giúp cho người bào chữa nhận thức một cách đầy đủ về các
quyền, các biện pháp mà mình được áp dụng khi thu thập chứng cứ cũng như những
điểm cịn yếu kém, thiếu sót để từ đó khắc phục nó một cách tốt nhất, góp phần
nâng cao hiệu quả của việc thu thập chứng cứ trên thực tiễn.
Đồng thời, luận văn này sẽ giúp cho người đọc nhận thức đầy đủ về các vấn
đề liên quan đến thu thập chứng cứ của người bào chữa. Luận văn có thể là tài liệu
nghiên cứu và ứng dụng cho cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố, người
bào chữa trong việc giải quyết vụ án hình sự, góp phần đảm bảo tính khách quan,
cơng bằng trong việc điều tra, truy tố và xét xử. Đồng thời, cũng có thể làm tài liệu
tham khảo cho các sinh viên luật cũng như những người nghiên cứu pháp luật và


5
những người muốn tìm hiểu về các vấn đề liên quan đến việc thu thập chứng cứ của
người bào chữa.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Bên cạnh của việc nghiên cứu một cách toàn diện các quy định của pháp luật
hiện hành về thu thập chứng cứ của người bào chữa theo quy định tại bộ luật tố tụng
hình sự, tác giả còn tiến hành nghiên cứu, so sánh quy định về thu thập chứng cứ
của người bào chữa qua các thời kì và việc thu thập chứng cứ người bào chữa trong
quy định của một số nước trên thế giới. Đi sâu phân tích về nội dung cũng như hình
thức thu thập chứng cứ của người bào chữa trong vụ án hình sự. Đồng thời, phân
tích, đánh giá vấn đề thực tiễn áp dụng các quy định về thu thập chứng cứ của người
bào chữa. Nhằm tìm ra những điểm hạn chế, bất cập, chỉ ra nguyên nhân của những

hạn chế bất cập và từ đó đưa những giải pháp thiết thực khắc phục một cách hiệu
quả những yếu điểm đó.
Luận văn được trình bày dựa trên quan điểm nhận thức của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, các cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin về nhà nước và pháp luật,
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về hệ thống pháp luật
nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng về thu thập chứng cứ của người
bào chữa trong vụ án hình sự. Việc sử dụng phương pháp này cho phép tác giả nhận
thức rõ hơn về bản chất của những vấn đề cần hoàn thiện liên quan đến thu thập
chứng cứ của người bào chữa.Từ đó, làm nền tảng cho việc nghiên cứu, hoàn thiện
các quy định pháp luật liên quan.
Đồng thời, tác giả cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: Nghiên
cứu lịch sử, tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh để thực hiện nghiên cứu đề tài này.
Các phương pháp này giúp tác giả nghiên cứu một cách thấu đáo, tồn diện hơn, để
tìm ra những điểm chưa hợp lý, đưa ra những giải pháp, đề xuất nhằm hoàn thiện hơn
nữa các quy định của pháp luật về thu thập chứng cứ của người bào chữa.
5. Các vấn đề dự kiến cần giải quyết:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thu thập chứng cứ và người bào chữa
trong VAHS;
- Nghiên cứu nội dung cũng như hình thức, cách thức thu thập chứng cứ của
người bào chữa theo quy định của BLTTHS năm 2015;


6
- Đánh giá những điểm hạn chế về mặt pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng
các quy định của pháp luật về thu thập chứng cứ của người bào chữa;
- Đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy định của BLTTHS cũng như
những giải pháp nâng cao hiệu quả trên thực tiễn về thu thập chứng cứ của người
bào chữa.
6. Kết cấu của luận văn
Bên cạnh Phần mở đầu và kết luận, Luận văn được kết cấu thành 3 chương

như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về thu thập chứng cứ của người bào chữa
Chương 2: Thu thập chứng cứ của người bào chữa theo quy định của luật tố
tụng hình sự năm 2015 và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thu thập chứng cứ của người bào chữa.


7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA
1.1. Khái niệm chung về thu thập chứng cứ của người bào chữa
1.1.1. Khái niệm thu thập chứng cứ của người bào chữa
Trong TTHS chứng cứ đóng vai trò rất quan trọng, mọi hoạt động tố tụng đều
hướng đến việc thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ nhằm xác định sự
thật khách quan của vụ án góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
của nhà nước và hơn nữa là bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhận
thức được tầm quan trọng này BLTTHS Việt Nam qua các thời kỳ cũng đã đưa ra
các khái niệm cụ thể về chứng cứ, giúp cho những cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng cũng như những người tham gia tố tụng có cơ sở pháp lý vững
chắc để xác định những tài liệu được xem là chứng cứ để thu thập, sử dụng trong
q trình giải quyết vụ án.
Theo đó, chứng cứ được hiểu như sau:
“Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay khơng có hành vi phạm
tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc
giải quyết vụ án”
Nguồn chứng cứ bao gồm: “Vật chứng; Lời khai, lời trình bày; Dữ liệu điện
tử; Kết luận giám định, định giá tài sản; Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án; Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế

