Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc việt nam tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HỒNG ĐỨC THẨM

HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TỈNH QUẢNG TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Thừa Thiên Huế - 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HỒNG ĐỨC THẨM

HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TỈNH QUẢNG TRỊ
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG


MÃ SỐ: 8340403
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ THỊ HOA

Thừa Thiên Huế - 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ này là cơng trình nghiên cứu khoa
học của riêng tơi. Các tài liệu được nghiên cứu, trích dẫn trong luận văn là
trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu, số liệu
liên quan của luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu
khoa học nào.

Thừa Thiên Huế, ngày
2020

tháng

Tác giả luận văn

Hoàng Đức Thẩm

năm


LỜI CẢM ƠN
Quá trình nghiên cứu, chuẩn bị, triển khai thực hiện cho đến khi hoàn
thiện luận văn thạc sĩ này, bên cạnh sự nỗ lực, cố gắng, tập trung cao độ của

bản thân, là sự quan tâm, tạo điều kiện, hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình, quý
báu của quý thầy cơ, bạn bè, gia đình, người thân, đồng nghiệp, anh chị em
các khóa học trước.
Đặc biệt xin bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cám ơn chân thành đến Cơ
giáo, Tiến sĩ Lê Thị Hoa đã hết lịng giúp đỡ, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện
tốt nhất cho tơi hồn thành luận văn này. Đồng thời, tơi xin chân thành cám
ơn đến tồn thể q thầy cơ đang cơng tác, giảng dạy tại Học viện hành chính
Quốc gia và Học viện hành chính Quốc gia cơ sở khu vực miền Trung đã tận
tình giúp đỡ, tạo điều kiện cũng như truyền đạt những kiến thức quý báu trong
suốt quá trình bản thân học tập nghiên cứu đến khi thực hiện luận văn.
Xin cám ơn các cá nhân, tổ chức, cơ quan, đơn vị đã đồng hành, hỗ trợ,
giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian cơng tác, học tập, nghiên
cứu và hồn thành đề tài luận văn thạc sĩ này.
Xin trân trọng cám ơn!

Thừa Thiên Huế, ngày

tháng

Học viên thực hiện

Hoàng Đức Thẩm

năm 2020


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang

1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VÀ
PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM

9

1.1. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

9

1.2. Hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

19

1.3. Vai trò của hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam
1.4. Những yếu tố tác động đến hoạt động giám sát, phản biện xã hội

26
29

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VÀ PHẢN
BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỈNH

34

QUẢNG TRỊ
2.1. Khái quát chung


34

2.1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị

34

2.1.2. Khái quát Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị

36

2.2. Thực trạng hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt Trận Tổ quốc
Việt Nam tỉnh

37

2.2.1. Hoạt động giám sát

37

2.2.2. Hoạt động phản biện xã hội

45

2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tỉnh

48

2.3.1 Những ưu điểm và nguyên nhân


48

2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân

53

Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC

57

TỈNH QUẢNG TRỊ
3.1. Quan điểm đảm bảo hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tỉnh

57


3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động giám sát, phản biện
3.1.2. Phát huy vai trò và sự đóng góp của Nhân dân trong hoạt động giám
sát, phản biện xã hội

57
61

3.1.3. Giám sát, phản biện xã hội nhằm phát hiện, bổ sung, điều chỉnh
những nội dung còn thiếu, chưa phù hợp trong thực hiện các chủ trương

63


đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và địa phương
3.1.4 Giám sát, phản biện phải góp phần tích cực vào việc xây dựng và củng
cố nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
3.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tỉnh
3.2.1. Tăng cường cơ chế, chính sách, điều kiện đảm bảo cho hoạt động
giám sát, phản biện xã hội
3.2.2. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến gắn với giám sát việc thực hiện các
quy định về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh
3.2.3. Nâng cao hiệu quả tiếp thu, xử lý, giải quyết trong hoạt động giám
sát, phản biện xã hội
3.2.4. Tăng cường chất lượng các nguồn lực phục vụ hoạt động giám sát,
phản biện xã hội
3.2.5. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh cần tự đổi mới hoạt động giám sát,
phản biện xã hội
3.2.6. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành, các cấp
đối với công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

