Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Nhip dieu ke chuyen trong tieu thuyet Vu Trong Phung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.76 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Tìm hiểu nhịp điệu kể chuyện trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng (Tiếp cận qua lý thuyết “thời
gian giả” của G. Genette)


NCS. Nguyễn Mạnh Quỳnh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội


Nhịp điệu kể chuyện là một trong những nhân tố chủ yếu của thời gian tự sự, còn gọi là thời
<i>gian quy ước hay thời gian giả (pseudo-time) - theo cách gọi của Gérard Genette, nhà lý luận </i>
văn học người Pháp. Trong tác phẩm văn học tự sự, người kể chuyện có thể kể tỉ mỉ một
khoảng thời gian nhất định và cũng có thể bỏ qua hoặc chỉ kể rất ít một giai đoạn nào đó của
câu chuyện. Điều này dẫn tới tốc độ tự sự nhanh, chậm khác nhau; có thể gia tốc khi một
khoảng thời gian tương đối dài được kể trong số trang tương đối ngắn, giảm tốc đối với trường
hợp ngược lại, còn đẳng tốc (đồng tốc) là tự sự có tính chất đẳng thời, nghĩa là trần thuật mà
khơng có những biến đổi về tốc độ.


Nghiên cứu nhịp điệu kể chuyện trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng là nghiên cứu khoảng thời
gian ở cấp độ câu chuyện (cái được biểu đạt) được biểu hiện như thế nào trong khoảng thời –
không gian (tức là số trang văn bản truyện hay thời gian giả) ở cấp độ truyện kể (cái biểu đạt);
xem xét sự kết hợp giữa các vận động tự sự và nhịp điệu kể chuyện trong mỗi loại tiểu thuyết
Vũ Trọng Phụng. Mặt khác, đánh giá nhịp điệu ấy có giá trị như thế nào trong việc biểu hiện
nội dung, tư tưởng của tác phẩm.


Về tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, giới nghiên cứu trước nay thường phân ra thành hai kiểu
loại chính là tiểu thuyết – phóng sự (gồm Giơng tố, Số đỏ, Vỡ đê) và tiểu thuyết tâm lý (gồm
<i>Dứt tình, Lấy nhau vì tình, Trúng số độc đắc, Làm đĩ). Chúng tơi nhất trí với cách đặt vấn đề </i>
phân loại này. Tuy nhiên, việc tìm hiểu thời gian tự sự sẽ cho thấy Giông tố thuộc về kiểu loại
khác, khơng hồn tồn tương đồng với các tiểu thuyết – phóng sự.


<b>1. Nhịp điệu kể chuyện tăng dần trong các tiểu thuyết phóng sự (Số đỏ, Vỡ đê)</b>



Muốn khám phá nhịp điệu kể chuyện trong tổng thể chung của tác phẩm tự sự, trước hết, cần
xem xét cụ thể về các vận động tự (narrative movements) trong văn bản truyện. Theo G.
Genette có bốn loại vận động tự sự cơ bản. Lược thuật (summary) và tỉnh lược (ellipsis) là hai
dạng thức dẫn đến sự gia tốc. Ngừng nghỉ (pause) là làm giảm tốc đến mức tối đa. Trường hợp
trung gian là đẳng tốc thể hiện rõ nhất trong các hoạt cảnh (scene). Sự kết hợp giữa các vận
động tự sự này tạo ra nhịp điệu kể chuyện trong văn bản tự sự.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Các tỉnh lược giả định (không thể xác định được khoảng thời gian bị lướt qua là bao lâu, các </i>
sự kiện xảy ra vào thời điểm nào) chủ yếu xuất hiện ở phần giữa của truyện, từ chương VIII
đến chương XVIII (Số đỏ). Các tỉnh lược này đã làm mờ đường biên thời gian lịch đại, rút
ngắn khoảng cách thời gian, tạo ra ấn tượng về sự liền mạch của truyện kể.


