Tải bản đầy đủ (.pdf) (238 trang)

Xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (42.85 MB, 238 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THANH HƢƠNG

XÁC ĐỊNH TUỔI CỦA
NGƢỜI BỊ BUỘC TỘI, NGƢỜI BỊ HẠI DƢỚI 18 TUỔI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

XÁC ĐỊNH TUỔI CỦA
NGƢỜI BỊ BUỘC TỘI, NGƢỜI BỊ HẠI DƢỚI 18 TUỔI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng ứng dụng
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn: TS. Lê Nguyên Thanh
Học viên: Nguyễn Thị Thanh Hƣơng
Lớp: Cao học Luật khóa 2 Sóc Trăng


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan luận văn này hồn tồn do tơi thực hiện. Các đoạn trích dẫn
và số liệu sử dụng trong luận văn này là trung thực.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

năm 2020

Tác giả

Nguyễn Thị Thanh Hƣơng


LỜI CÁM ƠN
Để hồn thành luận văn này tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các quý
Thầy, Cô của trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp tôi trang bị kiến
thức, tạo môi trường thuận lợi nhất trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Với lịng kính trọng và biết ơn, tơi xin bày tỏ lời cám ơn sâu sắc tới TS. Lê
Ngun Thanh đã tận tình, chỉ dẫn cho tơi trong suốt thời gian thực hiện luận văn này.
Tôi gửi lời tri ân sâu sắc đến Quý lãnh đạo và các đồng nghiệp công tác tại:
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang; Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Sóc Trăng; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu; Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Hậu Giang, đặc biệt là Lãnh đạo và đồng nghiệp Viện kiểm sát nhân dân huyện
Châu Thành, tỉnh Hậu Giang đã hỗ trợ, giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập, làm
việc và hoàn thiện luận văn này.
Do hiểu biết hạn chế, thời gian nghiên cứu có giới hạn, nên luận văn sẽ

khơng tránh khỏi những thiếu sót, người viết mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của các Nhà khoa học, Thầy giáo, Cô giáo và các bạn đồng nghiệp để luận văn được
hoàn thiện hơn.


DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS năm 2003

Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003

BLTTHS năm 2015

Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015

Cơ quan CSĐT

Cơ quan cảnh sát điều tra

TAND

Tòa án nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân

Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTCTANDTC- BCA-BTP-BLĐTBXH, ngày 12 tháng
7 năm 2011 hướng dẫn thi hành một số quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự đối với người tham gia
tố tụng là người chưa thành niên
Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTCTANDTC- BCA-BTP-BLĐTBXH, ngày 21 tháng
12 năm 2018 về phối hợp thực hiện một số quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng
đối với người dưới 18 tuổi

Thông tư liên tịch 01/2011

Thông tư liên tịch 06/2018


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1. XÁC ĐỊNH TUỔI CỦA NGƢỜI BỊ BUỘC TỘI, NGƢỜI BỊ HẠI
DƢỚI 18 TUỔI TRONG TRƢỜNG HỢP CÓ CĂN CỨ VÀ TRƢỜNG HỢP
CẦN BỔ SUNG TÀI LIỆU ĐỂ CHỨNG MINH THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ .................................................................................. 10
1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về xác định tuổi của ngƣời bị
buộc tội, bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi trong trƣờng hợp có căn cứ và trƣờng
hợp cần bổ sung tài liệu để chứng minh ........................................................... 10
1.1.1. Khái niệm người bị buộc tội, bị hại và cách xác định tuổi ............................. 10
1.1.2. Quy định của pháp luật về thủ tục đăng ký, thủ tục cấp các giấy tờ hộ tịch
dùng làm căn cứ xác định tuổi ................................................................................ 11
1.1.3. Xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi theo quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự trong trường hợp có căn cứ ......................................... 13
1.1.4. Xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi trong trường
hợp cần bổ sung tài liệu để chứng minh, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 14


1.2. Thực trạng xác định tuổi của ngƣời bị buộc tội, bị hại là ngƣời dƣới 18
tuổi trong trƣờng hợp có căn cứ và trƣờng hợp cần bổ sung tài liệu để
chứng minh theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; nguyên nhân của
thực trạng ............................................................................................................ 17
1.2.1. Thực trạng xác định tuổi của người bị buộc tội, bị hại là người dưới 18 tuổi
trong trường hợp có căn cứ và trường hợp cần bổ sung tài liệu để chứng minh ...... 17
1.2.2. Nguyên nhân của thực trạng xác định tuổi người bị buộc tội, người bị hại dưới
18 tuổi trong trường hợp có căn cứ xác định tuổi và trường hợp cần bổ sung tài liệu
để chứng minh ........................................................................................................ 24

1.3. Các giải pháp hoàn thiện quy định xác định tuổi của ngƣời bị buộc tội,
ngƣời bị hại dƣới 18 tuổi trong trƣờng hợp có căn cứ và trƣờng hợp cần bổ
sung tài liệu để chứng minh ............................................................................... 27
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................ 29


CHƢƠNG 2. XÁC ĐỊNH TUỔI CỦA NGƢỜI BỊ BUỘC TỘI, NGƢỜI BỊ HẠI
DƢỚI 18 TUỔI, TRONG TRƢỜNG HỢP KHƠNG CĨ CĂN CỨ XÁC ĐỊNH
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................................ 31
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về việc xác định tuổi của ngƣời
bị buộc tội, ngƣời bị hại dƣới 18 tuổi trong trƣờng hợp khơng có căn cứ để
xác định ................................................................................................................ 31
2.1.1. Các trường hợp khơng có căn cứ để xác định tuổi của người bị buộc tội, người
bị hại dưới 18 tuổi theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự .............................. 31
2.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trưng cầu giám định tuổi ............. 34

2.2. Thực trạng xác định tuổi của ngƣời bị buộc tội, ngƣời bị hại dƣới 18 tuổi
trong trƣờng hợp khơng có căn cứ xác định theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự và giải pháp ................................................................................... 35

2.2.1. Thực trạng xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi trong
trường hợp khơng có căn cứ xác định ..................................................................... 35
2.2.2. Giải pháp hoàn thiện quy định xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị
hại dưới 18 tuổi khi khơng có căn cứ xác định ........................................................ 40