khác; Các tài liệu, đồ vật khác”2.
Từ khái niệm chứng cứ cho chúng ta thấy thu thập chứng cứ luôn là khâu đầu
tiên và quan trọng nhất của q trình chứng minh VAHS, khơng có q trình thu
thập chứng cứ thì cũng sẽ khơng có đánh giá và sử dụng chứng cứ sau này. Theo từ
điển tiếng việt, thu thập là “góp nhặt, tập hợp lại”3 còn “Thu thập chứng cứ là hoạt
động tố tụng trong đó các chủ thể chứng minh tìm kiếm, phát hiện, thu nhận các
thơng tin, tình tiết, sự kiện để làm căn cứ bảo vệ quyền lợi cho chính mình”4. Trong
Điều 85 BLTTHS năm 2015.
Viện ngơn ngữ học (2005), từ điển tiếng việt, NXB Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học Đà Nẵng, tr.958.
4
Trường Đại học luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Hồng
Đức, tr. 223.
2
3


8
TTHS hoạt động thu thập chứng cứ là một hoạt động mang tính chất pháp lý nhằm
phục vụ cho việc chứng minh, làm sáng tỏ những tình tiết, sự kiện trong quá trình
giải quyết VAHS. Thu thập chứng cứ trong TTHS không chỉ đơn thuần là những
hoạt động riêng lẻ như gom góp, tập hợp lại mà là một chuỗi những hoạt động gồm
“phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ”5. Các hoạt động trong chuỗi
này đều có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Để thu giữ được
chứng cứ trước hết phải phát hiện được chứng cứ, tức là phải tìm ra được những sự
vật, hiện tượng và các đối tượng khác liên quan đến vụ án. Nói cách khác, phát hiện
chứng cứ là q trình tìm tịi, làm rõ các thơng tin phản ánh về vụ phạm tội và
người thực hiện tội phạm được chứa đựng trong các nguồn thực tế bằng các hành vi,
phương tiện phù hợp với pháp luật. Đối tượng của hoạt động phát hiện chứng cứ
chính là những nguồn thực tế mang thông tin chứng cứ bao gồm: những dấu vết, đồ
vật, tài liệu liên quan đến vụ án và những người biết về sự kiện phạm tội như người

làm chứng, người bị hại.
Tiếp theo việc phát hiện chứng cứ là ghi nhận chứng cứ với tính cách là
hoạt động mơ tả, sao chép những đặc tính và dấu hiệu của các đối tượng mang
thông tin chứng cứ đã được phát hiện vào trong các nguồn chứng cứ theo quy định
của pháp luật.
Thu giữ chứng cứ cũng là biện pháp quan trọng để thu thập chứng cứ nhưng
so với ghi nhận chứng cứ thì đây là biện pháp có nội dung khác về bản chất. Thu
giữ chứng cứ chính là việc tách đối tượng nguyên mẫu (dấu vết, đồ vật) mang thông
tin chứng cứ ra khỏi môi trường xung quanh và bảo quản chúng theo quy định của
pháp luật. Bản thân nó khơng phải là q trình sao chép thơng tin hoặc có sự lựa
chọn thơng tin để mơ tả như việc ghi nhận chứng cứ.
Q trình phát hiện, ghi nhận, thu giữ chứng cứ phải gắn liền với việc bảo
quản chứng cứ. Bảo quản chứng cứ là giữ gìn các chứng cứ đã phát hiện, ghi nhận
hoặc thu giữ được bằng các phương pháp khoa học và theo quy định của pháp luật
nhằm bảo vệ giá trị chứng minh sự thật của vụ án. Thực chất bảo quản chứng cứ
chính là bảo vệ các nguồn chứng cứ - các tài liệu, các biên bản đã được thể hiện
trong hồ sơ vụ án, bảo vệ vật chứng. Vì vậy, các tài liệu, biên bản các hoạt động
điều tra đều phải đưa vào hồ sơ vụ án, vật chứng thu giữ được phải niêm phong,
Trần Quang Tiệp (2009), Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.121.
5


9
đóng gói đúng quy định của pháp luật, khơng được làm thay đổi, thêm bớt hoặc mất
nguồn chứng cứ6.
Theo quy định trước đây, chỉ các CQTHTT, người THTT mới có quyền thu
thập chứng cứ nên khái niệm thu thập chứng cứ được hiểu là “Tổng hợp các hành vi
phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ của các cơ quan có thẩm quyền
bằng các biện pháp do Luật TTHS quy định”7