Các ngừng nghỉ là những đoạn miêu tả dài của người kể mà trong đó khơng có hành động nào
xảy ra. Trong Số đỏ và Vỡ đê, ngừng nghỉ biểu hiện qua các đoạn tả cảnh hoặc những lời bình
luận bơng lơn, hài hước, cợt nhạo, mỉa mai của người kể chuyện. Những trang tả cảnh hồ Trúc
Bạch, cảnh hiệu may Âu hoá trong Số đỏ hay cảnh hộ đê, cảnh nước lụt, cảnh hạn hán trong
<i>Vỡ đê đã phát huy chức năng quan trọng của ngừng nghỉ là tạo đường viền khơng khí cho </i>
truyện hoặc tạo thành phơng nền cho các hoạt cảnh. Những miêu tả nhiều khi được kết hợp rất
khéo với những lời bình luận hài hước: “Thoạt đầu người ta hay nhảy xuống Hồ Tây, nhưng vì
Hồ Tây sâu lắm, những kẻ tự tử chẳng may phần nhiều khơng mấy ai thốt chết cả, thành thử
người ta bảo nhau nhảy xuống cái bên cạnh là hồ Trúc Bạch nơng hơn (...). Vì những lẽ ấy, hồ
Trúc Bạch chẳng bao lâu mà trở nên một cách oanh liệt, là một sân khấu của tất cả những tấn
đại thảm kịch của những cảnh địa ngục giữa Hà Thành, là những gia đình Việt Nam, những
trở lực tai hại cho những cuộc tự do kết hôn, tự do ly hôn, tự do cải giá, tự do tục huyền” (Số
<i>đỏ). Các ngừng nghỉ như thế đã tạo ra đường viền và bối cảnh cho các hoạt cảnh rất sống động</i>
của truyện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

lại luôn luôn khen ngợi trước mặt cụ Hồng (Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi!...) rằng Xuân là một
người đứng đắn, mặc lòng hãy còn trẻ trung. Cụ cố Hồng đã cơng kênh Xn Tóc đỏ là sinh
viên trường thuốc, trước mặt cụ cố tổ và cụ bà... Những người này vơ tình nhắc lại những lời


ấy cho nhiều người khác cùng biết”. Trong Vỡ đê, đoạn lược thuật những sự kiện diễn ra trong
một tháng rưỡi kể từ ngày nước rút là khá tiêu biểu. Nhịp điệu trần thuật ở đây trở nên dồn
dập, khẩn trương, đặc biệt là ở những giai đoạn căng thẳng của truyện.


<i>Sự tương tác giữa các vận động tự sự sẽ tạo ra nhịp điệu kể chuyện của tác phẩm. Genette cho</i>
rằng, nếu đem số trang dành cho một (một vài) sự kiện hoặc một (một vài) phần của văn bản
truyện để chia cho khoảng thời gian thực tế (năm, tháng, ngày...) tương ứng của câu chuyện
được kể thì sẽ thấy được sự biến đổi của nhịp điệu kể chuyện.


Trong Số đỏ, ba chương đầu có thời gian sự kiện là 1 ngày được thuật lại trong 28 trang (0,035
ngày/trang). Tác giả vừa xây dựng những hoạt cảnh đối thoại giàu kịch tính vừa đan xen kể lại
quá khứ của Xuân Tóc đỏ, bà Phó Đoan, Văn Minh, cụ cố Hồng... trong khoảng thời gian chỉ
có một ngày. Một ngày ấy đã xảy biết bao nhiêu chuyện và đến hơm sau thì thằng Xn Tóc
đỏ từ thân phận kẻ ma cà bơng, đầu đường xó chợ bỗng chốc leo lên địa vị có thể “tham dự
vào cải cách xã hội”! Bốn chương tiếp theo có thời gian là 2 tuần với 43 trang (0,33