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................ 42
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Người dưới 18 tuổi hay người chưa thành niên, chưa phát triển đầy đủ về thể
chất, trí tuệ, đặc biệt đây là nhóm đối tượng thiếu kinh nghiệm sống, chưa có khả
năng đánh giá đúng đắn tính chất của sự việc nhất là đối với những hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Theo quy định tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được
Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 và Việt Nam phê chuẩn
ngày 20/02/1990 quy định “Trong phạm vi Cơng ước này, trẻ em có nghĩa là người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành
niên sớm hơn”. Tại Việt Nam, tuổi của người chưa thành niên được quy định thống
nhất trong tất cả các Luật là dưới 18 tuổi1, bên cạnh đó, Bộ luật hình sự cũng quy
định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự để xử lý các hành vi phạm tội do người dưới
18 tuổi thực hiện2. Do đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi, việc xử lý đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội do người dưới 18 tuổi thực hiện, nhằm mục đích giáo
dục, cải tạo để họ có điều kiện trở lại hịa nhập với cuộc sống mà khơng nhằm mục
đích trừng phạt.
Theo báo cáo của các ngành tư pháp như: Công an, Viện Kiểm Sát, Tịa án
trong những năm gần đây đều thể hiện tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi
thực hiện có chiều hướng gia tăng và có tính chất nguy hiểm, phức tạp, mới đây

ngày 18/9/2017, tại thành phố Hồ Chí Minh, hội thảo “nâng cao công tác của lực
lượng quản lý hành chính về trật tự xã hội trong phịng ngừa trẻ em và người chưa
thành niên làm trái pháp luật tại cộng đồng dân cư” đã công bố số liệu về trẻ em
và người chưa thành niên làm trái pháp luật như sau: “... ghi nhận nửa đầu năm
2017, cả nước xảy ra 2.258 vụ vi phạm pháp luật do 3.340 trẻ em và người chưa
thành niên gây ra. Về tội danh nổi lên như giết người 36 vụ, 63 đối tượng; cướp tài
sản 59 vụ, 103 đối tượng; cố ý gây thương tích 302 vụ, 574 đối tượng; trộm cắp tài
sản 896 vụ, 1.200 đối tượng…”3; Riêng tại địa bàn tỉnh Hậu Giang, theo thống kê
của Phòng cảnh sát hình sự, cơng an tỉnh Hậu Giang về tình hình trẻ em bị xâm
hại năm 2016: 28 vụ; năm 2017: 28 vụ; năm 2018: 23 vụ, trong đó nhóm tội về
Điều 21 Bộ luật dân sự 2015 quy định: người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi.
Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
3
Lê Bình, Trẻ em, người chưa thành niên phạm tội vượt quá giới hạn độ tuổi, />19/02/2019.
1
2


2
xâm hại tình dục trẻ em chiếm tỷ lệ trên 92% bao gồm các tội Hiếp dâm trẻ em,
giao cấu với trẻ em, dâm ô với trẻ em. Đối với tình hình người chưa thành niên vi
phạm pháp luật, theo thống kê của Phịng cảnh sát hình sự, cơng an tỉnh Hậu
Giang thì năm 2016 có 45 đối tượng (nam 39, nữ 6), năm 2017 có 16 đối tượng
(nam), năm 2018 có 25 đối tượng (nam 23, nữ 02), tập trung ở nhóm độ tuổi từ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi4.
Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang, số người
dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố năm 2016: 42 (nam 38, nữ 04), năm 2017: 21
(nam 20, nữ 01); năm 2018: 26 (nam 26, nữ 00); Tại địa bàn tỉnh Sóc Trăng, theo
số liệu thống kê của VKSND tỉnh, số người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố năm
2016: 31 (nam: 31, nữ: 00); năm 2017: 38 (nam: 37, nữ: 01); năm 2018: 23 (nam:

22, nữ: 01); Tại địa bàn tỉnh Bạc Liêu, theo số liệu thống kê của VKSND tỉnh, số
người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố năm 2016: 26 (nam: 26, nữ: 00); năm 2017:
32 (nam: 31, nữ: 01); năm 2018: 26 (nam: 25, nữ: 01); cũng theo số liệu thống kê
của VKSND các tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu từ năm 2016 đến 2018, độ
tuổi của người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố tập trung chủ yếu ở độ tuổi đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi5.
Bên cạnh thực trạng người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật như trên, hiện
nay người dưới 18 tuổi cũng là đối tượng xâm hại của nhiều loại tội phạm. Trong
6 tháng đầu năm 2017, theo số liệu của Bộ Cơng an, trên phạm vi tồn quốc xảy
ra hơn 800 vụ xâm hại trẻ em và trong số 1.000 vụ xâm hại tình dục, thì số trẻ
em gái ở độ tuổi 12-15 chiếm tới 57,46%, số trẻ em dưới 6 tuổi bị xâm hại chiếm
tới 13,2%6
Trước tình hình tội phạm liên quan đến người dưới 18 tuổi như hiện nay,
ngoài các giải pháp được các cơ quan chức năng triển khai thực hiện nhằm ngăn
chặn tội phạm, đảm bảo môi trường lành mạnh để trẻ em và người dưới 18 tuổi
được chăm sóc, giáo dục và bảo vệ tốt hơn, thì cũng cần phải đặt vấn đề xử lý đối
với những vụ án mà người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng với tư cách là người bị
buộc tội, người bị hại. Qua thực tiễn công tác tại địa phương trong thời gian qua,

4

Phụ lục 1 và Phụ lục 2
Phụ lục 3
6
Trà My, 800 vụ xâm hại trẻ em, chỉ 10 vụ được xét xử, 20/02/2019.
5


3
khi giải quyết các vụ án có liên quan đến người dưới 18 tuổi, thì vấn đề xác định độ

tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là một trong những nội dung thường gặp
khó khăn, vướng mắc cụ thể như: xác định tội phạm và người phạm tội; mức hình
phạt, cũng như chính sách hình sự được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án;
nguyên tắc tố tụng hình sự nào được lựa chọn ưu tiên hàng đầu khi trong vụ án mà
cả người bị buộc tội và người bị hại đều là người dưới 18 tuổi mà tuổi của cả hai
đều thiếu căn cứ để xác định.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, cũng như qua ba lần sửa đổi bổ sung đều
không quy định cụ thể về cách xác định tuổi của người dưới 18 tuổi, cho đến Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003, vấn đề này vẫn chưa được nhà làm luật đề cập,
trong khi thực tiễn tố tụng gặp phải nhiều khó khăn, để giải quyết vấn đề này,
Thơng tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH
hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đối với người
tham gia tố tụng là người chưa thành niên, trong đó hướng dẫn nguyên tắc xác
định tuổi của bị can, bị cáo, bị hại là người chưa thành niên. Hướng dẫn này mặc
dù chỉ là văn bản dưới luật nhưng đã kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các Cơ quan
tiến hành tố tụng trong việc xác định tuổi của người chưa thành niên. Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 đã dành riêng Chương XXVIII quy định về thủ tục tố tụng
đối với người chưa thành niên, trong đó Điều 417 quy định về xác định tuổi của
người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi, đồng thời quy định việc xác
định tuổi của người dưới 18 tuổi do Cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện theo quy
định của pháp luật. Vấn đề thực tiễn đặt ra là với quy định tại Điều 417 BLTTHS
năm 2015 và hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSTCTANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH thì việc xác định tuổi của người bị buộc tội,
người bị hại là người dưới 18 tuổi vẫn còn vấn đề vướng mắc cần được nghiên
cứu, tìm ra giải pháp để việc giải quyết vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18
tuổi đảm bảo tính cơng bằng, pháp chế và bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp
pháp của người dưới 18 tuổi, vì vậy, học viên đã lựa chọn đề tài: “Xác định tuổi
của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi theo luật Tố tụng hình sự Việt
Nam” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các đề tài nghiên cứu xoay quanh phương pháp mà các Cơ quan tiến hành tố