Sau này, chủ thể thu thập chứng cứ được mở rộng theo hướng cho người bào
chữa cũng được quyền thu thập chứng cứ nên khái niệm thu thập chứng cứ cũng
phải được sửa đổi cho phù hợp, theo đó “Thu thập chứng cứ trong VAHS là q
trình phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ do các chủ thể có quyền thu
thập được quy định trong luật TTHS thực hiện bằng các phương pháp, biện pháp và
phương tiện phù hợp với pháp luật”.
Căn cứ theo khái niệm nói trên thì người bào chữa cũng là một chủ thể được
quyền thu thập chứng cứ để làm căn cứ, cơ sở cho việc “gỡ tội” cho bị can, bị cáo.
Người bào chữa “là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý”8 hay “Người bào
chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”9. Theo từ điển bách khoa tồn thư mở wikipedia
thì “Người bào chữa là thuật ngữ chỉ về những người có kiến thức pháp luật và kinh
nghiệm hoạt động tố tụng thay mặt thân chủ tham gia tố tụng trong một vụ án hình
sự để biện hộ, bảo vệ cho thân chủ của mình để chống lại sự buộc tội, truy tố hoặc
một sự tố cáo, giúp làm giảm trách nhiệm hình sự cho thân chủ của họ đồng thời
cũng có thể giúp cơ quan có chức năng làm sáng tỏ các tình tiết vụ án, họ có quyền
tranh tụng với các chủ thể khác trong quá trình xử lý vụ án hình sự”10. Như vậy, để
thực hiện việc bảo vệ tốt nhất cho quyền và lợi ích của thân chủ mình, việc quan
trọng nhất là người bào chữa phải tiến hành thu thập các chứng cứ cần thiết để làm
cơ sở và tiền đề cho việc xây dựng kế hoạch bào chữa của mình. Từ khái niệm thu
thập chứng cứ chung chúng ta có thể đưa ra khái niệm về thu thập chứng cứ của
Đỗ Văn Đương (2011), Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, NXB Chính trị Quốc gia, tr.88-91.
Trường Đại học luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB
Hồng Đức, tr. 223.
8
Trường Đại học luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2013), tlđd (7), tr. 179.
9
Khoản 1, điều 72 BLTTHS năm 2015.

10
Theo />6
7


10
người bào chữa như sau: “Thu thập chứng cứ của người bào chữa là quá trình phát
hiện, ghi nhận, thu thập, bảo quản chứng cứ do người bào chữa thực hiện bằng các
biện pháp được pháp luật cho phép góp phần làm sáng tỏ bản chất vụ án và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”.
1.1.2. Đặc điểm thu thập chứng cứ của người bào chữa
Thu thập chứng cứ của người bào chữa mặc dù cũng mang những đặc điểm
chung của thu thập chứng cứ nhưng cũng có những đặc điểm riêng biệt so với việc
thu thập chứng cứ nói chung, cụ thể:
Thứ nhất, các biện pháp thu thập chứng cứ được thực hiện bởi chủ thể không
mang quyền lực nhà nước;
Chủ thể thu thập chứng cứ là người bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo. Không phải là chủ thể có trách nhiệm chứng minh vụ án hình sự được quy định
trong BLTTHS, khơng mang tính quyền lực nhà nước. Họ chỉ có quyền đề nghị,
khơng có quyền yêu cầu và cũng không được sử dụng các biện pháp cưỡng chế khi
cá nhân, cơ quan, tổ chức không hợp tác. Tuy nhiên, đây lại là chủ thể thu thập có
hiểu biết pháp luật, có kỹ năng trong việc thu thập chứng cứ, là bên “gỡ tội” đối
trọng lại với bên “buộc tội” trong VAHS, tạo ra thế cân bằng và nâng cao hiệu quả
của việc tranh tụng trong vụ án.
Thứ hai, việc thu thập chứng cứ được thực hiện theo đúng biện pháp, trình tự,
thủ tục luật định;
Bất kỳ chủ thể nào khi thu thập chứng cứ cũng đều phải tuân theo các biện
pháp, trình tự thủ tục được quy định trong BLTTHS. Nếu việc thu thập được thực
hiện khơng đúng thì những tài liệu, đồ vật thu thập được đều không được xem là
chứng cứ và không được sử dụng trong quá trình giải quyết vụ án và việc thu thập

chứng cứ của người bào chữa cũng vậy.
Người bào chữa đóng một vai trị rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đặc biệt đối với bị can, bị cáo
đang bị tạm giam không thể tự mình thực hiện việc thu thập chứng cứ để “gỡ tội”
cho mình thì vai trị thu thập chứng cứ của người bào chữa đặc biệt quan trọng.
Trong quá trình thực hiện việc thu thập chứng cứ của mình người bào chữa phải
thực sự cẩn trọng và thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật nếu không cẩn
thận thì các tài liệu, đồ vật được thu thập mặc dù có giá trị chứng minh nhưng lại