ngày/trang); Mới chỉ có 14 ngày mà thanh thế của thằng Xuân đã “mỗi ngày một to tướng mãi
ra... Nó chờ số phận lơi nó lên cao chót vót”! Mười hai chương tiếp sau thuật lại sự kiện diễn
ra trong 13 tuần với 111 trang (0,9 ngày/trang), các sự kiện không được đặt vào những điểm
thời gian cụ thể như ở các chương trước và sau đó. Người đọc khơng thể xác định được các sự
kiện như xảy ra vào lúc nào, thời điểm nào. Dấu hiệu thời gian rất mờ nhạt, tác giả chỉ cho biết
chúng xảy ra vào “hai giờ chiều hôm ấy” (chương VIII), “buổi sáng hôm ấy” (chương XII),
“buổi chiều hôm ấy” (chương XIV), “tối hôm ấy” (chương XV và chương VIII). Đây là biểu
hiện của các tỉnh lược giả định nhằm đẩy câu chuyện tiến triển nhanh hơn với những bước
thăng tiến như diều gặp gió của Xuân từ “giáo sư quần vợt” rồi “nhà thơ” đến “cây hi vọng
của Đơng Dương”. Hai chương cuối có khoảng thời gian là 5 tuần với 27 trang (1,2


ngày/trang) có sự tăng tốc rất nhanh qua việc tỉnh lược hơn 3 tuần (khoảng gần 1/5 thời gian
của câu chuyện) và khép lại khi Xn Tóc đỏ lên ngơi, lăng nhục, thố mạ quần chúng mà vẫn
được cả xã hội thượng lưu tâng bốc, phỉnh nịnh, bợ đỡ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Như vậy, nhịp điệu kể chuyện trong Số đỏ là chậm – nhanh dần – nhanh - rất nhanh, gần
tương đồng với Vỡ đê (chậm – nhanh dần - rất nhanh) nghĩa là tăng dần, đẩy nhanh về cuối. Ở
phần đầu của truyện, sự kết hợp luân phiên giữa các hoạt cảnh với các ngừng nghỉ tạo nên độ
<i>căng (stretch) của thời gian sự kiện. Đây là tổ hợp của những ngừng nghỉ và hoạt cảnh mà </i>
Genette là những “scène ralenti” (hoạt cảnh tiến triển chậm). Các trần thuật trùng lặp (kể
nhiều lần sự kiện diễn ra một lần) và các đảo thuật (kể lại những sự kiện diễn ra trước thời
điểm “bây giờ” của truyện) thực chất cũng là những đoạn ngừng nghỉ. Một khoảng thời gian
ngắn của câu chuyện được kể với số trang tương đối lớn (trong tương quan chung với các
khoảng thời gian khác trong truyện) tạo nên một sự giảm tốc đáng kể để tác giả có thể đi sâu
khai thác các tình huống, tạo nên một sự dồn nén, tích tụ mâu thuẫn truyện.


Ở phần giữa của truyện, khi các tỉnh lược, các lược thuật xuất hiện và gia tăng cùng với các
hoạt cảnh đã dần làm đảo ngược độ chênh giữa thời gian của câu chuyện và thời gian kể
chuyện so với phần đầu. Thời gian giả bị co dần lại, thời gian sự kiện bị gấp khúc và chùng
xuống, kéo theo sự gia tốc trong trần thuật.


Nhịp điệu sẽ bị đẩy lên cao nhất khi các tỉnh lược rõ ràng, tỉnh lược mơ hồ và lược thuật mở
rộng phạm vi thời gian, đồng thời các hoạt cảnh giảm xuống (hoặc không xuất hiện) tạo ra một
sự gia tốc cực đại. Đây là tốc độ ở phần cuối của các tiểu thuyết - phóng sự.


Nhịp điệu kể chuyện nhanh dần, dồn dập, khẩn trương đã phản ánh rõ nét cấu trúc và tính chất
của các sự kiện trong các tiểu thuyết - phóng sự. Các sự kiện dần được tích đầy, dồn nén, giãn
nở đến căng thẳng và bật tung vào điểm chót. Đó là nhịp điệu của sự căng bức, phản ánh
những mâu thuẫn sục sôi trong cuộc sống xã hội. Điều này thể hiện cách nhìn cuộc sống của
Vũ Trọng Phụng trong sự xung đột căng thẳng đầy kịch tính với những mâu thuẫn chồng chéo,
đan xen, giẫm đạp lên nhau tạo thành những cơn lốc của cuộc đời. Đây là mơ hình về thế giới
thực tại đã bị “dốc ngược”, bị “lộn trái”, “bóc trần và vạch trần” không thương tiếc.