tụng sử dụng để xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18


4
tuổi, có giá trị tham khảo về lý luận và thực tiễn như:
- Bài viết: Người bị hại trong tố tụng hình sự, của tác giả Lê Tiến Châu – ths.
Luật học, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh7. Trong bài viết này tác giả đề cập đến việc
xác định người bị hại trong tố tụng hình sự gồm những đối tượng nào qua đó kiến
nghị các giải pháp nhằm góp phần đảm bảo quyền của người bị hại.
- Bài viết: Xác định độ tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới
18 tuổi, tác giả Thu Hiền8, bài viết giới thiệu những quy định của Điều 417 Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015, đồng thời phân tích, đánh giá so sánh và đưa ra quan
điểm của tác giả về những điểm phù hợp cũng như những điểm chưa phù hợp của
quy định này so với quy định về xác định tuổi người chưa thành niên tại Thơng tư
liên tịch số 01/2011.
- Bài viết: Tìm hiểu về việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại
là người dưới 18 tuổi theo quy định của BLTTHS năm 2015, tác giả Trần Xuân
Thiên An9, bài viết giới thiệu quy định của Điều 417 BLTTHS năm 2015, đồng thời
so sánh với quy định về cách xác định tuổi theo quy định tại Thông tư liên tịch số
01/2011, qua đó tác giả nêu lên những bất cập trong việc xác định tuổi của người bị
buộc tội, người bị hại theo quy định của BLTTHS năm 2015 và đề xuất sửa đổi quy
định tại Điều 417 BLTTHS năm 2015.
- Bài viết: Vấn đề xác định tuổi của người bị hại là người dưới 18 tuổi theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tác giả Nguyễn Thị Lộc10. Bài viết
ngồi việc phân tích quy định tại Điều 417 BLTTHS năm 2015 và Thông tư liên
tịch số 01/2011 về việc xác định tuổi, tác giả đưa ra một số vấn đề nảy sinh trong
thực tiễn thu thập các giấy tờ hộ tịch nhằm làm căn cứ xác định độ tuổi của người
dưới 18 tuổi, từ đó tác giả đưa ra quan điểm cá nhân đồng thuận với quy định của
Điều 417 BLTTHS năm 2015 vì các quy định này phù hợp với nguyên tắc “bảo
Lê Tiến Châu, Người bị hại trong tố tụng hình sự, ngày 20/02/2019.

8
Thu Hiền, Xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi, https://vienkiemsathanam.
gov.vn/index.php/vi/news/KIEM-SAT-VIEN-VIET-9/Xac-dinh-do-tuoi-cua-nguoi-bi-buoc-toi-nguoi-bi-hai-languoi-duoi-18-tuoi-625/, ngày 20/02/2019.
9
Trần Xuân Thiên An, Tìm hiểu về việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18
tuổi theo quy định của BLTTHS năm 2015, ngày
20/02/2019.
10
Nguyễn Thị Lộc (2017), “Vấn đề xác định tuổi của người bị hại là người dưới 18 tuổi theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015”, Khoa học kiểm sát, Trường đại học kiểm sát Hà Nội, số 01 (15), tr.29-33.
7


5
đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên” và phù hợp với quy định của những
Điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.
- Bài viết: Xác định tuổi của người bị hại trong vụ án hình sự như thế nào?,
tác giả Đinh Văn Quế11. Bài viết phân tích các trường hợp việc xác định tuổi của bị
hại là một trong các yếu tố cấu thành tội phạm, yếu tố định khung hình phạt, yếu tố
để xác định tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, … qua đó tác giả
khẳng định việc xác định tuổi của bị hại có ý nghĩa quan trọng và ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, đồng thời tác giả kiến
nghị cần có hướng dẫn cụ thể đối với cách xác định tuổi của bị hại trong trường hợp
khơng có căn cứ về hộ tịch.
- Bài viết: Xác định tuổi của Người chưa thành niên thế nào cho đúng?, tác
giả Lưu Đình Nghĩa (2001)– TAND huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng12, bài viết đưa
ra những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn tố tụng khi Cơ quan tố tụng xác định
tuổi của người chưa thành niên mà tuổi của người này thể hiện trong các giấy tờ hộ
tịch không đúng với độ tuổi thật của họ, việc xác định đúng độ tuổi của người chưa
thành niên có ý nghĩa rất quan trọng trong việc chống oan sai và bỏ lọt tội phạm.

Qua bài viết, tác giả kiến nghị khi khơng có sự thống nhất về tuổi theo thực tế và
giấy khai sinh thì cần phái xác định độ tuổi bằng sinh học hoặc cải sửa giấy khai
sinh, hộ tịch để xác định chính xác độ tuổi của người chưa thành niên.
- Bài viết: Một số kinh nghiệm trong việc xác định tuổi, tái phạm, tái phạm
nguy hiểm của người chưa thành niên phạm tội, tác giả Hoàng Thị Liên – Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An13. Thông qua kinh nghiệm thực tiễn giải quyết
các vụ án liên quan đến người chưa thành niên, tác giả nêu và phân tích kinh
nghiệm trong việc xác định tuổi, tái phạm, tái phạm nguy hiểm của người chưa
thành niên phạm tội. Tác giả từ kinh nghiệm trong việc xác định tuổi của người
chưa thành niên, tại thời điểm tác giả nghiên cứu (năm 2006), khi chưa có các quy
định chặt chẽ về cách xác định tuổi của người chưa thành niên, muốn xác định
chính xác độ tuổi cần phải lưu ý thu thập, đối chiếu các tài liệu hộ tịch như giấy

Đinh Văn Quế (1999), “Xác định tuổi của người bị hại trong vụ án hình sự như thế nào?”, tạp chí Dân chủ
và Pháp luật, số 7, tr.4-6.
12
Lưu Đình Nghĩa (2001), “Xác định tuổi của người chưa thành niên thế nào cho đúng?”, Tạp chí Tịa án
nhân dân, số 1, tr.27-28.
13
Hoàng Thị Liên (2006), “Một số kinh nghiệm trong việc xác định tuổi, tái phạm, tái phạm nguy hiểm của
người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí kiểm sát, số 21, (11-2006), tr.38-44.
11


