Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận môn triết học cao học ĐHXD 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.53 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
****************

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI : KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC VÀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC


MỤC LỤC
I - MỞ ĐẦU
II - NỘI DUNG
1. Tính quy luật của sự hình thành và phát triển triết học
2. Sự khác nhau cơ bản giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của phương Đông và phương Tây
2.2. Sự khác nhau cơ bản của triết học phương Đông và phương Tây
2.2.1. Mục đích của triết học
2.2.2. Phương pháp tiếp cận của triết học
2.2.3. Đối tượng nghiên cứu của triết học
2.2.4. Sự khác nhau về phương pháp nhận thức
2.2.5. Dạng tồn tại của triết học phương Đông và phương Tây
2.2.6. Bước phát triển của triết học phương Đông và phương Tây
2.2.7. Sự phân chia, phân loại các trường phái triết học
3. Các thời kỳ phát triển chủ yếu của triết học phương Tây và đặc điểm cơ bản
của chúng
3.1. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
3.2. Triết học kinh viện châu Âu thời trung đại
3.2.1. Điều kiện văn hóa xã hội thời kỳ này
3.2.2. Đặc điểm của triết học kinh viện châu Âu thời trung đại
3.3. Chủ nghĩa nhân văn thời kỳ Phục Hưng
3.4. Đặc điểm và những khuynh hướng cơ bản của triết học Tây Âu thời cận
đại


3.5. Triết học cổ điển Đức và giá trị lịch sử của nó
3.5.1. Điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội
3.5.2. Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức
3.5.3. Giá trị lịch sử của triết học cổ điển Đức
3.6. Một số trào lưu triết học phương Tây phi mác - xít hiện đại
3.6.1. Chủ nghĩa hiện sinh
3.6.2. Chủ nghĩa Phơrớt
3.6.3. Chủ nghĩa thực dụng
3.6.4. Chủ nghĩa thực chứng
3.6.5. Chủ nghĩa Thomas mới
III - KẾT LUẬN

1
2
2
2
2
4
4
4
4
5
5
5
6
6
6
7
7
7

7
8
10
10
10
11
11
11
12
13
13
14
15


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

I – MỞ ĐẦU
Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ được
thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử xuất hiện
vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ cổ đại, Trung quốc cổ đại, Hy
Lạp và La Mã cổ đại và ở các nước khác. Theo quan điểm của mác xít triết học là một
hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và
nhận thức về thái độ của con người đối với thế giới, là khoa học về những quy luật
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự ra đời của triết học cho thấy tính tích cực
của tư duy con người đã đạt được bước chuyển biến về chất nhờ sự xuất hiện của tầng
lớp lao động trí óc trong xã hội cổ đại.
Từ khi ra đời, triết học đóng vai trị quan trọng trong nhận thức cũng như hoạt động của

con người, Ph. Ăngghen viết : “ Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học
thì khơng thể khơng có tư duy lý luận” . Nhưng tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh
dưới dạng năng lực của con người mà thôi, năng lực ấy cần phải được phát triển hồn thiện,
mà muốn hồn thiện thì cần nghiên cứu toàn bộ triết học từ những thời đại trước.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung và lịch sử triết học nói riêng, triết học
phương Đơng và triết học phương Tây cổ đại giữ một vị trí hết sức quan trọng. Việc nhận
thức một cách đầy đủ những giá trị của hai nền triết học này là một vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc, vừa cấp bách vừa lâu dài. Bởi vậy để tìm hiểu về khái luận triết
học và lịch sử triết học nhóm chúng tơi đi sâu vào nghiên cứu từng thời kỳ, từng giai đoạn
của triết học (triết học cổ đại, triết học trung đại, triết học cận đại) và từng khu vực phát
triển của triết học (triết học phương đông, triết học phương tây). Nội dung của khái luận
triết học và lịch sử triết học qua từng thời kỳ sẽ được nhóm chúng tơi làm rõ dưới đây.
Mặc dù chúng tơi đã cố gắng tìm tịi với tinh thần trách nhiệm, song do mới tiếp xúc với
triết học, kiến thức cịn nhiều hạn chế chắc chắn khơng tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong giáo viên mơn học cùng các bạn đọc góp ý bổ sung để nhóm chúng tơi có thể hồn
thiện thêm kiến thức của mình.
Chúng tơi xin chân thành cảm ơn!

Page 3


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

II - NỘI DUNG TIỂU LUẬN
1. Tính quy luật của sự hình thành và phát triển triết học

Triết học ra đời cách đây trên hai nghìn năm trăm năm ở một số trung tâm lớn như Hy
Lạp - La Mã Cổ đại, Ấn Độ Cổ đại, Trung Quốc Cổ đại... (từ khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế

kỷ thứ V trước công nguyên) Theo tiếng Hy Lạp cổ, từ triết học (philosophia) nghĩa là yêu
mến sự thông thái; trong tiếng Trung Quốc từ Triết có nghĩa là lý trí; trong tiếng Phạn cổ từ
triết học (darshana) có nghĩa là chiêm ngưỡng, suy ngẫm để đi đến lẽ phải. Như vậy với tính
cách là một hình thái ý thức xã hội triết học phải bao gồm hai yếu tố cơ bản là yếu tố nhận
thức và yếu tố nhận định.
Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí,
vai trị của con người trong thế giới ấy. Triết học ra đời từ nhu cầu của thực tiễn và để phục
vụ cho nhu cầu sống của con người.
Sự ra đời của triết học bắt nguồn từ hai nguồn gốc là nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc
xã hội.
- Nguồn gốc nhận thức là sự hình thành, phát triển của năng lực tư duy trừu tượng khái
quát của con người.
- Nguồn gốc xã hội của nó là sự phát triển của phân cơng lao động xã hội thành lao
động chân tay và lao động trí óc trong xã hội có giai cấp. Cho nên ngay từ khi mới ra đời
triết học đã mang tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của một giai cấp nhất định
Quá trình hình thành, phát triển của triết học trong lịch sử ln có những tính quy luật
chung như:
- Trước hết, sự hình thành và phát triển của triết học luôn gắn với những điều kiện
kinh tế xã hội cụ thể, gắn với các cuộc đấu tranh giai cấp nhất định. Các trường phái triết
học trong lịch sử luôn là nền tảng thế giới quan của các giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định.
Chủ nghĩa duy vật là đại diện tư tưởng cho những lực lượng tiến bộ, còn chủ nghĩa duy tâm
đại biểu cho những lực lượng phản động
- Sự hình thành và phát triển của triết học luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học tự
nhiên và xã hội. Ăngghen đã khẳng định: Mỗi khi khoa học tự nhiên phát triển nó đều địi hỏi
chủ nghĩa duy vật phải có sự thay đổi hình thức tồn tại của mình. Triết học phải dựa trên cơ sở
khái quát các tri thức khoa học cụ thể. Khoa học luôn là một trong những tiền đề của triết học.
2. Sự khác nhau cơ bản giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây
2.1.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của phương Đông và phương Tây
a. Phương Đông