<b>2. Nhịp điệu theo cấu trúc “làn sóng” trong các tiểu thuyết tâm lý (Dứt tình, Lấy nhau vì </b>


<i><b>tình, Làm đĩ, Trúng số độc đắc)</b></i>


Nếu như ở các tiểu thuyết phóng sự, Vũ Trọng Phụng thiên về các tỉnh lược mơ hồ thì ở các
tiểu thuyết tâm lý ông hay dùng những tỉnh lược rõ ràng để tạo ấn tượng rõ nét về sự chảy trơi
nhanh chóng của thời gian: Những tỉnh lược “một năm sau” (Dứt tình), “hai tháng đã qua”
(Lấy nhau vì tình), “hai tuần sau” (Trúng số độc đắc) với những thay đổi lớn lao đã tạo nên
cảm giác về sự bất ngờ, chóng vánh. Nhân vật và người kể chuyện nhiều lần phải thốt lên
“cuộc đời như một giấc mộng”. Các sự kiện tại các chương IX, X, XI trong Dứt tình; những
việc xảy ra từ lúc Huyền vào đời, lấy chồng rồi trụy lạc trong Làm đĩ là những tỉnh lược giả
định đáng chú ý. Những khoảng trống này sẽ tạo ra những “nếp gấp” thời gian vơ hình, đẩy
truyện kể vận động nhanh hơn về phía trước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

các tiểu thuyết tâm lý, dạng thức vận động này mang đậm màu sắc triết lý nhằm cắt nghĩa, lý
giải những trạng thái tâm lý của nhân vật. Có thể thấy những ngừng nghỉ này trong Lấy nhau
<i>vì tình, Làm đĩ, Trúng số độc đắc. Những lời triết lý, bình luận làm cho tốc độ kể chuyện </i>
chùng xuống và người kể chuyện có thể len lỏi, khám phá những ngõ ngách trong tâm hồn của
nhân vật. Những ngừng nghỉ có tính chất miêu tả cũng xuất hiện trong các tiểu thuyết này
nhưng không nhiều chủ yếu là tạo khung cảnh. Tuy vậy, đơi khi cũng có một số miêu tả mang
chức năng dự báo cho cốt truyện với một vài hình ảnh thiên nhiên chứa những ẩn ý (cảnh thiên
nhiên xơ xác và con chim chết dưới mưa giơng trong Dứt tình hay cảnh thiên nhiên dữ dội, bí
hiểm ở cầu Paul Doumer trong Lấy nhau vì tình).


Những hoạt cảnh độc thoại ở đây tỏ ra chiếm ưu thế so với các hoạt cảnh đối thoại nhằm phản
ánh diễn biến tâm lý của nhân vật với những nghi kỵ, giằng xé, cắn rứt. Trong Làm đĩ, đối
thoại không nhiều và chủ yếu là những tâm tư của nhân vật Huyền. Một điểm đặc biệt nữa là
sự xuất hiện của những hoạt cảnh khá đặc biệt, tạm gọi là hoạt cảnh phức hợp với sự lồng
ghép, đan xen của hoạt cảnh độc thoại và hoạt cảnh đối thoại. Nhân vật vừa nói vừa suy nghĩ
và tưởng tượng. Có thể gặp những dạng thức này rất nhiều trong Lấy nhau vì tình hay Trúng
<i>số độc đắc. Những suy nghĩ, tưởng tượng, hồi ức, kỉ niệm của nhân vật cũng góp phần tạo ra </i>
độ căng của thời gian sự kiện.



Lược thuật trong tiểu thuyết tâm lý chủ yếu được thực hiện qua những hồi tưởng của nhân vật
về một quãng đời vừa qua của mình: những trang nhật ký của Huỳnh Đức ghi lại những ngày
đầu của cuộc hôn nhân không thuận, những hồi tượng của Tiết Hằng về quá khứ với Việt Anh
(Dứt tình), hồi tưởng của Phúc về quãng thời gian 8 tháng sống nhạt nhẽo, vô vị (Trúng số độc
<i>đắc), hồi thuật của Tân về chuyện tình yêu ngang trái (Lấy nhau vì tình).</i>


Nhịp điệu kể chuyện trong các tiểu thuyết tâm lý không xuôi theo chiều nhanh dần như trong
tiểu thuyết – phóng sự mà rất đa dạng, nương theo số phận và diễn biến tâm lý của nhân vật và
ứng với những khoảng thời gian nhất định của câu chuyện.