6
khai sinh bản gốc, sổ hộ khẩu, kết hợp với các thơng tin có liên quan khác như học
bạ, lời khai của cha mẹ, … để đánh giá và kết luận chính xác độ tuổi của người
chưa thành niên.
- Bài viết: Vài suy nghĩ về cách tính tuổi trong vụ án hình sự, tác giả Phạm
Văn Beo – giảng viên khoa Luật, trường đại học Cần Thơ14. Nội dung bài viết thể

hiện ý nghĩa của việc xác định đúng tuổi của người bị hại vì theo tác giả vấn đề này
có ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, có ý nghĩa
quyết định việc xác định tội danh, khung hình phạt đối với người bị buộc tội, bên
cạnh đó, qua nội dung bài viết, tác giả kiến nghị cần có quy định cụ thể về cách xác
định tuổi của người bị hại là người chưa thành niên.
- Luận văn thạc sĩ đề tài: xác định tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nguyễn Huy Việt, Đại học luật thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2017. Nội dung luận văn nghiên cứu về việc xác định tuổi của người bị
hại là người dưới 18 trong tố tụng hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, đồng thời so sánh với các quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Qua nghiên cứu, tác giả luận văn dựa trên
nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc công bằng trong tố tụng hình sự, đề xuất
giải pháp “chọn 1/2 mốc thời gian” để xác định tuổi đối với bị hại là người dưới 18
tuổi thuộc các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 417 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015 như chọn ngày 15 của tháng, trong trường hợp xác định được tháng
nhưng không xác định được ngày; chọn ngày 15 của tháng giữa quý, trong trường
hợp xác định được quý; chọn ngày cuối cùng của tháng 3 hoặc ngày cuối cùng của
tháng 9, trong trường hợp xác định được nửa đầu năm hoặc nữa cuối năm; chọn
ngày cuối cùng của tháng 6, trong trường hợp chỉ xác định được năm sinh. Giải
pháp mà tác giả luận văn đã đề xuất trong một số trường hợp cụ thể có thể giải
quyết được khó khăn trong việc xác định tuổi, tuy nhiên giải pháp này vẫn chưa giải
quyết hết các vướng mắc của thực tiễn xác định tuổi của người dưới 18 tuổi.
Qua tham khảo nội dung các bài viết và luận văn nêu trên, tác giả luận văn
sẽ nghiên cứu những vướng mắc trong thực tiễn xác định tuổi của người bị buộc
tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi, đồng thời phân tích các quy định của pháp
Phạm Văn Beo, Vài suy nghĩ về cách tính tuổi trong vụ án hình sự, />ngày 21/02/2019.
14


7

luật tố tụng hình sự hiện hành có liên quan đến vấn đề xác định tuổi của người
dưới 18 tuổi, kiến nghị các giải pháp xác định tuổi của người dưới 18 tuổi sao cho
vừa đảm đảo quyền và lợi ích của người dưới 18 tuổi khi họ là người bị buộc tội,
người bị hại nhưng vẫn tuân thủ các nguyên tắc tố tụng theo quy định của pháp
luật, đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội đồng thời
không bỏ lọt tội phạm.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn trên cơ sở phân tích quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003; Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, các văn bản hướng dẫn có liên quan, kết
hợp với thực tiễn xác định tuổi của người dưới 18 tuổi, đưa ra một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong việc xác định tuổi,
nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của người dưới 18 tuổi khi tham gia tố tụng với tư
cách là người bị buộc tội, người bị hại, đồng thời đảm bảo các nguyên tắc cơ bản
của tố tụng hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thơng qua việc nghiên cứu và hệ thống các quy định pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành có liên quan đến việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại
là người dưới 18 tuổi, qua đó đưa ra quan điểm về vấn đề này, cụ thể như sau:
- Phân tích các quy định về xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại
là người dưới 18 tuổi
- So sánh quy định của pháp luật tố tụng hiện hành với các quy định được áp
dụng trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực, đồng thời đối chiếu
việc vận dụng các quy định này trong thực tiễn tố tụng Việt Nam qua đó nêu ra các
bất cập, hạn chế của quy định hiện hành về xác định tuổi người dưới 18 tuổi là
người bị buộc tội, người bị hại.
- Đánh giá thực tiễn xác định tuổi của người bị buộc tội, bị hại là người dưới
18 tuổi.
- Đề xuất các giải pháp để hoàn thiện quy định hiện hành và thực tiễn áp
dụng pháp luật để xác định đúng tuổi của người dưới 18 tuổi là người bị buộc tội,

người bị hại.


8
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là khía cạnh pháp lý và thực tiễn về việc xác định tuổi
của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi qua đó đưa ra quan điểm
hồn thiện quy định hiện hành về việc xác định tuổi của người dưới 18 tuổi trong tố
tụng hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu việc xác định tuổi của người bị buộc tội,
người bị hại là người dưới 18 tuổi ở giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự.
Phạm vi khơng gian: trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng các căn cứ
xác định tuổi của người dưới 18 tuổi trên địa bàn các tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng,
Bạc Liêu, Kiên Giang.
Phạm vi thời gian: từ năm 2013 đến năm 2018
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin với phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, các
quan điểm của Đảng và Nhà nước liên quan đến người dưới 18 tuổi trong các vụ
án hình sự.
Phương pháp nghiên cứu: để thu thập, phân tích thông tin về những vấn đề
cần nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực
tiễn, gồm: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, phương pháp thống kê, nghiên
cứu vụ án điển hình.
6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả
nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa trong việc đưa ra các giải pháp

hoàn thiện quy định của pháp luật hiện hành về xác định tuổi của người bị buộc tội,
người bị hại là người dưới 18 tuổi, nhằm đảm bảo việc giải quyết các vụ án hình sự
có liên quan đến người dưới 18 tuổi là người tham gia tố tụng với tư cách bị buộc
tội hoặc bị hại, được đúng quy định của pháp luật tố tụng, đảm bảo nguyên tắc pháp
chế, bình đẳng trước pháp luật, suy đốn vơ tội, xác định sự thật của vụ án, ... ngoài


9
ra còn giúp cơ quan tiến hành tố tụng xử lý đúng người đúng tội, không làm oan
người vô tội và khơng bỏ lọt tội phạm.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cịn có thể là tài liệu tham khảo tại các cơ sở
đào tạo chuyên ngành Luật tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của Luận văn
Luận văn ngồi phần mở đầu, mục lục, danh mục các từ viết tắt, danh mục tài
liệu tham khảo, phần kết luận,... nội dung chính của luận văn được chia thành 2
chương, như sau:
Chương 1. Xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi
trong trường hợp có căn cứ và trường hợp cần bổ sung tài liệu để chứng minh theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Chương 2. Xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi,
trong trường hợp khơng có căn cứ xác định theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự.