65

67

67

69

71

73


75

77

3.2.7. Phát huy dân chủ trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội; trách
nhiệm nêu gương của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt phải được quy định

79

và cơng khai hóa để Nhân dân biết và giám sát
KẾT LUẬN

81

DANH MỤC CƠNG TRÌNH CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

85

PHỤ LỤC

93


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiến pháp năm 2013 Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

khẳng định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên
hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn
giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ
sở chính trị của chính quyền Nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện
xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại Nhân dân
góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. [55]
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đề ra nhiệm vụ: Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể Nhân dân tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính hóa, phát huy vai trị
nịng cốt tập hợp, đoàn kết Nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính
quyền Nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội; tham gia
xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tổ chức các phong trào thi
đua yêu nước, vận động các tầng lớp Nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại [32].
Trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, do một đảng duy nhất
cầm quyền lãnh đạo, việc phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là
trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội. Có thể nói giám sát và phản
biện xã hội là một chức năng có ý nghĩa vơ cùng to lớn đối với dân, với Đảng;
là điều kiện và cơ sở để nâng cao vai trị, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt
1


Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng, tập hợp khối đại đoàn kết dân
tộc, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, là cơ sở chính trị vững chắc của cấp ủy,
chính quyền các cấp.


Nhận thức rõ những vấn đề trên, trong thời gian qua, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tỉnh Quảng Trị đã chủ động thực hiện chức năng giám sát thông
qua việc phối hợp, tham gia giám sát với Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường
trực Hội đồng Nhân dân, các ban Hội đồng Nhân dân tỉnh, các ngành chức
năng và các tổ chức chính trị - xã hội đối với các nội dung có liên quan; chủ
trì tổ chức các đồn giám sát chuyền đề về tình hình chấp hành, triển khai,
thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước và địa phương; những vấn đề bức xúc, nổi cộm, phát sinh trong thực
tiễn liên quan trực tiếp đến trách nhiệm và nghĩa vụ, quyền và lợi ích hợp
pháp của Nhân dân; việc giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân.
Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các Hội đồng tư vấn, Ban tư vấn
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Ủy ban MTTQ Việt Nam) cấp tỉnh, cấp
huyện, Ban Thanh tra Nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng ở xã,
phường, thị trấn và khu dân cư; tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân
dân để phản ánh, kiến nghị đến cấp ủy, chính quyền các cấp và cơ quan có
thẩm quyền xem xét xử lý…
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong tỉnh đã chủ động tham gia
phản biện, đóng góp ý kiến xây dựng văn kiện Đại hội Đảng các cấp, tham gia
xây dựng chính sách pháp luật, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội,
các đề án, dự án trọng điểm của địa phương đi đôi với giám sát quá trình tổ
chức, triển khai và đánh giá sự hài lòng của người dân đối với các cơ quan
nhà nước. Tổ chức, phối hợp tham gia các diễn đàn đối thoại Nhân dân, tiếp
xúc cử tri, tiếp công dân, các hoạt động tuyên truyền, chuyển tải các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và địa phương. Kịp thời

2


kiến nghị với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, các ngành chức năng điều