Sự phân bố hai loại thời gian trong Lấy nhau vì tình tương đối rõ ràng. Phần I (6 chương): 5
ngày/58 trang; phần II (6 chương): 5 ngày/54 trang; phần III (6 chương): 7 ngày/54 trang.
Nhịp điệu kể chuyện của tác phẩm là từ chậm rãi chuyển sang nhanh dần rồi lại chậm dần.
Nhịp điệu này phản ánh sự gấp khúc trong đồ thị tâm lý của Liêm: ban đầu là những tình cảm
yêu đương say đắm, êm đềm rồi những nghi ngờ xuất hiện và nhanh chóng chuyển thành
những cơn ghen tuông dữ dội khiến người vợ mới cưới không chịu nổi phải nhảy xuống hồ
Tây tự vẫn. Cuối cùng là những “vỡ lẽ”, “sám hối” muộn màng của nhân vật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

những kỷ niệm và hồi ức. Như vậy, nhịp điệu kể chuyện gắn với nội dung của truyện, tham dự
vào sự phát triển của mâu thuẫn và tình huống, góp phần thể hiện tính cách, số phận, tâm lý
của nhân vật.


Trong Dứt tình, từ chương I đến chương IV tác giả kể rất chậm rãi sự kiện xảy ra trong
khoảng 2 ngày với 41 trang về mối tình tay ba éo le, ngang trái giữa Tiết Hằng – Quân - Việt
Anh và kết thúc là cái chết đột ngột của Đào Quân, chồng Hằng. Từ chương V đến chương
<i>VIII là một năm 7 ngày với 44 trang. Tốc độ ở đây là cực nhanh khi tác giả lược thuật các sự </i>
kiện diễn ra trong một năm với 3 trang (kể về những thay đổi chóng mặt trong cuộc đời Hằng
kể từ khi chồng chết) và sau đó giảm tốc xuống với 41 trang cho 7 ngày để đi vào mối tình tay
ba khác là Tiết Hằng - Huỳnh Đức - Việt Anh. Chương IX là nhật ký của Huỳnh Đức ghi lại


những sự kiện chính trong đời sống vợ chồng Đức - Hằng từ 5/12 đến 25/2, tức là khoảng 2
tháng 20 ngày trong 11 trang. Tốc độ kể ở đây tăng nhanh để lướt qua những ngày tháng sống
trong dằn vặt đau khổ của nhân vật. Hai chương cuối xuất hiện các tỉnh lược giả định, kể về
cuộc ra đi của Việt Anh và sự “bình yên” gượng ép của vợ chồng Huỳnh Đức - Tiết Hằng
chiếm 34 trang. Như vậy nhịp điệu kể của Dứt tình là: chậm rãi - cực nhanh - chậm - rất
<i>nhanh – trung hoà. Nhịp điệu ấy phản ánh diễn biến của hai cuộc hơn nhân gượng ép lúc thì </i>
bằng phẳng, nhạt nhẽo, khi lại nổi sóng dữ dội và những éo le, ngang trái của một cuộc tình lỡ
dở vì “bởi khơng dun kiếp”.


<i>Làm đĩ có phần phức tạp hơn vì đây là truyện trong truyện. Thuộc về truyện thứ nhất là Đoạn </i>
<i>đầu thuật sự kiện diễn ra trong một buổi chiều tối, sau đó Huyền kể lại câu chuyện về đời </i>
mình trong 3 đêm và cuối cùng là Đoạn kết kể sự việc trong một buổi sáng của ngày thứ 3.
Như vậy thời gian sự kiện của truyện thứ nhất là 3 ngày. Tuy nhiên, truyện thứ hai (nằm trong
truyện thứ nhất) mới chính là cuốn tiểu thuyết về đời Huyền, gồm 4 phần.