10
CHƢƠNG 1
XÁC ĐỊNH TUỔI CỦA NGƢỜI BỊ BUỘC TỘI, NGƢỜI BỊ HẠI DƢỚI 18
TUỔI TRONG TRƢỜNG HỢP CÓ CĂN CỨ VÀ TRƢỜNG HỢP CẦN BỔ
SUNG TÀI LIỆU ĐỂ CHỨNG MINH THEO QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về xác định tuổi của ngƣời bị
buộc tội, bị hại là ngƣời dƣới 18 tuổi trong trƣờng hợp có căn cứ và trƣờng
hợp cần bổ sung tài liệu để chứng minh
1.1.1. Khái niệm người bị buộc tội, bị hại và cách xác định tuổi
Người bị buộc tội là người bị các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào những
tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp nghi ngờ họ thực hiện hành vi phạm tội
và họ đang trong tình trạng bị bắt, tạm giữ, khởi tố bị can hoặc bị Tòa án quyết định
đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, liệt kê
những người tham gia tố tụng thuộc “nhóm” người bị buộc tội gồm người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo15.
Người bị hại là thuật ngữ pháp lý sử dụng đối với cá nhân bị thiệt hại về sức
khỏe, tính mạng hoặc về tài sản gây ra bởi một tội phạm. Từ điển tiếng Việt giải
thích thuật ngữ Người bị hại là “người bị thiệt hại về thể chất, vật chất hoặc tinh
thần do tội phạm gây ra”16, cịn theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học pháp lý
người bị hại là “người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội
phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể là thể nhân, bị người phạm tội làm thiệt hại
về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể là pháp nhân”17. Theo quy
định tại khoản 1 Điều 62 BLTTHS năm 2015 “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy
tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”. Như vậy, người bị hại trong trường
hợp cần xác định tuổi theo quy định tại Điều 417 BLTTHS là cá nhân trực tiếp bị
thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra,
không xem xét đến đối tượng bị hại là cơ quan, tổ chức. Như vậy, Bị hại có một số
đặc điểm sau:

Điểm đ Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng năm 2004, tr. 698.
17
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Công an nhân dân, tr.198.
15

16


11
- Bị hại là cá nhân;
- Bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản đồng thời
những thiệt hại này do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra;
- Việc xác định cá nhân nào là Bị hại thuộc thẩm quyền của Cơ quan tiến
hành tố tụng.
Xác định tuổi của người bị buộc tội, bị hại là người dưới 18 tuổi cần phải
hiểu khái niệm “Tuổi” trong quy định của BLTTHS được hiểu như thế nào là phù
hợp. Theo Từ điển tiếng Việt, Tuổi là “Số năm đã sống kể từ khi sinh ra đời”18, như
vậy tuổi của một cá nhân được xác định là số năm mà cá nhân đã sống kể từ khi
sinh ra đời. Để xác định số năm cá nhân đã sống, cần xác định ngày, tháng, năm
sinh của cá nhân.
Tuổi của người bị buộc tội và bị hại theo quy định Bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi năm 2017 được xác định bởi thuật ngữ pháp lý “từ đủ” ví dụ như
tại khoản 1 Điều 12 quy định người nào từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm về mọi tội phạm, ... hoặc Điều 90; điểm a, b khoản 2 Điều 91 hoặc Điều
144 tội cưỡng dâm người “từ đủ” 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Xác định người từ đủ
16 tuổi, từ đủ 18 tuổi, từ đủ 13 tuổi nghĩa là tuổi của người này phải là phải đủ
ngày, đủ tháng, đủ năm, ví dụ: A sinh ngày 01/01/2000 thì đến ngày 01/01/2018,
A đủ 18 tuổi.
1.1.2. Quy định của pháp luật về thủ tục đăng ký, thủ tục cấp các giấy tờ hộ
tịch dùng làm căn cứ xác định tuổi
Trong tố tụng hình sự, việc xác định tuổi của người bị buộc tội, bị hại là
người dưới 18 tuổi do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện theo quy
định của pháp luật19 và được xác định dựa vào thông tin của một trong các giấy tờ,
tài liệu sau: Giấy chứng sinh; Giấy khai sinh; Chứng minh nhân dân; Thẻ căn cước
công dân; Sổ hộ khẩu; Hộ chiếu20. Theo quy định của Luật hộ tịch ngày tháng năm

sinh được xác định theo dương lịch.

Từ điển tiếng Việt, nxb Văn hóa thơng tin năm 2005, tr.2028.
Khoản 1 Điều 417 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
20
Khoản 1 Điều 6 Thơng tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH, ngày
21/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ tư pháp, Bộ lao
động thương binh & xã hội, về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố
tụng đối với người dưới 18 tuổi.
18
19


12
- Giấy chứng sinh do Cơ sở y tế có thẩm quyền21 cấp theo mẫu do Bộ y tế
quy định. Trường hợp trẻ được sinh ra tại nhà hoặc nơi khác khơng phải là cơ sở y
tế, thì người thân của trẻ đề nghị trạm y tế xã, phường cấp Giấy chứng sinh cho
trẻ22. Nội dung giấy chứng sinh bao gồm thông tin về nhân thân của người mẹ
(người nuôi dưỡng), thời gian, địa điểm sinh trẻ; giới tính của trẻ; thông tin của
người đỡ đẻ23.
Giấy khai sinh là văn bản24 do UBND cấp xã nơi cư trú của người cha hoặc
người mẹ25 cấp cho cá nhân khi được đăng ký khai sinh; nội dung giấy đăng ký khai
sinh bao gồm các thông tin cơ bản của cá nhân được khai sinh: Họ, chữ đệm và tên;
giới tính; ngày, tháng, năm sinh; nơi sinh; quê quán; dân tộc; quốc tịch26, … Việc
đăng ký khai sinh được cha, mẹ hoặc người thân của trẻ thực hiện trong thời hạn 60
ngày kể từ ngày sinh27, trường hợp đăng ký khai sinh sau thời hạn này thì được xác
định là đăng ký khai sinh trễ hạn.
Về thủ tục đăng ký khai sinh: người yêu cầu đăng ký khai sinh phải nộp bản
chính Giấy chứng sinh, trường hợp khơng có giấy chứng sinh thì phải nộp văn bản
của người làm chứng xác nhận về việc sinh; nếu khơng có người làm chứng thì phải