11
được thu thập không đúng quy định của pháp luật thì cũng sẽ khơng được sử dụng
làm chứng cứ trong hồ sơ vụ án vì nó khơng đảm bảo đầy đủ các thuộc tính của
chứng cứ là tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp.
Thứ ba, thu thập chứng cứ của người bào chữa trong VAHS được thực hiện
trong suốt quá trình giải quyết vụ án từ khi được chấp thuận đăng ký bào chữa đến
khi kết thúc vụ án.
Việc thu thập chứng cứ của người bào chữa gắn liền với quá trình giải quyết
VAHS. Ngay từ thời điểm bắt đầu được chấp thuận để tham gia vụ án, người bào
chữa đã phải có kế hoạch để tìm tòi, phát hiện và thu thập chứng cứ, bước đầu định
hướng cho quá trình bào chữa của mình và hoạt động này tiếp tục kéo dài trong tất
cả các giai đoạn từ điều tra cho tới truy tố và xét xử mà không bị giới hạn bởi thời
gian thu thập. Người bào chữa có thể tự mình thu thập chứng cứ trong bất cứ thời
gian nào, ngay cả tại phiên tịa miễn là việc thu thập chứng cứ đó được thực hiện
theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định.
Thứ tư, những chứng cứ thu thập chủ yếu là chứng cứ “gỡ tội”.
Trách nhiệm của người bào chữa trước hết là bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo nên những chứng cứ người bào
chữa thu thập và sử dụng phải là những chứng cứ có lợi cho người bị buộc tội và
khơng làm xấu đi tình trạng của người bị buộc tội, như chứng cứ chứng minh sự vô

tội của bị can, bị cáo, những chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can, bị
cáo chưa đến mức nguy hiểm như tài liệu trong hồ sơ thể hiện và các tình tiết giảm
nhẹ TNHS của bị can, bị cáo mà cơ quan điều tra chưa thể hiện trong hồ sơ.
Đây là một đặc điểm quan trọng chứng minh sự khác biệt rõ nét giữa các loại
chứng cứ được thu thập của cơ quan cơ quan tiến hành tố tụng với người bào chữa.
1.1.3. Ý nghĩa của việc thu thập chứng cứ của người bào chữa
Bàn về ý nghĩa của chứng cứ, ông Coulon là Chánh tòa sơ thẩm thẩm quyền
mở rộng Paris Pháp đã khẳng định “Nếu khẳng định một điều gì đó mà khơng đưa
ra được chứng cứ thì có nghĩa là chẳng có gì để mà khẳng định cả” hay “Pháp luật
mà khơng có chứng cứ thì chẳng có nghĩa gì cả nhưng chứng cứ dù khơng có pháp
luật vẫn có tất cả ý nghĩa của nó”11. Từ đó có thể thấy việc thu thập chứng cứ đóng
11

Nhà pháp luật Việt –Pháp (1999), Pháp luật tố tụng dân sự, kỷ yếu hội thảo, tr.27


12
một vai trò rất quan trọng đối với tất cả các chủ thể trong VAHS, nếu khơng có thu
thập chứng cứ thì cũng sẽ khơng có chứng cứ để phục vụ cho việc giải quyết vụ án.
Do đó, việc thu thập chứng cứ của người bào chữa có rất nhiều ý nghĩa.
Thứ nhất, tạo điều kiện cho người bào chữa có “nguyên liệu” để thực hiện
tranh tụng. Tạo được sự bình đẳng giữa bên “buộc tội” và bên “gỡ tội”; Nâng cao
vai trò của người bào chữa trong VAHS.
Việc cho phép bên buộc tội được quyền thu thập chứng cứ, cũng như được
quyền yêu cầu các cơ quan, các nhân, tổ chức cung cấp các chứng cứ để phục vụ
cho việc buộc tội của mình và về cơ bản các chứng cứ do các CQTHTT cung cấp là
những chứng cứ gần như được sử dụng ngay vào quá trình giải quyết vụ án và Tịa
án cũng khơng có sự nghi ngờ đối với những chứng cứ này. Tuy nhiên, đối với bên
gỡ tội hay nói một cách khác là người bào chữa của bị can, bị cáo thì lại khác, chưa
nói đến việc khó khăn trong việc thu thập các chứng cứ do phải thực hiện với tư

cách giống như một cơng dân bình thường, khơng được sự hỗ trợ từ bộ máy nhà
nước thì việc các tài liệu mà người bào chữa thu thập để được sử dụng làm chứng
cứ trong vụ án phải trải qua quá trình thẩm tra, đánh giá của các cơ quan THTT, và
thường bị nghi ngờ về tính chính xác của chứng cứ. Nếu khơng có cơ chế đảm bảo
cho việc thu thập các chứng cứ này thì người bào chữa hồn tồn bị lép vế trước
bên buộc tội tại phiên tịa, do khơng có nguyên liệu phục vụ cho việc tranh tụng.
Việc quy định người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ, cũng như quy định rõ
các hình thức, biện pháp người bào chữa được thực hiện để thu thập chứng cứ là
hồn tồn cần thiết, nó đảm bảo cho bên gỡ tội có các nguyên liệu cần thiết để phục
vụ cho việc tranh tụng và hơn hết là đảm bảo được tính cơng bằng giữa bên buộc tội
và bên gỡ tội, hạn chế được việc tranh luận mang tính hình thức tại phiên tịa.
Thứ hai, đảm bảo tính khách quan của vụ án, hạn chế oan sai;
Như chúng ta đã biết chứng cứ đóng một vai trị vơ cùng quan trọng trong
việc giải quyết vụ án, đó là yếu tố khẳng định một người có phạm tội hay khơng
phạm tội. Thực tế hiện nay việc chứng minh chủ yếu là do các cơ quan THTT tiến
hành và việc thu thập chứng cứ cũng vậy. Tuy nhiên, các cơ quan THTT chủ yếu là
tìm các chứng cứ “buộc tội” rất ít tìm những chứng cứ “gỡ tội”, chính vì yếu tố đó
mà rất dễ dẫn đến những sai lầm, chủ quan duy ý chí gây ra những trường hợp oan
sai. Nếu có một bên đối trọng tìm những chứng cứ để “gỡ tội” sẽ khiến cho các cơ