<i>Phần I có tiêu đề là Tuổi dậy thì, kể chuyện từ lúc Huyền 7 tuổi đến năm 16 tuổi (đỗ bằng sơ </i>
học) - tức là 10 năm – trong 29 trang. Đến phần II (Ra đời); phần III (Lấy chồng); phần IV
(Trụy lạc) người đọc không thể xác định được những sự kiện, biến cố xảy ra vào những thời
điểm nào sau năm Huyền 16 tuổi. Tuy nhiên, hoàn tồn có thể xác định được khung thời gian
của các sự kiện chính là: Phần II: Từ khi Huyền gặp Lưu cho đến khi anh này tự tử chỉ khoảng
mấy tháng chiếm 30 trang. Phần III: Hai tháng đầu kể từ khi lấy chồng được thuật trong 21
trang; cuộc tình dun vụng trộm với Tân được nói rõ là “kéo dài mãi ra hàng tháng” được kể
trong 26 trang. Phần IV: Huyền bị chồng phát hiện ngoại tình phải sống cuộc đời nhẫn nhục
xó bếp trong “ba bốn tháng” được kể trong 20 trang. Phần còn lại, Huyền thất vọng, chán
chường, bỏ nhà ra đi tìm Tân khơng gặp rồi lao vào con đường làm đĩ tác giả khơng nói rõ thời
gian là bao lâu và được kể trong 12 trang.


Có thể nói, phần I có sự gia tốc bởi các tỉnh lược để lướt nhanh qua thời thơ ấu. Các phần tiếp
theo, tốc độ kể chuyện vừa trung hoà (với các tỉnh lược giả định) vừa giảm tốc xấp xỉ 20 lần
<i>so với phần I theo chiều hướng biến đổi nhanh, chậm luân phiên. Ký ức của ngày hôm qua trở</i>


thành một cuốn phim quay chậm với những sự kiện đau lòng xảy ra với một cơ gái đang tuổi
trăng trịn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>3. Nhịp điệu kể chuyện phức hợp trong Giông tố</b>


<i>Giông tố là tiểu thuyết bất hủ của Vũ Trọng Phụng xét từ nhiều phương diện cả về nội dung và</i>
nghệ thuật. Từ phương diện thời gian tự sự, xét riêng về nhịp điệu kể chuyện, có thể thấy
<i>Giông tố là sự kết hợp độc đáo giữa nhịp điệu kể chuyện nhanh dần của tiểu thuyết phóng sự </i>
và nhịp điệu “làn sóng” của các tiểu thuyết tâm lý.


Có thể nói, mỗi biểu hiện khác nhau của lược thuật, tỉnh lược, ngừng nghỉ và hoạt cảnh trong
các tiểu thuyết có tính chất phóng sự và tiểu thuyết tâm lý đều được Vũ Trọng Phụng sử dụng
phát huy ưu thế của chúng trong kiệt tác của mình. Tỉnh lược mơ hồ xuất hiện ở khoảng cách
giữa chương X và chương XI, tỉnh lược giả định giữa các chương XI-XX. Các tỉnh lược này là
cần thiết cho sự vận hành của truyện. Lược thuật với việc nén các sự kiện dồn dập diễn ra
trong hai mươi ngày sau sự kiện hiếp dâm của nghị Hách; lược thuật qua hồi tưởng của nhân
vật Long, Hải Vân về quá khứ của các nhân vật; các hoạt cảnh đối thoại đầy kịch tính trong
diễn biến vụ kiện của dân làng Quỳnh Thôn, cảnh nghị Hách phát chẩn... Các hoạt cảnh độc
<i>thoại khắc hoạ những biểu hiện tâm lý của các nhân vật Long, Mịch, ông đồ. Các ngừng nghỉ </i>
cũng khá đa dạng như miêu tả phong cảnh (cảnh Tiểu vạn lý trường thành của Nghị Hách,
cảnh thôn quê vào những đêm trăng), giới thiệu nhân vật, tình huống, bình luận ngoại đề...
<i>Các vận động tự sự kết hợp với nhau theo kiểu đan xen, lồng ghép: hoạt cảnh này lại bao hàm </i>
một hoạt cảnh khác hoặc một lược thuật (đoạn Hải Vân nhắc lại cho Nghị Hách nhớ về những
sự kiện 28 năm về trước là một ví dụ). Các hoạt cảnh có xu hướng kéo dài và đan xen với các
ngừng nghỉ và lược thuật tạo nên độ căng của thời gian giả trong 10 chương đầu.