có giấy cam đoan về việc sinh28 trường hợp khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi phải có
biên bản xác nhận việc trẻ bị bỏ rơi do cơ quan có thẩm quyền lập; trường hợp khai
sinh cho trẻ em sinh ra do mang thai hộ phải có văn bản chứng minh việc mang thai
hộ theo quy định pháp luật. Như vậy, thông tin về ngày tháng năm sinh của trẻ em
được xác định bởi các văn bản sau: giấy chứng sinh; văn bản xác nhận của người
làm chứng; giấy cam đoan về việc sinh; biên bản xác nhận trẻ bị bỏ rơi.
Chứng minh nhân dân/ Thẻ căn cước công dân: là giấy tờ tùy thân của công
dân Việt Nam, trong đó có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về đặc
điểm căn cước, lai lịch của người được cấp.
Khoản 1 Điều 2 Thông tư số 17/2012/TT-BYT, ngày 24/10/2012 quy định về cấp và sử dụng giấy
chứng sinh.
22
Khoản 2 Điều 2 Thông tư số 17/2012/TT-BYT, ngày 24/10/2012 quy định về cấp và sử dụng giấy
chứng sinh.
23
Giấy chứng sinh theo mẫu BYT/CS-2018, ban hành kèm theo Thông tư số 17/2012/TT-BYT.
24
Khoản 6 Điều 4 Luật hộ tịch 2014.
25
Điều 13 Luật hộ tịch 2014.
26
Khoản 1 Điều 14 Luật hộ tịch 2014.
27
Khoản 1 Điều 15 Luật hộ tịch 2014.
28
Khoản 1 Điều 16 Luật hộ tịch 2014 và khoản 2 Điều 2 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP, ngày 15/11/2015
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hộ tịch.
21



13
Thẻ Căn cƣớc công dân là giấy tờ tùy thân của cơng dân Việt Nam có giá trị
chứng minh về căn cước công dân của người được cấp thẻ để thực hiện các giao
dịch trên lãnh thổ Việt Nam29. Công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi được cấp thẻ Căn
cước công dân30. Nội dung trên thẻ căn cước công dân thể hiện họ, chữ đệm và tên
khai sinh, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, quốc tịch, quê quán, nơi thường trú31
Sổ hộ khẩu: theo quy định của Luật cư trú, cơng dân đăng ký nơi thường trú
của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan này làm thủ tục
đăng ký thường trú, cấp sổ hộ khẩu32. Sổ hộ khẩu có giá trị xác định nơi thường trú
của công dân. Nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha mẹ33, khi
đăng ký thường trú cho trẻ em phải có giấy khai sinh34. Như vậy, thông tin về ngày
tháng năm sinh của trẻ em trong sổ hộ khẩu được căn cứ vào giấy khai sinh.
Hộ chiếu: là giấy tờ tùy nhân sử dụng khi Công dân Việt Nam xuất cảnh,
nhập cảnh qua các cửa khẩu của Việt Nam. Trẻ em dưới 14 tuổi được cấp chung
vào hộ chiếu quốc gia của cha hoặc mẹ, hộ chiếu có giá trị khơng q 5 năm tính từ
ngày cấp và khơng được gia hạn35. Hồ sơ đề nghị cấp hộ chiếu cho người dưới 14
tuổi ngồi những thủ tục chung cịn phải có bản sao giấy khai sinh36.
1.1.3. Xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự trong trường hợp có căn cứ
Xác định tuổi của người bị buộc tội, bị hại là người dưới 18 tuổi theo quy
định tại khoản 1 Điều 417 BLTTHS và khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số
06/2018 là việc Cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng thông tin về ngày tháng năm
sinh của cá nhân mà thông tin này được Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ghi nhận
trong các giấy tờ hộ tịch gồm Giấy chứng sinh; Giấy khai sinh; Chứng minh nhân
dân; Thẻ căn cước công dân; Sổ hộ khẩu; Hộ chiếu theo đúng trình tự thủ tục luật
định, để làm căn cứ xác định tuổi của người dưới 18 tuổi.
Khoản 1 Điều 20 Luật căn cước công dân.
Khoản 1 Điều 19 Luật căn cước công dân.
31
Khoản 1 Điều 18 Luật căn cước công dân.

32
Điều 18 Luật cư trú.
33
Điều 13 Luật cư trú.
34
Điểm a khoản 2 Điều 6 Thông tư số 35/2014/TT-BCA, ngày 09/09/2014 của Bộ Công an quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật cư trú và Nghị định số 31/2014/NĐ-CP, ngày 18/4/2014 của Chính phủ quy
định một số điều và biện pháp thi hành Luật cư trú.
35
Khoản 3 Điều 5 Nghị định số 136/2007/NĐ-CP, ngày 17/8/2007 của Chính phủ về xuất cảnh, nhập cảnh
của Công dân Việt Nam.
36
Điểm a khoản 3 Điều 15 Nghị định số 136/2007/NĐ-CP, ngày 17/8/2007 của Chính phủ về xuất cảnh,
nhập cảnh của Công dân Việt Nam.
29
30


14
Đối chiếu với quy định về thủ tục cấp các loại giấy tờ hộ tịch dùng để sử
dụng làm căn cứ xác định tuổi đã trình bày tại tiểu mục 1.1.2 mục 1.1 Chương 1 của
Luận văn này và khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số 06/2018, điều kiện để thông
tin về ngày, tháng, năm sinh ghi nhận trong các giấy tờ hộ tịch: Giấy chứng sinh,
Giấy khai sinh, Chứng minh nhân dân, Thẻ căn cước công dân, Sổ hộ khẩu, Hộ
chiếu, được Cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng làm căn cứ xác định tuổi của người
dưới 18 tuổi bao gồm:
- Thông tin về ngày tháng năm sinh của cá nhân được ghi nhận trong các giấy
tờ hộ tịch đồng nhất (không mâu thuẫn) với nhau.
- Đúng trình tự thủ tục luật định: là các giấy tờ hộ tịch này phải được cá nhân
có liên quan thực hiện đầy đủ thủ tục đăng ký theo quy định của pháp luật và việc

thực hiện đăng ký được tiến hành trong thời hạn luật định. Ví dụ: Đăng ký giấy khai
sinh cho trẻ em phải do cha, mẹ hoặc người thân của trẻ thực hiện trong thời gian 60
ngày, kể từ ngày sinh, đồng thời người yêu cầu đăng ký khai sinh phải nộp bản
chính giấy chứng sinh.
Như vậy người dưới 18 tuổi được xem là có căn cứ xác định tuổi khi người
này có một trong các loại giấy tờ hộ tịch sau:
* Giấy chứng sinh được cấp bởi cơ sở y tế có thẩm quyền đối với trường hợp
trẻ em được sinh tại cơ sở y tế;
* Giấy khai sinh được đăng ký đúng hạn do Cơ quan có thẩm quyền cấp theo
thủ tục có kèm giấy chứng sinh và được người thân của trẻ thực hiện đăng ký trong
thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh
Khi người dưới 18 tuổi có Giấy chứng sinh hoặc giấy khai sinh thỏa 02 điều
kiện nêu trên thì các tài liệu hộ tịch còn lại của Người dưới 18 tuổi này gồm: giấy
chứng minh nhân dân, thẻ căn cước cơng dân, sổ hộ khẩu, hộ chiếu có nội dụng về
ngày tháng năm sinh đồng nhất với giấy khai sinh sẽ được sử dụng làm căn cứ xác
định tuổi.
1.1.4. Xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi trong
trường hợp cần bổ sung tài liệu để chứng minh, theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự
Trường hợp có căn cứ để xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại
nhưng cần bổ sung tài liệu để chứng minh là trường hợp đối tượng cần xác định tuổi