Về mặt địa lý ,phương Đông cổ đại là một vùng đất rộng lớn từ Ai Cập, Babilon tới Ấn
Độ, Trung Quốc…Phương Đông cổ đại là một trong những cái nơi của nền văn minh nhân
loại, trong đó Trung Quốc và Ấn Độ là những trung tâm phát triển rực rỡ nhất của nền văn
minh ấy. Hầu hết các nền tôn giáo lớn của thế giới đều xuất hiện ở đây.
• Trung Quốc cổ đại :

Page 4


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

Trung Quốc cổ đại có chế độ nơ lệ hình thành sớm với những đặc trưng của chế độ nô lệ
chiếm hữu không điển hình. Sự phân hóa giai cấp khơng rõ rệt và nô lệ không phải lực
lượng sản xuất chủ yếu….Ngay từ thời kỳ nhà Hạ, nền văn minh Trung Quốc cổ đại đã đạt
được những thành tựu rực rỡ trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đến thời kỳ Xuân
Thu – Chiến Quốc ( thời kỳ chuyển biến từ xã hội nô lệ sang xã hội phong kiến) , xã hội
trong tình trạng loạn lạc. Sự chuyển biến sôi động của thời đại này cũng làm xuất hiện nhiều
nhà tư tưởng lớn. Có thể nói đây cũng chình là thời kỳ triết học phát triển rực rỡ nhất. Lịch
sử gọi đây là thời kỳ : “ Bách gia chư tử”. Với những tên tuổi lớn đặt bước khởi đầu cho nền
triết học Trung Quốc như : Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử…..và những học thuyết có ảnh
hưởng sâu rộng như nho giáo, lão giáo….
• Ấn Độ cổ đại:
Ấn Độ là vùng đất có điều kiện tự nhiên , thiên nhiên phong phú, do vậy khoảng 2500 năm
trước cơng ngun, ở Ấn Độ đã có một nền văn minh tương đối phát triển là văn minh sông Ấn
của người Dravia bản địa. Từ thế kỷ thứ 15, xã hội Ấn độ đã diễn ra những biến động lớn, người
Arya từ Trung Á xâm nhập Ấn độ, họ định cư và từng bước đơng hóa người bản địa. Người Arya
bắt đầu xác lập nền văn minh thứ hai trên đất Ấn Độ gọi là nền văn minh Veda.
Đặc điểm kinh tế - xã hội nổi bật của Ấn độ cổ đại là chế độ quốc hữu hóa ruộng đất và

sư tồn tại dai dẳng của công xã nông thơn. Trên cơ sở đó, sự phân hóa giai cấp không rõ rệt.
Trong xã hội tồn tại chế độ đẳng cấp hết sức khắc nghiệt với 4 đẳng cấp cơ bản : Tăng lữ
(Brahman) , Quý tộc (Ksytriya) , bình dân (Vaisya) và tôi tớ, nô lệ ( Ksudra)
Người Ấn độ cổ đại cũng đạt được nhiều thành tựu rất quan trong về thiên văn học, toán
học, y học và kiến trúc…Văn hóa Ấn độ mang dấu ấn sâu đậm về tín ngưỡng, tơn giáo và
văn hóa tâm linh.
 Tất cả những đặc điểm trên là những tiền đề làm nảy sinh và phát triển phong phú
của những tư tưởng triết học.
b. Phương Tây- Hy Lạp cổ đại
Phương Tây chủ yếu là các nước Tây Âu như Anh, Pháp, Đức, Ý, Áo, Tây Ban Nha, Hy
Lạp…với đại biểu chủ yếu cho triết học thời kỳ cổ đại là Hy Lạp cổ đại.
Hy lạp cổ đại là vùng đất có điều kiện địa lý thuận lợi, là cửa ngõ nối liên phương Tây và
phương Đông, tài nguyên thiên nhiên phong phú, khí hậu ơn hịa, giúp cho ngành nống
nghiệp, thủ cơng nghiệp và thương nghiệp phát triển manh mẽ.
Vào thời kỳ cổ đại, Hy Lạp đã có nền kinh tế xã hội và văn hóa tương đối phát triển. Một số
ngành khoa học như toán học, vật lý, thiên văn học đã đạt được những thành tựu rất quan trọng.
Cơ cấu xã hội giai cấp cũng có sự biến đổi nhanh chóng và sâu sắc, tiêu biểu là cuộc đấu
tranh giữa hai tập đồn chủ nơ : chủ nơ dân chủ ( giai cấp tiến bộ, đề xuất chủ trương dân
chủ, cải cách…) và chủ nô quý tộc ( bộ phận bảo thủ,đại diện cho quan hệ sản xuất thống
trị, có quyền lực trong xã hội…)
 Những đặc điểm kinh tế xã hội và văn hóa đã tạo điều kiện cho triết học ra đời và phát
triển rực rỡ, từ triết học Hy Lạp cổ đại đã xuất hiện mầm mống cho hầu hết các loại
thế giới quan triết học phương Tây sau này.

Page 5


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU


Sự khác nhau cơ bản của triết học phương Đông và phương Tây
Mục đích của triết học
Mục đích của triết học phương Tây là nhận thức để cải tạo thế giới, triết học trở thành công cụ
giúp cho con người chinh phục tự nhiên => Triết học phương Tây gắn với khoa học tự nhiên.
Trong khi đó mục đích của triết học phương Đông lại chủ yếu nhằm xây dựng những
con người lý tưởng, khôi phục lại trật tự xã hội đã mất (nho giáo) hay giải thoát con người
(phật giáo), làm con người hòa đồng với thiên nhiên (đạo giáo)… => Triết học phương
Đơng gắn với chính trị xã hội.
2.2.2 Phương pháp tiếp cận của triết học
2.2.
2.2.1

Triết học phương Tây đi từ cụ thể đến khái quát cho nên nó là tư duy tất định – tư duy vật
lý, tức là đi từ bản thể luận, đến nhận thức luận. Triết học phương Đông lại đi từ khái quát
đến cụ thể bằng các ẩn dụ triết học với những câu cách ngôn, ngụ ngơn nên khơng chính
xác,khơng thể hiện rõ ràng nhưng lại hiểu cách nào cũng được,đã gói được cả cái ngẫu
nhiên mà ngày nay khoa học gọi là khoa học hỗn mang – dự báo.
Triết học phương Tây đi từ gốc lên ngọn (từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận… từ đó
xây dựng nhân sinh quan con người ) trong khi triết học phương Đông đi từ ngọn xuống gốc (từ
nhân sinh quan, vấn đề cách sống, lối sống sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể luận…)
Nếu như ở phương Tây, triết học được xây dựng bởi chủ yếu là các nhà khoa học, gắn
liền với các thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên thì ở phương Đơng, triết học
gắn với những hiền triết – nhà tôn giáo, nhà giáo dục đạo đức, chính trị-xã hội.
Vậy nên đặc điểm chủ đạo là các nhà Triết học phương Tây thiên về giải thích thế giới
theo nhiều cách cịn mục đích chính của phương Đơng là cải tạo thế giới gồm có: ổn định xã
hội, giải thoát cho con người và làm sao cho con người hoà đồng với thiên nhiên.
Nguồn gốc là do ở phương Đông, thượng tầng kiến trúc ra đời trước và thúc đẩy dự phát
triển của hạ tầng cơ sở, còn ở phương Tây hạ tầng cơ sở quyết định đến thượng tầng kiến trúc.
2.2.3 Đối tượng nghiên cứu của triết học

Triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ giữa con người và vũ
trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên tắc “ thiên nhân hợp nhất”. Tức là lấy con người
làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu – tính chất hướng nội, nghiên cứu thế giới cũng chỉ nhằm
làm rõ con người. Vấn đề bản thể luận trong triết học phương Đông bị mờ nhạt. Phương đông
đặt trong tâm nghiên cứu mối quan hệ người với người và đời sống tâm linh, ít quan tâm đến
mặt sinh vật của con người, chỉ nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay ác theo lập trường của giai
cấp thống trị. Cho nên nghiên cứu con người khơng phải là để giải phóng con người mà là để
cai trị con người, không thấy quan hệ người với người trong lao đông sản xuất.
Triết học phương Tây lại nhấn mạnh: Tách con người ra khỏi vũ trụ (Thế giới khách
quan), coi con người là chủ thể, còn thế giới là khách thể, con người cần nghiên cứu, chinh
phục vũ trụ - thế giới khách quan, tức là đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – mang tính
chất hướng ngoại. Vấn đề con người chỉ được nghiên cứu để giải thích thế giới mà thơi.
Cho nên phương Tây bàn đậm nét về bản thể luận của vũ trụ, ít quan tâm đến mặt xã hội
của con người, để cải tạo cái tự nhiên – mặt sinh vật trong con người, chú ý giải phóng
con người về mặt nhận thức, không chú ý đến nguyên nhân kinh tế xã hội , cái gốc để giải

Page 6


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

phóng con người…Sau này triết học Mác – Lê Nin đã khắc phục nhược điểm này của triết
học phương Tây.
2.2.4 Sự khác nhau về phương pháp nhận thức
Triết học phương Tây ngả về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ cịn phương Đơng thì ngả về
dùng trực giác.
Triết học phương Tây thường dựa trên tư duy lý tính, mang tính chất trừu tượng. Triết
học phương Đông ngược lại thường dùng trực giác, tức là đi thẳng đến sự hiểu biết, vào cái

sâu thẳm bản chất của sự vật, hiện tượng.
Triết học phương Tây có xu hướng tách chủ thể với khách thể để nhận thức cho khách
quan cịn triết học phương Đơng lại cho rằng người nhận thức và đối tượng nhận thức cùng
hoà hợp vào nhau (đặt cùng trong 1 hệ quy chiếu) thì nhận thức sẽ dễ dàng.
Phương tiện nhận thức của triết học phương Tây là khái niệm, mệnh đề, biểu thức lơgíc
để đối tượng mơ tả rõ ràng, thống nhất hơn thì trong triết học phương Đơng lại là ẩn dụ, liên
tưởng, hình ảnh, ngụ ngơn… để khơng bị lưới giả về nghĩa do khái niệm che phủ. Nhưng
điểm yếu của triết học phương Đơng chính là sự đa nghĩa, nhập nhằng khác biệt khi qua các
phân tích khác nhau.
Do phương pháp nhận thức khác nhau dẫn tới hệ thống thuật ngữ của triết học phương
Đông và phương Tây cũng khác nhau trên 3 mảng lớn :
- Về bản thể luận : Phương Tây dùng thuật ngữ “ giới tự nhiên”,”bản thể”, “vật chất”, “ý
thức”. Phương đông dùng thuật ngữ : “ thái cực”, “đạo”, “sắc”, “hình”, “vạn pháp”…..
- Về nhận thức luận (tính chất, sự biến đổi của thế giới) : Phương Tây dùng thuật ngữ “
biện chứng” “ siêu hình” “thuộc tính” “vận động” “ đứng im”, nhưng lấy cái đấu tranh,
cái động là chính. Phương Đông dùng thuật ngữ “ động – tĩnh”,” biến dịch” “ vô
thường” “ vô ngã “, thường lấy cái thống nhất, cái tĩnh làm gốc.
- Khi diễn đạt về mối quan hệ của các sự vật, hiện tượng thế giới : Phương Tây dùng thuật
ngữ “ liên hệ”, “ quan hệ” “ quy luật”… Phương Đông dùng “ đạo” “lý” “mệnh” “thần”…
2.2.5 Dạng tồn tại của triết học phương Đông và phương Tây
Ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới dạng thuần túy mà thường
đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ lấy cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để
tồn tại và phát triển cho nên ít có những triết gia với những tác phẩm triết học độc lập.
Còn ở phương Tây ngay từ thời kỳ đầu triết học đã là 1 môn khoa học độc lập với các
môn khoa học khác mà các môn khoa học khác lại thường ẩn dấu đằng sau triết học. Thời kì
trung cổ là điển hình : Khoa học muốn tồn tại phải khốc áo tơn giáo, phải tự biến mình
thành một bộ phận của giáo hội.
2.2.6 Bước phát triển của triết học phương Đông và phương Tây
Lịch sử triết học phương Đơng ít thấy những bước nhảy vọt về chất có tích vạch thời đại,
mà chỉ là sự phát triển cực bé, kế tiếp, xen kẽ. Các trường phái triết học phương Đơng vẫn

giữ ngun tên gọi và hình thức biểu hiện, nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển
cục bộ, thêm bớt hay đi sâu vào từng chi tiết, nhưng vẫn trên cơ sở nhân lễ chính danh,
nhưng có cải biên về một phương diện nào đó. Các nhà triết học phương Đơng thì chỉ giới
hạn trong khuôn khổ ủng hộ hay bỏa vệ quan điểm hay một hệ thống nào đó để hồn thiện
và phát triển hơn là vạch ra sai lầm và không đặt ra mục đích tạo ra thứ triết học mới.

Page 7


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

-

-

-

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

Những nhà tư tưởng ở giai đoạn lịch sử sau thường cho mình là học trò,là kế tục sự nghiệp
của những nhà sáng lập ra học thuyết giai đoạn trước.
Ngược lại phương Tây : ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên cạnh trường phái cũ lại có
những trường phái mới xuất hiện,có những trường phái cịn phát huy tác dụng nhưng cũng
có những trường phái đã đi vào lịch sử, đồng thời có những trường phái ra đời có tính chất
vạch thời đại như cổ đại có trường phái Tales,Herales…triết học khai sáng Pháp, chủ nghĩa
duy vật ở Anh, Hà Lan, triết học cổ điển Đức….Tình hình đó phản ánh tính giai đoạn có ý
nghĩa nhảy vọt trong sự phát triển của lịch sử triết học phương Tây. Cuộc đấu tranh giữa
duy tâm và duy vật mang tính chất quyết liệt và triệt để hơn.
2.2.7 Sự phân chia, phân loại các trường phái triết học
Ở phương Đông đan xen các trường phái, yếu đố duy vật, duy tâm, biện chứng, siêu hình