Cũng có trường hợp các ngừng nghỉ đan cài với những suy nghĩ của nhân vật (lời nửa trực
tiếp) hoặc với lời thoại, làm cho ngừng nghỉ “tiến gần đến tốc độ của hoạt cảnh” (2; tr.35).
Đoạn văn sau đây là một ví dụ: “Càng nghĩ đến những lời nhận xét của Tú Anh, Long càng
thấy đúng, mà đã càng thấy đúng, Lịng càng ngán ngẩm cho sự đời. Chao ơi! Ông đồ Uẩn!


Một người xưa kia như thế mà bây giờ như thế! Hay là tại ông đồ chưa phải hẳn người đã
thấm nhuần đạo nho? Hay tại đạo nho chỉ kết quả nên hạng người như thế? Hay bởi lẽ mặc
lịng được tiếng nhà nho, ơng đồ Uẩn cũng vẫn vô học như thường? Phải đâu, ừ phải đâu mới
là một thày đồ có một dúm chữ ê a dạy lũ trẻ ranh mà đã là có học! Vả chăng cái số thầy đồ vơ
học mà tự phụ vẫn nhan nhản trong xã hội... Nếu đúng thế Long đã nhầm, đã nhầm một cách
khốn khổ, đã sung sướng một cách vô nghĩa lý, khi chàng hỏi được Mịch mà chàng tự đắc là
sẽ được làm rể một bậc thượng lưu học thức, một người thanh bần nhưng có một tâm hồn
vững chãi, có một căn bản tinh thần - một nơi dịng dõi thế gia”. Đây là kiểu miêu tả khá đặc
biệt mà theo Genette, thường xuất hiện trong tiểu thuyết của Proust và Flaubert.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

thành một nạn nhân. Cơn giơng có vẻ tạm lắng xuống khi nghị Hách bằng lịng cưới cơ thơn
nữ thị Mịch làm vợ hờ và Long trở thành hôn phu của Tuyết.


Sự xuất hiện của nhân vật Hải Vân đã châm ngòi cho một trận giông tố thứ hai, diễn ra trong
phạm vi khơng gian gia đình nghị Hách. Độ dài thời gian của các sự kiện trong cơn giông tố
thứ hai này là 12 tháng. Trong đó có 3 tháng, tác giả dành 108 trang kể chậm rãi phanh phui
những chuyện đáng được gọi thâm cung bí sử của kẻ bạo chúa khét tiếng gian dâm. Đoạn kết
của truyện, tác giả bất ngờ tăng tốc bởi một tỉnh lược dài: quãng thời gian chín tháng (từ cuối
hè năm trước đến đầu hè năm sau) chỉ được thuật trong 13 trang và kết thúc bằng sự kiện Long
tự tử trong thác loạn.


Mỗi trận “giông tố” nằm trong hai phân đoạn như đã phân tích, mang nhịp điệu của các tiểu
thuyết – phóng sự, nghĩa là dồn nén, căng thẳng và đẩy nhanh về điểm chót. Giơng tố chính là
những cơn bão táp dồn dập, phũ phàng, xô đẩy những số phận, những cuộc đời từ mọi nẻo
đường.


Nhịp điệu kể chuyện đóng một vai trị quan trọng trong việc thể hiện nội dung – tư tưởng của
tác phẩm; đồng thời, xem xét nhịp điệu kể chuyện sẽ giúp chúng ta đánh giá đúng hơn cá tính
sáng tạo của nhà văn trong sáng tạo nghệ thuật. Tuy nhiên tốc độ, nhịp điệu kể mới chỉ là một
yếu tố của thời gian tự sự bên cạnh trình tự (order) và tần suất kể (frequency). Nghiên cứu các


biểu hiện và sự tương tác giữa các yếu tố này cho phép đánh giá đầy đủ về thời gian tự sự
trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng. Xin được trở lại vào một dịp khác./.


</div>

<!--links-->

×