15
có một trong các loại giấy tờ hộ tịch theo quy định của khoản 1 Điều 6 Thông tư
liên tịch số 06/2018 nhưng giấy tờ hộ tịch không đảm bảo 02 điều kiện tại tiểu mục
1.1.3 và trường hợp thông tin của các giấy tờ hộ tịch của người cần xác định tuổi có
sự mâu thuẫn nhau theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số 06/2018.
Cụ thể bao gồm các trường sau:
* Các trường hợp trẻ em sinh tại nhà hoặc nơi khác không là cơ sở y tế; trẻ bị

bỏ rơi: trong các trường hợp này, trẻ em khơng có giấy chứng sinh mà được đăng ký
khai sinh dựa trên thông tin về ngày, tháng, năm sinh thể hiện trên “văn bản xác
nhận việc sinh”, “giấy cam đoan về việc sinh”, “biên bản xác nhận trẻ bị bỏ rơi”.
Đối với trường hợp này, thông tin về ngày, tháng, năm sinh của trẻ được ghi nhận
có khả năng thiếu chính xác và khơng đảm bảo tính khách quan do việc lập văn bản
khơng được quy định chặt chẽ, khó kiểm tra vì dễ bị chi phối bởi ý chí chủ quan của
người lập mà khó có sự kiểm chứng. Đối với trường hợp này, Cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sử dụng thơng tin trên các văn bản này làm căn cứ để cấp giấy khai sinh
cho trẻ em, nên cần phải thực hiện việc thu thập tài liệu để chứng minh.
* Các trường hợp Giấy khai sinh được đăng ký trễ hạn, đồng thời thủ tục
đăng ký khơng có giấy chứng sinh, thì trường hợp này mặc dù thông tin về ngày
tháng năm sinh trong tất cả các giấy tờ hộ tịch là đồng nhất thì Cơ quan tiến hành tố
tụng vẫn xem xét đến thời gian đăng ký quá hạn so với luật định là bao lâu và đây là
trường hợp có căn cứ để nghi ngờ về độ tuổi, cần phải thực hiện việc xác minh, thu
thập tài liệu giống như trường hợp có mâu thuẫn giữa các tài liệu hộ tịch.
Ví dụ 1: Vào khoảng đầu tháng 02 năm 2020, trên các Báo Thanh Niên, Báo
Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh, Zing.vn ... đã đưa tin vụ bé Nguyễn Thị B, ở xã
Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh bị xâm hại tình dục, kết
quả giám định về độ tuổi và độ tuổi theo giấy khai sinh thể hiện có sự chênh lệch
lớn dẫn đến khả năng người bị tố giác đã thực hiện hành vi xâm hại tình dục bé B sẽ
khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nội dung như sau:
Theo thơng tin được đăng trên Zing.vn37 ngày 05/02/2020, Giấy khai sinh số
331 cấp ngày 01/11/2007, của UBND xã Tân Hội, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng
Tháp: Nguyễn Thị B sinh ngày 02/01/2005, tính đến ngày bị xâm hại tình dục
17/11/2019, thì B có độ tuổi là 14 năm 10 tháng.
Lê Trai, công an nói lý do giám định tuổi bé gái nghi bị hiếp dâm ở thành phố Hồ Chí Minh, https://news.
zing.vn/cong-an-noi-ly-do-giam-dinh-tuoi-be-gai-nghi-bi-hiep-dam-o-tphcm-post1043340.html, 22/4/2019.
37



16
Do Giấy khai sinh của B đăng ký năm 2007 (đăng ký khai sinh trễ hạn 02 năm)
nên Cơ quan CSĐT Cơng an huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh tiến hành
xác minh, kết quả xác định: gia đình B có 03 anh chị em đều được đăng ký khai sinh
năm 2007 đồng thời xác minh tại Bệnh viện đa khoa huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng
Tháp, giấy nhập viện vào tháng 2 năm 200538. Từ kết quả xác minh, Cơ quan CSĐT
Cơng an huyện Bình Chánh nhận định khơng có căn cứ xác định năm sinh của B nên
tiến hành trưng cầu giám định tuổi. Kết luận giám định của Trung tâm pháp y thành
phố Hồ Chí Minh xác định B có độ tuổi từ 17 năm đến 17 năm 6 tháng.
Việc Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Bình Chánh nghi ngờ độ tuổi của
bé B là hồn tồn có căn cứ, bởi cả 03 anh chị em của bé B đều được thực hiện đăng ký
khai sinh vào năm 2007, khơng loại trừ tình huống bé B được người thân đăng ký khai
sinh bằng ngày sinh của những người anh/chị ruột của B vì một lý do nào đó. Trên thực
tế có nhiều trường hợp anh, em trong cùng gia đình sử dụng giấy tờ hộ tịch của nhau
(nhất là ở khu vực nông thôn) để làm việc, học tập .... Bên cạnh đó, ngày nhập viện của
mẹ bé B tại Bệnh viện Đa khoa huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp là tháng 2 năm
2005, không trùng khớp với thông tin tháng sinh của giấy khai sinh.
Ví dụ 2: Nguyễn Thanh Nhí thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, ngày
09/10/2017 tại ấp Thuận Hưng, thị trấn Ngã Sáu, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu
Giang39. Quá trình điều tra thu thập được giấy khai sinh và các giấy tờ hộ tịch xác
định Nguyễn Thanh Nhí sinh ngày 16/12/2001, tuy nhiên Giấy khai sinh đăng ký trễ
hạn (số ngày đăng ký). Cơ quan điều tra nghi ngờ thông tin về ngày tháng năm sinh
đã tiến hành xác minh lời khai của người thực hiện đăng ký khai sinh, xác định
Nguyễn Thanh Nhí sinh ngày 16/12/2001 âm lịch, do người đăng ký khai sinh (dì
ruột) có thói quen sử dụng ngày âm lịch. Ngoài lời khai của người đi khai sinh khơng
cịn tài liệu nào khác để xác định tuổi thật của Nhí do cha và mẹ ruột đều không nhớ
ngày sinh, cả hai không biết chữ nên khơng biết giấy khai sinh của Nhí ghi ngày sinh
là ngày tháng năm nào, đồng thời cả hai đều xác định được người đi khai sinh là dì
ruột. Cơ quan cảnh sát điều tra thực hiện việc đối chiếu từ ngày âm lịch sang ngày
dương lịch thì ngày 16/12/2001 âm lịch là ngày 28/01/2002. Từ căn cứ này, Cơ quan