khơng rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi sâu vào nội dung cụ thể thường là có
mặt duy tâm, có mặt duy vật, sơ kỳ là duy vật, hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm.
Ở phương Tây, sự phân chia các trường phái rõ nét, các hình thức tồn tại lịch sử rất rõ
rang như duy vật chất phác thô sơ đến duy vật siêu hình, đến duy vật biện chứng. Hay biện
chứng sơ khai đến biện chứng duy tâm, đến biện chứng duy vật.
3. Các thời kỳ phát triển chủ yếu của triết học phương Tây và đặc điểm cơ bản của chúng.
3.1.
Những đặc điểm cơ bản của triết học Hi-lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp
chủ nô thống trị. Nó là cơng cụ để giai cấp này duy trì trật tự xã hội, củng cố vai trị của mình.
Cho nên ngày từ khi mới ra đời, triết học Hy Lạp cổ đại đã mang tinh giai cấp sâu sắc.
Triết học Hy Lạp đã có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy
vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vơ thần và hữu thần. Tồn bộ nền triết học thế giới
sau này cũng dựa trên những nền tảng cơ bản đó.
Tính chất bao trùm về mặt lý luận của triết học đối với tất cả các lĩnh vực của nhận thức,
khơng có đối tượng nghiên cứu riêng mà chủ yếu là nghiên cứu tri thức chung.
Tính đa dạng, mn vẻ, sự phân cực quyết liệt làm nên đặc điểm tiếp theo của triết học Hy
Lạp cổ đại.
Tính biện chứng chất phác, sơ khai, thể hiện trong việc lý giải tự nhiên, khám phá các quy
luật nhận thức, trong cá đối thoại và tranh luận nhằm đạt tới chân lý.
Sự ưu tiên nhận thức thế giới bên ngoài, tự nhiên hơn là những vấn đề con người. Giá trị
con người chủ yếu được bàn đến ở khía cạnh đạo đức.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã biết gắn bó chặt chẽ triết học với khoa học tự nhiên để
tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau để hương tới việc xây dựng thế giới quan
tổng thể.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tiêu biểu thời kỳ này : Heraclitte, Democrite, Platon,
Aritxtot , Xocrat.
3.2.
Triết học kinh viện châu Âu thời trung đại
3.2.1 Điều kiện văn hóa, xã hội thời kỳ này

Từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ XI, nền kinh tế châu Âu là nền kinh tế tự nhiên, tự cung
tự cấp. Xã hội phân ra làm hai giai cấp thống trị và bị trị. Cơ cấu xã hội phức tạp nên có

Page 8


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

nhiều lực lượng xã hội phát triển, trong đó quan trọng nhất là lực lượng tơn giáo. Tơn giáo
có vai trị thống trị trong xã hội, đặc biệt là đạo cơ đốc.
Từ thế kỷ XII đến thể kỷ XV, nền kinh tế nông nghiệp, thủ cơng nghiệp, thương mại có
sự phát triển mới, dân sơ tăng, vì vậy xã hội hình thành nhiều giai cấp trung gian. Chính sự
phát triển kinh tế, văn hóa xã hội như vậy nên quy định nội dung và tính chất của triết học
trung đại. Nét đặc thù của triết học châu Âu trung đại là triết học kinh viện có xu hướng “
hướng ngoại”, có nhiệm vụ chính là “đầy tớ của thần học”.
Thế kỷ XIX trở đi, cơ đốc giáo giữ vai trò thống trị trong xã hội, triết học của cơ đốc giáo
hình thành, biến thành phương tiện bảo vệ, cơ đốc giáo gọi là kinh viện. Triết học có xu
hướng tách rời đời sống thực tiễn, chỉ dựa vào uy tín của tơn giáo 1 cách mù quáng. Các vấn
đề cơ bản mà triết học kinh viện quan tâm : mối quan hệ giữa tri thức và niềm tin.
3.2.2 Đặc điểm của triết học kinh viện châu Âu thời trung đại
Xuất phát từ những giáo điều chung của thần học, tuyệt đối tin tưởng vào cơ đốc giáo,
dựa trên lơgic hình thức, triết học kinh viện định ra những quy tắc giáo điều chung cho hoạt
động của con người tách rời thực tiễn. Chủ nghĩa kinh viện là cơ sở lí luận của trật tự xã hội
phong kiến. Nội dung quan điểm của triết học kinh viện không nhất quán: lúc đầu chịu ảnh
hưởng quan điểm của Platon, được thánh Augustin nhào nặn lại (giai đoạn sơ kì), sau
chuyển sang chịu ảnh hưởng quan điểm của Aristote qua tư duy của thánh Thomas ( giai
đoạn chín muồi). Trong giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa đế quốc, triết
học kinh viện được phục hồi và cách tân (chủ nghĩa kinh viện mới trùng với chủ nghĩa

Thomas mới) vào thế kỉ 16 - 17.
Cuộc tranh luận chính của triết học kinh viện xoay quanh vấn đề những khái niệm phổ
biến (chính là vấn đề cái phổ biến và cái đơn nhất).Triết học kinh viện phủ nhận quy nạp,
coi trọng diễn dịch (hình thức cơ bản của nó là tam đoạn luận) nhằm tạo ra những quy tắc
chặt chẽ của tư duy. Là "đầy tớ" của thần học, triết học kinh viện cản trở sự phát triển của
khoa học tự nhiên.Thành tựu của những nhà kinh viện trong lĩnh vực lơgic chính là dự báo
trước một số vấn đề của lôgic hiện đại, trong đó có lơgic tốn. Triết học kinh viện là triết
học của giai cấp phong kiến, đã kìm hãm sự phát triển của khoa học và triết học duy vật.
Cuộc đấu tranh giữa hai phái Duy thực và Duy danh cũng là đặc trưng của tư tưởng triết
học Trung đại Tây Âu. Xét đến cùng, cuộc đấu tranh này phản ánh ít nhiều hai xu hướng
triết học đối lập nhau: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Phái Duy thực luận chứng
về mặt triết học sự tồn tại có thật, duy nhất của cái chung; cịn phái Duy danh thì ngược lại,
chứng minh cho sự tồn tại duy nhất, có thật của cái riêng. Phái Duy danh có khuynh hướng
duy vật, phái Duy thực lại có xu hướng duy tâm về triết học.
3.3.
Chủ nghĩa nhân văn thời kỳ Phục hưng
Chủ nghĩa nhân văn là trào lưu tư tưởng và văn hoá thời Phục hưng ở châu Âu. Đây là
một phong trào chống Thiên chúa giáo nhằm đề cao con người, giải phóng cá nhân khỏi sự
đè nén tinh thần của chế độ phong kiến, chống chủ nghĩa kinh viện và giáo hội, hướng con
người vào xây dựng cuộc sống thực tại. Lịch sử ra đời của chủ nghĩa nhân văn được xác lập
từ khi xuất hiện phong trào Phục hưng.