chỉnh, bổ sung, hoàn thiện các chương trình, dự án, chính sách liên quan trực
tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân và cán bộ, đảng
viên; góp phần khắc phục những hạn chế thiếu sót, thất thốt, lãng phí nguồn
lực công, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các chủ trương, chính sách và pháp
luật trong thực tiễn đời sống xã hội.
Thực tiễn quá trình triển khai hoạt động giám sát, phản biện xã hội của
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh vẫn cịn nhiều khó khăn, hạn chế; chất
lượng giám sát và phản biện xã hội nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu. Phạm
vi, đối tượng, yêu cầu của giám sát và phản biện xã hội lớn, trong khi đó, cơ
chế, nguồn lực và điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh tổ chức thực
hiện còn nhiều bất cập, chưa phù hợp; nhận thức và trách nhiệm của một số
đối tượng được giám sát, phản biện xã hội còn biểu hiện chưa đúng, chưa đầy
đủ; chất lượng xử lý các kiến nghị, đề xuất sau giám sát, phản biện xã hội
chưa cao, cịn hình thức. Giám sát và phản biện xã hội là một nội dung, nhiệm
vụ mới, vừa tổ chức, triển khai, thực hiện, vừa rút kinh nghiệm, do đó cịn
nhiều lúng túng, tính thực thi chưa cao.
Từ những phân tích trên tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài “Hoạt động
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng
Trị” để nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ quản lý cơng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, có rất nhiều văn bản của Đảng, Nhà nước được
ban hành, làm cơ sở quan trọng để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện chức
năng giám sát, phản biện xã hội của mình. Tuy nhiên, có rất ít cơng trình
nghiên cứu một cách trực tiếp, chuyên sâu và có hệ thống về hoạt động giám
sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên địa bàn tỉnh Quảng

3


Trị. Một số bài viết, đề tài nghiên cứu, chuyên đề về giám sát, phản biện xã hội

như:
- Các tác giả Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên),
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội,
năm 2007.
- Hồ Bá Thâm, Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (chủ biên), Nguyễn Thị
Hồng Diễm, Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, năm 2009.
- Bùi Xuân Đức, Phản biện xã hội: ý nghĩa, cơ chế và điều kiện thực
thi, Tạp chí Nghiên cứu lập Pháp, 2010. Bài viết tập trung nghiên cứu, phần
tích việc nhận thức đầy đủ về hoạt động phản biện xã hội để từ đó đưa ra các
giải pháp phát huy hơn nữa hoạt động phản biện xã hội trong bối cảnh hiện
nay.
- Tác giả Huỳnh Đảm với bài viết Phát huy vai trò giám sát, phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, góp phần thực hiện thắng lợi nghị
quyết XI của Đảng, Tạp chí Cộng sản, số 829, năm 2011. Bài viết này đã góp
phần đưa ra định hướng cho giải pháp để thực hiện tốt hơn hoạt động giám sát
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam[30].
- Nguyễn Thọ Ánh, Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
năm 2012. Tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, từ đó đưa ra
quan điểm, giải pháp, tổ chức, triển khai thực hiện [1].
- Tác giả Nguyễn Đức Thành với bài Hoạt động giám sát và phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể - nhìn từ thực tiễn tỉnh Nghệ An,
tạp chí Mặt trận, số 108, tháng 10/2012.
4


- Trương Quốc Chính, Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam theo

quan điểm macxit, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2013.
- Vũ Thị Như Hoa, Nâng cao chất lượng phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ chính trị học, năm
2013. Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề phản biện xã hội và
tiêu chí đánh giá chất lượng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
thực trạng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ năm 1986. Từ
đó đưa ra giải pháp nâng cao chất lượng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam [40].
- Tác giả Thanh Khiết Tìm hiểu về công tác giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội, cổng thông tin
điện tử tỉnh An Giang, năm 2015.
- Hồng Đức Thắng (chủ biên), Phát huy vai trị giám sát và phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn hiện
nay, đề tài khoa học cấp tỉnh năm 2015. Tập trung đánh giá tình hình thực
hiện hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2009 – 2015, nhiệm vụ giải pháp chủ yếu nâng cao
chất lượng hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tỉnh Quảng Trị trong thời gian tiếp theo [59].
- Nguyễn Thị Kim Dung, giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, năm
2016.
- Tác giả Nguyễn Văn Pha với bài Để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực
hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội, tạp chí xây dựng Đảng số 1,2
năm 2016.