13
quan THTT, người THTT thận trọng hơn trong việc thu thập và đánh giá các chứng
cứ thì sẽ phần nào hạn chế được oan sai trong quá trình giải quyết VAHS.
Thứ ba, góp phần đảm bảo quyền con người của những người tham gia tố
tụng, đặc biệt quyền con người của người bị buộc tội;
Trên thế giới hiện nay vấn đề quyền con người đang nhận được rất nhiều sự
quan tâm của dư luận cũng như các quốc gia. Việt Nam cũng đã tham ra rất nhiều
công ước quốc tế liên quan đến quyền con người, trong đó có vấn đề liên quan đến
quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Pháp luật Việt Nam cũng đã ghi nhận

vấn đề này như một nguyên tắc và xác định “Người bị buộc tội được coi là khơng
có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định
và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật; Khi không đủ và không
thể là sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy
định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị
buộc tội khơng có tội”12. Việc người bào chữa thu thập chứng cứ là một bước để
bảo vệ quyền lợi của người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Vì các chứng cứ mà người
bào chữa thu thập thường là các chứng cứ “gỡ tội” và càng thu thập được nhiều
chứng cứ gỡ tội đến đâu thì khả năng bị can, bị cáo được tun vơ tội nhiều đến
đó và việc đã ghi nhận đây là quyền cũng như ghi nhận các biện pháp người bào
chữa được thực hiện để thu thập chứng cứ thì các tài liệu của người bào chữa cung
cấp sẽ dễ dàng được chấp nhận làm chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết vụ án
nếu các tài liệu đó đáp ứng đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ. Từ đó, góp phần
bảo vệ quyền con người mà cụ thể ở đây là quyền của người bị tình nghi, bị can,
bị cáo một cách hiệu quả.
Thứ tư, nâng cao được tính tranh tụng tại phiên tòa, đáp ứng yêu cầu của cải
cách tư pháp.
Người bào chữa muốn tranh tụng tốt phải có nguyên liệu để tranh tụng, nếu
như trước đây người bào chữa chủ yếu sử dụng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án để tranh tụng, chỉ được thu thập các tài liệu, đồ vật thì bây giờ người bào chữa
đã được thu thập những chứng cứ, được sử dụng những biện pháp mà pháp luật cho
phép để thu thập chứng cứ, xây dựng được hệ thống tài liệu, chứng cứ của riêng
mình để sử dụng trong quá trình tranh tụng mà khơng cịn phụ thuộc q nhiều vào
12

Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.


14
chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Khiến cho q trình tranh tụng tại tịa

sẽ diễn ra một cách dân chủ, bình đẳng và thực chất hơn so với hiện nay;
1.2. Cơ sở của việc quy định về thu thập chứng cứ của người bào chữa
Cơ sở của việc quy định về thu thập chứng cứ của người bào chữa bắt nguồn
từ vệc đảm bảo thực hiện quyền con người, cũng như thực hiện tinh thần của cải
cách tư pháp. Hiện nay, quyền con người là một trong những vấn đề quốc tế quan
tâm và bảo vệ. Trong mỗi quốc gia, quyền con người lại có những giới hạn và được
đảm bảo theo những cách khác nhau. Ở nước ta hiện nay đã và đang hoàn thiện các
quy định về quyền con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là
trong lĩnh vực TTHS. Việc quy định các quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo cũng như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và người bào chữa
cho những đối tượng này được đặc biệt quan tâm.
Hiến pháp năm 2013 một lần nữa khẳng định các quyền cơ bản của người bị
buộc tội, trong đó có quyền được tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa
(khoản 4, điều 31). Ngoài ra lần đầu tiên Hiến pháp ghi nhận “Tranh tụng trong xét
xử được đảm bảo”13. Để quyền bào chữa được phát huy vai trò của nó và tranh tụng
được đảm bảo thì các chủ thể trong TTHS cần có cơ hội thực hiện hoạt động chứng
minh bình đẳng trong quá trình giải quyết VAHS trong đó đặc biệt quan trọng là
việc thu thập chứng cứ. Yêu cầu này được đảm bảo trước hết bởi hệ thống các quy
định của BLTTHS về chứng cứ và thu thập chứng cứ. Do đó, việc quy định về thu
thập chứng cứ của người bào chữa là cần thiết nhằm thực hiện đúng tinh thần của
Hiến pháp năm 2013 là tăng cường tính tranh tụng và đảm bảo quyền bào chữa của
người bị buộc tội.
Cải cách tư pháp là một trong những định hướng được Đảng và Nhà nước đặt
ra trong quá trình xây dựng đất nước và được thể hiện cụ thể trong Nghị quyết 49NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lực cải cách tư pháp đến năm
2020. Một trong những tinh thần của cải cách tư pháp là “nâng cao hiệu quả của
hoạt động tranh tụng”
“Khi xét xử Toà án phải đảm bảo cho mọi cơng dân bình đẳng trước pháp
luật, thực sự dân chủ khách quan. Việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu
vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng
13