Page 9


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

-

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU


Với tinh thần đấu tranh chống lại sự cai trị hà khắc của chế độ phong kiến, chủ nghĩa
nhân văn trở thành một trào lưu tư tưởng hiện thực với sức mạnh to lớn và có ý nghĩa sâu
sắc. Tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa nhân văn Phục hưng được kết tinh trong khẩu hiệu "Tự
do - Bình đẳng - Bác ái", từ hành vi muốn lật nhào chế độ phong kiến, đem Louis XVI ra
chém đầu trước quảng trường Louvere, lập nên nước Cộng hòa ở Pháp.
Chủ nghĩa nhân văn - đó là đỉnh cao của những lý tưởng, lý luận, quan điểm nhằm kêu
gọi, thức tỉnh và phục vụ cho lợi ích của lồi người tiến bộ, đặc biệt là những người lao
động, để giúp con người tự khẳng định những giá trị cao đẹp, tài năng và nhân phẩm của
bản thân. Từ những cơ sở thực tiễn và lý luận ấy, nội dung chính của chủ nghĩa nhân văn
Phục hưng gồm:
- Thế giới do tự nhiên sinh ra, không phải do Chúa Trời tạo nên.
- Con người là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên, chứ không phải do Chúa tạo ra từ
"mẩu đất" hay cái "xương sườn cụt".
- Cuộc sống không phải là nơi đày ải mà là nơi con người có thể xây hạnh phúc dưới
trần thế, không phải đợi ngày mai lên thiên đàng.
- Cuộc đời chứa đựng vô vàn cái đẹp mà con người là trung tâm của cái đẹp, vì thế
con người phải trở thành đối tượng của nghệ thuật.
Như vậy, chúng ta có thể thấy, chủ nghĩa nhân văn Phục hưng là cuộc cách mạng diễn ra
trên lĩnh vực văn hoá và tư tưởng. Nghĩa là chủ nghĩa nhân văn đã chuẩn bị tiền đề tư tưởng,
thực hiện "cuộc cách mạng" trong nhận thức để con người thực hiện cuộc cách mạng xã hội
trong thực tiễn.
3.4.
Đặc điểm và những khuynh hướng cơ bản của triết học tây Âu thời cận đại
Kinh tế tư bản chủ nghĩa đang trên đà phát triển mạnh mẽ, địi hỏi khoa học phải thốt
khỏi xiềng xích của tơn giáo, thần học và triết học kinh viện. Vì vậy triết học duy vật có
điều kiện phát triển mạnh mẽ. Khoa học cũng có bước phát triển vượt bậc, nhiều phát minh
sáng chế ra đời như sự phát hiện ra sự tuần hồn của máu; phát hiện ra tính chất sóng và hạt
của ánh sáng; sáng chế ra kính thiên văn, hàn thử biểu... Những phát minh, sáng chế này đã
hậu thuẫn cho triết học duy vật biện chứng ra đời.

Thời kỳ cận đại của châu Âu cũng là thời kỳ chủ nghĩa thực dân kiểu cũ hình thành.
Chủ nghĩa tư bản đã thực hiện chiến tranh xâm lược thuộc địa để mở rộng lãnh thổ và thị
trường, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở các vùng đất thuộc địa, chiến tranh tôn giáo nảy
sinh. Tất cả những điều này đã đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi các nhà tư
tưởng phải giải quyết. Trên cơ sở đó đã thúc đẩy sự phát triển của triết học.
Triết học Tây Âu thời kỳ thế kỷ XVII – XVIII về cơ bản có những đặc điểm sau:
Triết học duy vật có xu thế phát triển rực rỡ, là thế giới quan, ý thức hệ của giai cấp tư sản
đang lên, đang còn tiến bộ, cách mạng chống lại giai cấp phong kiến lỗi thời, lạc hậu. Tuy
nhiên, khi cách mạng tư sản thành cơng thì triết học duy vật có xu hướng nhường chỗ cho
triết học duy tâm, triết học chủ quan, không thể biết. Điều này thể hiện rõ ở thế kỷ XVII tư
tưởng triết học duy vật thể hiện rõ nét trong các nhà triết học như: Tô-mát Hốp-xơ (1588 –
1679), Giôn Lốc-cơ (1632 – 1704),... Nhưng đến cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII thì tư

Page 10


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

-

-

-

-

-

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU


tưởng triết học duy tâm, triết học chủ quan, không thể biết lại phát triển mạnh, thể hiện ở
các đại biểu như: Gioóc Béc-cơ-ly (1685 – 1753), Đa-vít Hi-um (1711 – 1776)...
Triết học duy vật thời kỳ này khác với triết học duy vật thời kỳ Hy Lạp cổ đại ở nhiều điểm,
nhưng về cơ bản tựu chung ở hai điểm nổi bật:
+ Nếu phép biện chứng là phương pháp cơ bản, chủ yếu trong nhận thức luận của
triết học duy vật cổ đại thì phương pháp siêu hình là phương pháp chủ yếu trong nhận thức
luận của triết học duy vật thời kỳ này.
+ Một số luận điểm của triết học duy vật thời kỳ này đã được chứng minh bằng
những thành tựu của khoa học thực nghiệm đương thời chứ không cịn là những phỏng đốn
như thời Hy Lạp cổ đại.
Triết học duy vật thời cận đại có xu hướng đi đến chủ nghĩa vô thần, nhất là ở cuối thế kỷ
XVII – đầu thế kỷ XVIII. Nguyên nhân của xu hướng này là do giai cấp tư sản đang lên
muốn phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa cần có sự phát triển của khoa học kỹ thuật.
Nhưng trở ngại lớn nhất của sự phát triển khoa học kỹ thuật của giai đoạn này là chủ nghĩa
duy tâm tôn giáo và triết học kinh viện. Bởi vậy, để giải phóng khoa học, giai cấp tư sản
phải đấu tranh chống lại tôn giáo, chống lại chủ nghĩa duy tâm, chống triết học kinh viện
thời kỳ Trung cổ.
Triết học thời kỳ này đi sâu nghiên cứu lý luận nhận thức và chia thành hai trường phái cơ
bản: Duy cảm và Duy lý.
+ Triết học duy cảm chính là sự tìm tịi của các nhà triết học trên con đường nhận
thức chân lý, các nhà triết học duy vật đồng thời là các nhà hoạt động xã hội, tiêu biểu như:
Tô-mát Hốp-xơ (1588 – 1679), Giôn Lốc-cơ (1632 – 1704), các nhà triết học duy vật Pháp...
Họ đã đề cao cảm giác trong nhận thức
+ Triết học duy lý: tuyệt đối hóa vai trị của lý tính trong nhận thức, các nhà triết học
duy lý vừa là các nhà triết học duy vật, vừa là các nhà khoa học (toán học), với các đại biểu
tiêu biểu như: Bê-kê-nít Xpi-nơ-za (1632 – 1677) người Hà Lan; Gơ-phrít Vin-hem Lép-nít
(1646 – 1716) người Đức;...
Triết học thời kỳ này đi sâu nghiên cứu vấn đề con người. Con người đã được đề cập đến
cả trong mối quan hệ với tự nhiên và cả trong mối quan hệ giữa con người với con
người.