Cảnh sát điều tra xác định Nguyễn Thanh Nhí, sinh ngày 28/01/2002, tính đến ngày

Bất thường vụ bé gái 14 tuổi nghi bị hiếp dâm, 22/4/2019.
39
Vụ án số 24/VKS-HCT/HS/2018 do Viện kiểm sát nhân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang thụ lý.
38


17
09/10/2017, Nhí khơng đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên khơng truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với Nguyễn Thanh Nhí.
Từ các ví dụ trên cho thấy, mặc dù thông tin ngày tháng năm sinh giữa các
giấy tờ hộ tịch khơng có sự mâu thuẫn, tuy nhiên “việc đăng ký khai sinh trễ hạn”,
đặc biệt là thời điểm thực hiện việc khai sinh tính đến thời điểm xảy ra hành vi
phạm tội mà tuổi của người bị buộc tội, tuổi người bị hại có sự thay đổi so với độ
tuổi được xác định theo giấy tờ hộ tịch dẫn đến việc có khả năng xảy ra trường hợp
người bị buộc tội khơng đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc hành vi của người bị
buộc tội không cấu thành tội phạm thì “khai sinh trễ hạn” là sự nghi ngờ hợp lý của
Cơ quan tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo ngun tắc suy đốn vơ tội.
* Các trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn khơng xác định
được chính xác ngày, tháng, năm sinh gồm: xác định được tháng, năm nhưng không
xác định được ngày; xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng;
xác định được nửa năm nhưng không xác định được ngày, tháng; xác định được
năm nhưng không xác định được ngày, tháng40. Trường hợp này việc xác định tuổi
của người bị buộc tội, người bị hại được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều
417 BLTTHS năm 2015.
1.2. Thực trạng xác định tuổi của ngƣời bị buộc tội, bị hại là ngƣời dƣới
18 tuổi trong trƣờng hợp có căn cứ và trƣờng hợp cần bổ sung tài liệu để chứng
minh theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; nguyên nhân của thực trạng
1.2.1. Thực trạng xác định tuổi của người bị buộc tội, bị hại là người dưới 18

tuổi trong trường hợp có căn cứ và trường hợp cần bổ sung tài liệu để chứng minh
Việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi có ý nghĩa
rất quan trọng, đây không chỉ là việc xác định một trong các yếu tố nhân thân để Cơ
quan tiến hành tố tụng thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý nhằm đảm bảo quyền
lợi hợp pháp của người dưới 18 tuổi khi tham gia tố tụng hình sự, bên cạnh đó đối
với người bị buộc tội, việc xác định tuổi là một trong những nội dụng bắt buộc theo
quy định của khoản 1 Điều 416 Bộ luật tố tụng hình sự, đồng thời việc xác định
chính xác tuổi của người bị buộc tội, bị hại là người dưới 18 tuổi còn nhằm đảm bảo
việc xác định người bị buộc tội có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay khơng, tội
danh và khung hình phạt được áp dụng đối với người bị buộc tội.
40

Khoản 2 Điều 417 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.


18
Hiện nay tuy khơng có số liệu thống kê chính thức những vụ án có liên quan
đến người dưới 18 tuổi, phải thực hiện việc trưng cầu giám định tuổi thật, nhưng
qua thực tiễn công tác cũng như nghiên cứu những vụ án có liên quan đến người
dưới 18 tuổi, thì vấn đề xác định độ tuổi của người bị buộc tội, bị hại là một trong
những nội dung thường gặp khó khăn, vướng mắc vì việc xác định đúng tuổi thật
ảnh hưởng đến việc xác định tội phạm và người phạm tội. Đặc biệt, tại tỉnh Hậu
Giang nói riêng và tại các tỉnh Tây nam bộ nói chung, do tập quán cũng như nhận
thức của người dân nên việc đăng ký khai sinh thường rơi vào tình trạng khai sinh
trễ hạn, thơng thường thì trễ hạn ít nhất một năm. Trong trường hợp cần xác định
tuổi thật của người bị buộc tội hoặc của bị hại, nhưng đối tượng cần xác định tuổi
khơng có giấy chứng sinh, đồng thời giấy khai sinh thực hiện đăng ký trễ hạn thì Cơ
quan tiến hành tố tụng đều thực hiện trưng cầu giám định tuổi thật. Trung bình mỗi
năm, cơ quan Pháp y Phân viện Khoa học Hình sự Bộ Cơng an khu vực phía Nam
tại thành phố Hồ Chí Minh tiếp nhận hơn 500 hồ sơ trưng cầu giám định tuổi thật,

trung bình mỗi tháng đơn vị này phải xử lý từ 30 vụ đến 70 vụ41.
Điều 417 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 6 Thơng tư liên tịch số
06/2018 đã quy định và hướng dẫn đầy đủ cách thức để xác định tuổi của người
dưới 18 tuổi như: các văn bản hộ tịch sử dụng làm căn cứ xác định tuổi, các trường
hợp cần xác minh, thu thập tài liệu chứng minh độ tuổi, bên cạnh đó cịn quy định
rõ chỉ trong trường hợp đã áp dụng đầy đủ các biện pháp nhưng vẫn không xác định
được tuổi của người dưới 18 tuổi thì thực hiện việc trưng cầu giám định độ tuổi.
Tuy nhiên thực tiễn giải quyết các vụ án mà người bị buộc tội, bị hại là người dưới
18 tuổi, các cơ quan tiến hành tố tụng thường áp dụng biện pháp giám định tuổi
trong trường hợp người cần xác định tuổi khơng có giấy chứng sinh hoặc đăng ký
khai sinh trễ hạn mà tàng thư không lưu giấy chứng sinh (thực hiện giám định tuổi
đối với các trường hợp có căn cứ nhưng cần có tài liệu bổ sung), lúc này Kết luận
giám định tuổi có giá trị như là một loại chứng cứ có tính khách quan, khoa học, ví
dụ như hai trường hợp sau:
Trƣờng hợp 1: Bị can Đào Thanh Tài bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu
Thành, tỉnh Hậu Giang truy tố tội Trộm cắp tài sản đối với hành vi thực hiện vào
ngày 25/7/201642. Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang trả hồ sơ để
Huyền Sơn - Văn Đức, Xác định tuổi qua giám định xương: Nút thắt những vụ án, />Khoa-hoc-Ky-thuat-hinh-su/Xac-dinh-tuoi-qua-giam-dinh-xuong-Nut-that-nhung-vu-an-416482/, 22/4/2019.
42
Vụ án số 31/VKS-HCT/HS/2016 do Viện kiểm sát nhân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang thụ lý.
41


×