Khoản 5, điều 103 Hiến pháp năm 2013.


15
cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, những người có quyền và lợi ích hợp pháp để ra
những bản án, quyết định đúng pháp luật có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp
luật quy định”
“Đổi mới việc tổ chức phiên tịa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo
đảm tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”14
Một trong những biện pháp đảm bảo tính hiệu quả của tranh tụng là phải đảm
bảo cho các chủ thể thực hiện quyền tranh tụng bình đẳng với nhau về tất cả các
khía cạnh, trong đó có việc thu thập chứng cứ. BLTTHS 2003 chỉ có phép người
bào chữa được quyền được quyền thu thập tài liệu, đồ vật, khơng có quy định cụ thể
về quyền được thu thập chứng cứ của người bào chữa cũng như trình tự, thủ tục thu
thập chứng cứ của người bảo chữa khiến cho người bào chữa không biết phải sử
dụng phương pháp nào để thu thập chứng cứ và giá trị pháp lý của tài liệu, đồ vật do
người bào thu thập khơng cao, thậm chí khơng được cơ quan tiến hành tố tụng chấp
nhận; bởi vì luật quy định chứng cứ là những gì có thật và phải được thu thập, bảo
quản theo trình tự luật định. Do đó, việc ghi nhận rõ về quyền được thu thập chứng
cứ của người bào chữa cũng như các biện pháp thu thập chứng cứ của người bào
chữa là điều cần thiết nhằm đáp ứng đòi hỏi của cải cách tư pháp liên quan đến việc
nâng cao tính tranh tụng trong các vụ án, đặc biệt là VAHS.
Cuối cùng, việc quy định thu thập chứng cứ của người bào chữa cịn được hình
thành dựa trên cơ sở là các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS như: Bảo đảm pháp chế
xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự; tơn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân; bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, suy đốn
vơ tội; xác định sự thật vụ án; bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp phá của bị hại, đương sự; tranh tụng trong xét xử được đảm bảo.
Thực tiễn giải quyết VAHS thời gian qua cho thấy những người tham gia tố
tụng nói chung và người bào chữa nói riêng thường gặp nhiều khó khăn khi thực hiện
quyền chứng minh mà một phần nguyên nhân là pháp luật TTHS chưa có quy định
đảm bảo cho người tham gia tố tụng được thu thập chứng cứ một cách bình đẳng,
cũng như khơng quy định cụ thể người bào chữa được sử dụng những biện pháp nào
Tiểu mục 2.2,mục 2, phần II Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020.
14


16
để tiến hành thu thập chứng cứ và trình tự, thủ tục thu thập những chứng cứ này như
thế nào. Những người tham gia tố tụng chủ yếu bảo vệ quyền lợi của mình qua hệ
thống chứng cứ do CQTHTT thu thập được, sử dụng chứng cứ buộc tội để gỡ tội dẫn
đến hiệu quả không cao. Mức độ chấp nhận đề nghị, yêu cầu từ phía người bị buộc
tội, người bào chữa trong quá trình thu thập, sử dụng các chứng cứ nhìn chung cịn
thấp, thiếu một cơ chế đảm bảo, hỗ trợ cần thiết. Những quy định về trình tự, thủ tục
cũng như các biện pháp thu thập chứng cứ của người bào chữa cịn chưa hồn thiện,
có nhiều thiếu sót khiến cho các cơ quan THTT, người THTT xem thường các tài
liệu, chứng cứ mà người bào chữa cung cấp, không được đưa vào xem xét, đánh giá
và sử dụng trong quá trình giải quyết vụ án. Bên cạnh đó, do pháp luật khơng có quy
định cụ thể nên một số CQTHTT, người THTT cịn gây khó dễ cho người bào chữa
khi họ thực hiện việc thu thập chứng cứ như: gây khó khăn trong việc đăng ký bào
chữa, gặp, hỏi người bị buộc tội, tiếp cận hồ sơ vụ án, không thu thập chứng cứ khi
được người bào chữa yêu cầu...Bên cạnh đó, các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu
giữ chứng cứ cũng không hợp tác khi người bào chữa có đề nghị cung cấp chứng cứ,
do pháp luật không quy định rõ ràng cho phép người bào chữa được quyền đề nghị
đối với họ. Do đó, việc quy định rõ về trình tự, thủ tục và các biện pháp thu thập
chứng cứ của người bào chữa là cần thiết nhằm đảm bảo cho việc giải quyết VAHS