Triết học trong thời kỳ này có nhiều điểm tiến bộ, nhưng vẫn cịn hạn chế nhất định. Hạn
chế cơ bản nhất là tính siêu hình máy móc. Điều này có nhiều ngun nhân, nhưng tựu trung
có ba nguyên nhân cơ bản:
+ Khoa học thời kỳ này mới đang ở dạng tích lũy, thu thập chứng cứ; khoa học lý
luận chưa phát triển, chủ yếu vẫn là khoa học thực nghiệm và đặc biệt là sự phát triển hơn
cả của cơ học đã dẫn đến sự ảnh hưởng mạnh mẽ của cơ học đến triết học.
+ Do ảnh hưởng của nền kinh tế thủ công, nền kinh tế dựa trên phương pháp sản xuất
đơn lẻ, tách biệt giữa các khâu trong quá trình sản xuất đã làm cho cách nhìn nhận của con
người về thế giới và về chính bản thân con người cũng mang tính đơn lẻ, rời rạc...
+ Giai cấp tư sản để bảo vệ lợi ích của mình đã muốn đưa cách nhìn siêu hình vào

Page 11


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

-

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

trong xã hội để có cơ sở khẳng định chủ nghĩa tư bản là sự bất biến, vĩnh cửu, là sự tột cùng
của sự phát triển.
Triết học thời kỳ này có những tư tưởng tiến bộ về mặt xã hội, đặc biệt là các nhà triết học
duy vật Pháp thế kỷ XVIII, đã thể hiện tinh thần đấu tranh chống lại xã hội phong kiến,
chống lại thói mê tín, đạo đức giả; các nhà triết học đã ca ngợi tự do, bình đẳng, bác ái. Tuy
nhiên, hạn chế chung của triết học thời kỳ này nói chung, chủ nghĩa duy vật nói riêng là chủ
nghĩa duy vật chưa triệt để, vẫn duy tâm trong việc giải thích các vấn đề lịch sử, xã hội, tinh
thần. Mặc dù vậy, triết học thời kỳ này cũng đã đóng vai trị to lớn trong cuộc đấu tranh
chính trị - xã hội, thúc đẩy sự phát triển của triết học sau này.
3.5.

Triết học cổ điển Đức và giá trị lịch sử của nó
3.5.1 Điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội
Đến cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản được thiết lập và phát triển mạnh
mẽ ở hầu hết các nước Tây Âu. Thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra bước
nhảy đột biến trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khẳng định tính ưu việt hơn hẳn
chủ nghĩa tư bản so với tất cả các xã hội trước đó. Trong khi đó nước Đức vẫn ì ạch trong
chế độ phong kiến, xu hướng phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa đã bị chế độ phong
kiến quan liêu cản trở. Giai cấp Tư sản nằm mơ về cách mạng tư sản Pháp nhưng lại không
dám hành động.
Bối cảnh chính trị - xã hội và sự phát triển của khoa học ở Tây Âu và nước Đức lúc đó
chứng tỏ sự hạn chế và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất
của các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ
XIX. Nó địi hỏi cần có cách nhìn mới về bản chất các hiện tượng tự nhiên và tiến trình lịch
sử nhân loại cũng như cần có quan niệm mới về khả năng và vai trò của con người.
3.5.2 Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp Tư sản Đức cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX.
Triết học cổ điển Đức đặc biệt đề cao vai trị, vị trí tích cực của con người. Kế thừa và
phát huy những tư tưởng thời kỳ Phục Hưng và cận đại, các nhà triết học cổ điển Đức đã
khẳng định con người là chủ thể, là sản phẩm của hoạt động tự nó, cho nó và vì nó cho nên
thực tiễn cao hơn lý luận, lịch sử chỉ là phương thức tồn tại của con người. Cá nhân có thể
làm chủ được vận mệnh của mình và cao hơn là tư tưởng con ngời trong bản chất xã hội =>
đã làm một bước rẽ trong việc hình thành và phát triển của triết học, đó là lấy con người làm
nền tảng, xuất phát điểm của mọi vấn đề triết học.
Trong triết học cổ điển Đức thực tiễn và khoa học đã đặt ra yêu cầu là cần phải có
phương pháp tư duy để phản ánh chân thực về tồn tại mà lại thể hiện được tinh thần cách
mạng của thời đại. Các nhà triết học Đức đã tiếp thu những tư tưởng biện chứng trong di sản
triết học truyền thống để xây dựng lên phép biện chứng của mình. Lần đầu tiên phép biện
chứng tồn tại là một phương pháp nhận thức có tính đồng kết, được biểu hiện chặt chẽ qua
hệ thống các khái niệm phạm trù. Mặc dù là phép biện chứng duy tâm nhưng vẫn được nhà

sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin đánh giá cao. Đó là một trong những cơ sở lý luận được triết
học Mác đề ra.

Page 12


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

3.5.3 Giá trị lịch sử của triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức mạng lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến trình lịch sử
nhân loại, nó đề cao vai trị hoạt động tích cực của con người. Coi con người là chủ thể hoạt
động, là vấn đề nền tảng - xuất phát điểm của mọi vấn đề triết học.
Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn nhưng nó đã tạo ra những
thành quả kì diệu trong lịch sử triết học. Một trong những thành tựu to lớn của triết học cổ
điển Đức là nó khẳng định rằng tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong chừng mực con
người nhận thức và cải tạo thế giới. Con người là chủ thể đồng thời là kết quả của toàn bộ
nền văn minh do chính mình tạo ra. Nghiên cứu tiến trình lịch sử nhân loại cũng như tồn
bộ mối quan hệ con người - tự nhiên như một quá trình phát triển biện chứng. Tuy từ lập
trường duy tâm nhưng các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng lên các hệ thống triết học
độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, logic biện chứng, học thuyết về các q trình phát
triển mà nổi trội nhất đó là phép biện chứng.
Có thể nói triết học cổ điển Đức đã phát triển một cách vượt bậc về mọi mặt trong lịch sử
triết học phương Tây. Triết học cổ điển Đức là một trong những tiền đề lí luận cơ bản của
triết học Mác và toàn bộ chủ nghĩa Mac-Lenin nói chung. Những hạn chế của triết học cổ
điển Đức đã được triết học Mác kế thừa, khắc phục và nâng lên ở trình độ mới của chủ
nghĩa duy vật hiện đại.
Một số triết gia tiêu biểu cho triết học cổ điển Đức : Imanuel Kant, Johann Gottlieb
Fichte, Friedrich Wilhelm Joseph Schelling, Georg Vinhem Phridich Hegel, Ludwid