được khách quan, công bằng, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển quy định về thu thập chứng cứ của
người bào chữa
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 đến trước khi Bộ
luật tố tụng hình sự năm 1988 có hiệu lực thi hành
Năm 1945 Cách mạng Tháng Tám thành công đã chấm dứt sự tồn tại của chế
độ thực dân nữa phong kiến ở Việt Nam, lập nên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa. Ngay sau khi thành lập, bên cạnh việc kiện tồn chính quyền cịn non trẻ, Nhà
nước đã chú ý đến việc xây dựng, củng cố hệ thống pháp luật nói chung và pháp
luật TTHS nói riêng. Mặc dù chưa có quy định về việc thu thập chứng cứ của người
bào chữa nhưng đã ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo.
Ngày 13/09/1945, Chủ tịch lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký ban
hành sắc lệnh số 33C về việc thành lập Tòa án quân sự ở một số tỉnh thuộc Bắc bộ,
Trung bộ và Nam bộ. Tại điều V Sắc lệnh đã quy định về quyền bào chữa cho bị
cáo “Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bênh vực cho”.


17
Tiếp đó, tại sắc lệnh số 46-SL ngày 10/10/1945 về việc quy định tổ chức các
đoàn thể luật sư ghi nhận “Các luật sư có quyền bào chữa ở tất cả các Tòa án hàng
tỉnh trở lên và trước các Tòa án quân sự”15; Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về cách
tổ chức các tòa án và ngạch thẩm phán quy định về bào chữa chỉ định “Trong việc đại
hình, nếu trước Tịa Thượng thẩm một bị can khơng có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ
cử một luật sư để bào chữa cho hắn”16 và phạm vi biện hộ của luật sư “các luật sư có
quyền biện hộ trước tất cả các tòa án trừ những tòa sơ cấp”17; Như vậy, có thể thấy,
ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời pháp luật Việt Nam đã ghi nhận
quyền bào chữa cũng như nhờ người khác bào chữa của bị can, bị cáo. Tuy nhiên
phạm vi quyền bào chữa ở thời kỳ này tương đối hẹp, chỉ quy định một cách chung
chung là được quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa tại phiên tòa. Các quy
định về thu thập chứng cứ của người bào chữa gần như khơng có quy định.

1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2015
Năm 1986 Nhà nước ta thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Để tạo hành
lang pháp lý phục vụ công cuộc đổi mới, nhiều văn bản pháp luật được Nhà nước cho
xây dựng và ban hành. Trong đó có BLTTHS năm 1988, trong bộ luật này lần đầu
tiên khái niệm chứng cứ được ghi nhận “ Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập
theo trình tự do Bộ luật này quy định mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án
dùng làm căn cứ để xác định có hay khơng có hành vi phạm tội, người thực hiện hành
vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ
án”18. Quy định này đã làm nền tảng vững chắc cho các CQTHTT, người THTT và
người tham gia tố tụng xác định được những tài liệu, vật chứng nào được xem là
chứng cứ để phục vụ cho giải quyết vụ án để định hướng thu thập và đánh giá chứng
cứ một cách chính xác. Cùng với đó, BLTTHS năm 1988 cũng dành một điều luật
riêng để quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, trong đó ghi nhận
“Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; đưa ra chứng cứ và những yêu
cầu; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; được đọc hồ sơ vụ án và ghi chép những
điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra; có quyền tham gia xét hỏi và tranh luận tại
phiên toà; khiếu nại các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, kháng cáo bản án
Điều thứ 2 Sắc lệnh 46-SL ngày 10/10/1945 về việc quy định tổ chức các đoàn thể luật sư.
Điều thứ 44, Sắc lệnh 13 ngày ngày 24/01/1946 về cách tổ chức các tòa án và ngạch thẩm phán.
17
Điều thứ 46, Sắc lệnh 13 ngày ngày 24/01/1946 về cách tổ chức các tòa án và ngạch thẩm phán.
18
Khoản 1, điều 48 BLTTHS năm 1988.
15
16