Feuerbach…
3.6.
Một số trào lưu triết học phương Tây phi mác - xit hiện đại
3.6.1. Chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học chủ yếu trong trào lưu chủ nghĩa nhân
bản phi duy lý. Triết học hiện sinh đặt lên vị trí hàng đầu tính đặc thù độc đáo của tồn tại
con người. Tính độc đáo này khơng thể nhận thức bằng khái niệm và cũng không thể diễn
đạt qua ngôn ngữ.
Về mặt bản thể luận, các nhà hiện sinh phân biệt hai khái niệm: hữu thể và hiện hữu (hiện
sinh). Hữu thể là khái niệm chỉ một cái gì đó (một vật, một người) đang tồn tại, đang có
mặt, nhưng chưa là một cái gì đó cụ thể cả, chưa có diện mạo, chưa có cá tính, tức là chưa
hiện hữu. Còn hiện hữu (hiện sinh) là một khái niệm chỉ một cái gì đó khơng những là đang
có mặt (tồn tại) mà cịn là đang sống đích thực với diện mạo riêng. Do đó, hiện sinh khơng
phải là giới tự nhiên hoặc sự vật, mà là con người. Bởi vì chỉ có con người mới có thể hiểu
được sự tồn tại của bản thân và của sự vật khác, chỉ có con người mới hiện sinh. Do đó,
nhiệm vụ của triết học khơng phải tìm xem vật chất có trước ý thức như thế nào mà là tìm
xem bản thể của hiện sinh là gì? Nghĩa là phải xem xét bản chất con người trong hoạt đông
phi ký tính như thế nào. Thực chất, đây là bản thể luận duy tâm chủ quan.
Về mặt nhận thức luận, chủ nghĩa hiện sinh cho rằng, những tri thức thu được bằng khoa
học dựa trên lý tính là hư ảo. Người ta càng dựa vào lý tính và khoa học thì càng khiến mình
bị chi phối, từ đó bị tha hố. Theo họ, để đạt đến hiện sinh chân chính thì chỉ có thể dựa vào
cảm thụ chủ quan vào trực giác phi lý tính.

Page 13


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU


Về đạo đức, chủ nghĩa hiện sinh phản đối mọi hình thức quyết định luận trong đạo đức,
phủ nhận sự tồn tại phổ biến của những nguyên tắc đạo đức. Chủ nghĩa hiện sinh đề cao sự
lựa chọn tự do cá nhân. Tự do cá nhân là tuyệt đối. Rõ ràng, quan điểm về tự do của chủ
nghĩa hiện sinh là quan điểm của chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
Về quan điểm lịch sử xã hội, chủ nghĩa hiện sinh xuất phát từ tự do cá nhân tuyệt đối, cho
rằng chỉ có cá nhân mới là hiện sinh chân thực, xã hội chỉ là một phương thức hiện sinh của
cá nhân, hơn nữa là phương thức hiện sinh khơng chân thực. Chính sự tồn tại của xã hội đã
bóp chết cái cá nhân, cái hiện sinh chân chính của cá nhân. Động lực phát triển của xã hội là
ở hiện sinh của các cá nhân.
3.6.2. Chủ nghĩa Phơrớt
Chủ nghĩa Phơrớt cũng là một trường phái có ảnh hưởng rất lớn của trào lưu chủ nghĩa
nhân bản phi duy lý do nhà bệnh học tinh thần, nhà tâm lý học người Áo - Phơrớt sáng lập
vào đầu thế kỷ XX. Học thuyết và phương pháp của Phơrớt có ý nghĩa thế giới quan và
nhân sinh quan triết học, có ảnh hưởng rộng lớn đối với các trường phái của chủ nghĩa nhân
bản triết học phương Tây hiện đại.
Lý luận về vô thức là bộ phận quan trọng trong hệ thống phân tích tâm lý đầu tiên của
Phơrớt. Ơng chia q trình tâm lý của con người thành ba bậc: Ý thức, tiềm thức và vô thức.
Sự suy nghĩ của con người thường tiến hành giữa trạng thái vô thức và ý thức. Ý thức là tâm
lý nhận biết của con người. Cịn vơ thức là hiện tượng tâm lý nằm ngoài phạm vi của lý trí,
do bản năng, thói quen và dục vọng của con người gây ra. Tiềm thức là yếu tố trung gian, ở
giữa ý thức và vô thức, hoạt động theo ngun tắc của tính hiện thực. Theo ơng, ý thức
khơng phải là thực chất của hoạt động tâm lý mà chỉ là một thuộc tính khơng ổn định của
hoạt động tâm lý. Vô thức mới là căn cứ của hành vi con người.
Phơrớt có cống hiến quan trọng trong việc đề xuất việc nghiên cứu vai trị của vơ thức trong
hệ thống phân tích tâm lý nhưng ơng sai lầm là đã khuếch đại tác dụng của vô thức đối với hành
vi của con người, không đánh giá đúng vai trò của ý thức và các điều kiện xã hội.
Trong lý luận về nhân cách, Phơrớt đưa ra ba khái niệm “cái ấy”, “cái tôi” và “cái siêu
tôi”. Trạng thái tâm lý của người bình thường là người giữ được sự cân bằng giữa ba cái.
Những người mắc bệnh tâm thần là do mối quan hệ cân bằng giữa ba cái đó bị phá hoại.
Thuyết tính dục: tính dục là xung đột vĩnh hằng, ngay cả khi bị ý thức và tiền ý thức áp

chế, nó vẫn tìm cách bộc lộ ra, có khi bằng hệ thống ngụy trang xâm nhập vào hệ thống ý
thức. Do đó, về tâm lý thường có hiện tượng nằm mơ và những bệnh tâm thần khác. Nguyên
nhân của nhiều loại bệnh tâm thần là do bản năng tính dục bị đè nén. Bản năng tính dục của
con người là cơ sở duy nhất cho các hoạt động của con người.
Là một nhà khoa học, Phơrớt đã tiếp thu truyền thống duy vật của khoa học tự nhiên cổ điển
và của thuyết tiến hoá. Tuy nhiên trong thế giới quan triết học của ông bộc lộ những yếu tố duy
tâm khi ông đã sinh vật hoá những cái thuộc về tâm lý của con người, tự nhiên hố những cái
thuộc về lồi người, tâm lý hoá những cái thuộc về xã hội, và tuyệt đối hố cái tâm lý trong đời
sống của con người. Có thể xem đó cũng là những sai lầm của chủ nghĩa Phơrớt.
3.6.3. Chủ nghĩa thực dụng

Page 14


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

-

-

-

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

Chủ nghĩa thực dụng là một trường phái triết học phương Tây hiện đại đề cao kinh
nghiệm và hiệu quả, ra đời vào cuối thế kỷ XIX ở nước Mỹ.
Nguyên tắc căn bản trong phương pháp luận của chủ nghĩa thực dụng là lấy hiệu quả,
công dụng làm tiêu chuẩn. Một đặc điểm làm cho chủ nghĩa thực dụng khác với triết học
truyền thống là nó đã đi vào triết học từ phương pháp.
Về nhận thức luận: Chủ nghĩa thực dụng nói đến một phương thức tư duy đặc thù.

Phương thức tư duy đó khơng xem xét khái niệm ở bản thân khái niệm mà đi sâu nghiên
cứu xem khi được sử dụng thì nó sản sinh ra hậu quả gì. Khái niệm và lý luận không phải là
sự giải đáp về thế giới.
Như vậy, chủ nghĩa thực dụng đã tuyệt đối hoá tác dụng của ý chí con người nên rơi vào
chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy ý chí.
Quan niệm về chân lý của chủ nghĩa thực dụng : Muốn xét một quan niệm có phải là
chân lý hay khơng, thì khơng cần phải xem nó có phù hợp với thực tế khách quan hay
không, mà phải xem nó có đem lại hiệu quả hữu dụng hay khơng. Hữu dụng và vô dụng đã
trở thành tiêu chuẩn để phân biệt chân lý và sai lầm. Quan niệm này khơng có căn cứ vì cái
này hữu dụng với người này nhưng lại vô dụng với người kia. Vậy không thể có chân lý
đúng với người này và khơng đúng với người kia trong cùng một thời điểm được.
3.6.4. Chủ nghĩa thực chứng
Chủ nghĩa thực chứng có ảnh hưởng lớn và lâu nhất trong các trường phái theo chủ nghĩa
duy khoa học.
Các nhà triết học thực chứng cho rằng chỉ có các hiện tượng hoặc sự kiện, mới là “cái
thực chứng”, do đó họ khơng thừa nhận bất cứ cái gì ngồi hiện tượng, khơng thừa nhận bản
chất của sự vật. Theo họ, những “khoa học” nào mà không “thực chứng” được thì khơng
phải là triết học. Từ đó, họ đi đến kết luận con người không cần tới triết học, vì triết học
khơng phải là khoa học.Điều này đồng nghĩa với việc họ phủ định triết học Mác-Lênin.
Chủ nghĩa thực chứng có những hình thức khác nhau của mình trong sự phát triển:
Chủ nghĩa thực chứng mới: Chủ nghĩa thực chứng mới, hoặc triết học phân tích được hình
thành vào đầu thế kỷ XX coi nhiệm vụ phân tích hình thức và phân tích lơgíc là nội dung
chủ yếu của triết học.
Giữa thập kỷ 20 của thế kỷ XX, xuất hiện chủ nghĩa thực chứng lơgíc, trường phái này phủ
nhận các vấn đề chủ yếu thường được nghiên cứu trong triết học truyền thống. Theo họ, triết
học chỉ còn nhiệm vụ tiến hành sự phân tích kết cấu lơgíc đối với tất cả mọi mệnh đề khoa
học dựa trên các tài liệu thực chứng (kinh nghiệm).
Trước và sau chiến tranh thế giới thứ hai, trong triết học phân tích lại xuất hiện phái ngôn
ngữ học thường ngày. Trường phái này lại quy triết học thành sự phân tích ngơn ngữ tự
nhiên, phủ định ý nghĩa thế giới quan của triết học.

Như vậy, các triết gia thuộc trào lưu chủ nghĩa duy khoa học chủ trương xây dựng triết
học theo mơ hình "các khoa học thực chứng". Theo họ, triết học không nên nghiên cứu
những vấn đề như bản chất của sự vật, các quy luật chung của thế giới, v.v mà đi tìm
phương pháp khoa học có hiệu quả nhất, đáng tin cậy nhất mới là nội dung chủ yếu của việc
nghiên cứu triết học.

Page 15


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

Chủ nghĩa duy khoa học đã có cơng đi sâu nghiên cứu và tiếp thu nhiều thành quả trong
toán học và trong các khoa học tự nhiên hiện đaị, trong đó có những nhân tố tích cực, hạn
chế của nó là phủ nhận ý nghĩa thế giới quan của triết học, tức là phủ nhận bản chất triết
học. Vì vậy, chủ nghĩa duy khoa học không thể mở ra một con đường mới cho triết học.
3.6.5. Chủ nghĩa Thomas mới
Vào cuối thế kỷ XIX một hình thái mới của triết học Thiên Chúa giáo đã xuất hiện ở
phương Tây. Bắt nguồn từ học thuyết của Thánh Thomas ở Akvinô thuộc Italia. Hệ thống
triết học tơn giáo này lấy Chúa làm nịng cốt, lấy đức tin làm tiền đề, lấy thần học làm căn
cứ, và gọi là Chủ nghĩa Thomas mới.
Về nhận thức luận: Chủ nghĩa Thomas mới một mặt thừa nhận tính khách quan của nhận
thức và tính đúng đắn của các phán đoán khoa học, mặt khác lại cho rằng sự tồn tại hữu hạn
của thế giới hiện thực phải có phần của sự tồn tại vơ hạn của Chúa. Từ đó rút ra kết luận là
tri thức lý tính phù hợp với đức tin của con người.
Về triết học tự nhiên: lấy “hình thức” và “vật chất” theo tinh thần triết học của Arixtốt
làm cơ sở nghiên cứu tự nhiên. Đối tượng nghiên cứu cũng chính là đối tượng của đức tin
và thần học. Bởi vì Chúa là hình thức tối cao, là hình thức của các hình thức cho nên việc
nghiên cứu của khoa học tự nhiên là quá trình không ngừng phát hiện ra Chúa, khẳng định

Chúa và không phủ nhận Chúa. Vậy là khoa học và thần học đã hợp tác rất hoà thuận để
phát hiện và chứng minh sự tồn tại vĩnh hằng của Chúa.
Về lý luận chính trị xã hội: Chủ nghĩa Thomas mới phủ nhận sự tồn tại của các giai cấp,
chủ trương thuyết tính người trừu tượng, coi cuộc sống trần thế là tạm thời, cuộc sống tương
lai ở thượng giới mới là vĩnh hằng. Muốn cứu rỗi con người phải dựa vào đức tin của Chúa.
Chủ nghĩa Thomas mới cũng giống như chủ nghĩa Thomas thời trung cổ, vẫn lấy Chúa
làm nguyên tắc tối cao, làm điểm xuất phát và điểm kết của mọi sự vật. Chỗ khác nhau giữa
hai chủ nghĩa đó là: để thích ứng với nhu cầu thời đại, chủ nghĩa Thomas mới đã thừa nhận
ở mức độ nhất định vai trò của khoa học, đã đi sâu hơn vào nhận thức luận và triết học tự
nhiên để luận chứng cho sự nhất trí giữa tri thức và đức tin, khoa học và thần học.

Page 16


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

III- KẾT LUẬN
Lịch sử triết học và khái luận về triết học qua các thời kỳ là vô cùng phong phú.
Nhưng chung quy lại chúng ta đã tìm hiểu được quá trình hình thành và phát triển của triết
học. Mỗi giai đoạn của triết học lại có một đặc thù riêng, mỗi khu vực của triết học lại có
một đặc thù riêng. Qua quá trình phát triển, triết học chia ra làm ba thời kỳ: thời kỳ triết học
cổ đại, thời kỳ triết học trung đại, thời kỳ triết học cận đại.
Triết học chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng. Triết học
chuyển từ nghiên cứu về thế giới quan siêu hình sang nghiên cứu về thê giới quan duy vật
nghiên cứu về tự nhiên và con người, các mối quan hệ giữa thế giới tự nhiên và con người.
Đó là thể hiện một bước tiến đáng kể của lịch sử triết học và là tiền đề cho sự phát triển của
triết học Mác – Lênin sau này.
Ngày nay, Con người được thừa hưởng một nền văn minh nhân loại đó cũng là kết

quả của sự vận động và phát triển của xã hội từ xưa đến nay. Và triết học cũng đóng góp
một phần khơng nhỏ trong sự vận động và phát triển của xã hội,theo như C.Mác đã nói : “
Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình”.

Page 17



×