18
và quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược

điểm về thể chất hoặc tâm thần, quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 37 Bộ luật này”19
và “Người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm
sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vơ tội, những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm của bị can, bị cáo; giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ”20. Quy định này mặc dù khơng có ghi nhận rõ cho phép người
bào chữa được quyền thu thập chứng cứ cũng như các biện pháp thu thập chứng cứ
mà người bào chữa được sử dụng nhưng cũng đã ghi nhận người bào chữa sử dụng
mọi biện pháp để bảo vệ cho bị cáo và được đưa ra chứng cứ, yêu cầu cũng như được
tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để nắm bắt được những vấn đề trọng yếu và
lên phương án bảo vệ cho bị can, bị cáo một cách tốt nhất. Tuy nhiên, do cách quy
định chung chung không rõ ràng như vậy khiến cho người bào chữa còn nhiều khó
khăn khi thu thập các tài liệu, chứng cứ cần thiết phục vụ cho việc bảo vệ quyền và
lợi ích của thân chủ cũng như các CQHTT, người THTT còn gây khó khăn cho người
bào chữa trong việc thu thập chứng cứ.
Đến BLTTHS năm 2003 quyền của người bào chữa được mở rộng hơn, trực
tiếp ghi nhận người bào chữa có quyền “Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan
đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những
người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo nếu khơng thuộc bí mật nhà nước, bí mật cơng tác” và “đưa ra tài liệu,
đồ vật” đồng thời, quy định chi tiết và bổ sung một số biện pháp mà người bào chữa
được quyền sử dụng để thu thập tài liệu, đồ vật phục vụ cho việc giải quyết vụ án
của người bào chữa như “Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung
bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt
trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự
tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào
chữa”; “Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị
can để có mặt khi hỏi cung bị can”; “Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong
hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của
pháp luật”21. Với bộ luật này quyền về việc thu thập và đưa ra tài liệu, đồ vật, tình
tiết liên quan đến vụ án đã được ghi nhận cụ thể, tạo cơ sở pháp lý cho người bào

Khoản 2, điều 36 BLTTHS năm 1988
Khoản 3, điều 36 BLTTHS năm 1988
21
Điều 58, BLTTHS năm 2003
19
20


19
chữa thực hiện việc thu thập các tài liệu, đồ vật cần thiết cho việc giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, việc thu thập tài liệu đồ vật của họ cũng chỉ được giới hạn đối với các
chủ thể là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này
hoặc từ các cơ quan tổ chức khác. Khơng quy định rõ về trình tự, thủ tục cũng như
các biện pháp cụ thể người bào chữa được sử dụng để thu thập các tài liệu, đồ vật
phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án. Việc quy định nửa vời như vậy khiến cho
người bào chữa gặp rất nhiều khó khăn trong q trình thu thập chứng cứ và hiệu
quả của việc thu thập, đưa các tài liệu và đồ vật của người bào chữa không cao. Như
vậy chúng ta có thể thấy trước khi BLTTHS năm 2015 được ban hành thì hồn tồn
khơng có quy định về quyền được thu thập chứng cứ của người bào chữa cũng như
khơng có các quy định rõ ràng về các hình thức thu thập chứng cứ của người bào
chữa. Tuy nhiên, việc quy định rõ ràng và mở rộng hơn về việc thu thập tài liệu, đồ
vật của người bào chữa chứng tỏ các CQTHTT đã có sự nhìn nhận, đánh giá cao
hơn về vai trò của người bào chữa trong VAHS. Tạo tiền đề thuận lợi cho việc quy
định về thu thập chứng cứ của người bào chữa sau này.
1.4. Quy định của một số nước về thu thập chứng cứ của người bào chữa
1.4.1. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Pháp luật liên bang Hoa Kỳ quy định rất chặt chẽ về các chứng cứ có thể
được sử dụng tại phiên tòa xét xử. Theo Quy tắc về Chứng cứ của Liên bang, chỉ
được coi là chứng cứ nếu tại phiên xét xử được các bên đưa ra, đối chất và được
Tịa án chấp nhận. Trong đó, có quy định không sử dụng các chứng cứ gián tiếp,

chứng cứ nhằm kích động, bơi xấu bị cáo, đương sự hay người làm chứng, hoặc
chứng cứ nhằm đánh vào tình cảm của bồi thẩm đoàn, các chứng cứ được thu thập
vi phạm thủ tục tố tụng (khám nhà chưa có lệnh, xét hỏi khi chưa thông báo
quyền…). Sở dĩ quy định chặt chẽ như vậy là bởi người thực tế đưa ra phán quyết
định tội là bồi thẩm đoàn, những người khơng có kiến thức pháp luật và cũng khơng
có nghiệp vụ xét xử, trong khi luật sư và công tố viên là những người chun
nghiệp, ln tìm cách chi phối bồi thẩm đoàn. Các quy định chặt chẽ về chứng cứ sẽ
cung cấp cho bồi thẩm đoàn những chứng cứ "sạch" để có thể căn cứ vào đó đưa ra
phán quyết định tội một cách chính xác.
Luật sư khơng có quyền tham gia vào giai đoạn điều tra, sự tham gia của họ
chỉ bắt đầu từ giai đoạn bắt giữ bằng quyết định phê chuẩn lệnh bắt của tòa án. Sự
có mặt của họ là bắt buộc trong mọi giai đoạn xét xử tại tòa án. Ở giai đoạn tiền


×