5


- Ngô Sách Thực, Những vấn đề đặt ra trong công tác giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay, Tạp chí Mặt trận,

năm 2017.
- Nguyễn Quang Vinh, Vai trò của báo in trong thực hiện chức năng
giám sát và phản biện xã hội ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Tiến sĩ Báo chí
học, năm 2017.
- Trần Thanh Mẫn với bài viết Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp
tăng cường thực hiện giám sát, phản biện xã hội đáp ứng yêu cầu, nguyện
vọng của các tầng lớp Nhân dân, Tạp chí Cộng sản, số 1265, 2019. Bài viết
đánh giá tình hình kết quả thực hiện hoạt động giám sát, phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời gian qua và đưa ra một số nhiệm vụ
trọng tâm thời gian tới. Tăng cường thực hiện giám sát, phản biện xã hội đáp
ứng yêu cầu, nguyện vọng các tầng lớp Nhân dân của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam các cấp, góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, chính quyền
trong sạch, vững mạnh; tạo đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc [45].
- Ngô Sách Thực, Thực trạng, những vấn đề đặt ra hiện nay trong hoạt
động phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam, Tạp chí Mặt trận, năm 2019. Bài
viết làm rõ hơn thực trạng, những vấn đề đặt ra trong hoạt động phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị từ đó đề xuất một số quan
điểm, giải pháp bảo đảm hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
6


- Nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp lý hoạt động giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát và phản biện xã hội
tỉnh Quảng Trị.
- Đề xuất giải pháp bảo đảm hoạt động giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tỉnh Quảng Trị.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu về hoạt động giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị từ khía cạnh quản lý cơng.
- Về thời gian: Thực trạng hoạt động giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2015 - 2019.
- Về không gian: Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Quan điểm và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân chủ, về vai trị của quần chúng Nhân dân trong lịch sử,
các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp logic - lịch sử. - Phương pháp phân tích và tổng hợp.
- Phương pháp thống kê.

- Phân tích tài liệu thứ cấp.
7



- Phương pháp khảo sát và tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Hệ thống lại một số nội dung về lý luận, pháp lý và thực tiễn để làm
cơ sở nâng cao nhận thức về vai trị, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
- Có thể làm tài liệu tham khảo, học tập, nghiên cứu, giảng dạy có liên
quan đến hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận, pháp lý hoạt động giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm hoạt động giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Trị.

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VÀ PHẢN
BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1.1. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động giám sát
1.1.1.1. Khái niệm hoạt động giám sát
Trong các quy định pháp luật, giám sát đã được đề cập đến trong một
số văn bản như: Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng Nhân dân
năm 2015, Nghị định số 49/2014/NĐ-CP ngày 20 tháng 05 năm 2014 của
Chính phủ về giám sát, thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp nhà nước trong việc
chấp hành pháp luật và các quyết định của chủ sở hữu... Theo đó “Giám sát là

việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ
chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc
yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý”; “Giám sát doanh nghiệp
nhà nước là hoạt động theo dõi, tổng hợp và phân tích, đánh giá thường xuyên
hoặc định kỳ của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định về việc chấp hành pháp luật và tuân thủ các quyết định của
chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước”[57], [26].
Về cơ bản, các quan niệm dù đưa ra hoặc không đưa ra một cách đầy
đủ về chủ thể, tiến trình thực hiện, phương thức và các giá trị, tác động của
hoạt động giám sát, nhưng đều toát lên được hai nội dung cấu thành cơ bản
của giám sát đó là “theo dõi” và “đánh giá”: Giám sát là việc theo dõi, xem
xét, kiểm tra, đánh giá một chủ thể nào đó về một việc làm đã được thực hiện
đúng hoặc thực hiện chưa đúng những điều đã quy định để từ đó có biện pháp
điều chỉnh hoặc xử lý đối với việc làm sai, nhằm đạt được những mục đích
hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho các quyết định thực hiện đúng và đầy
9


đủ.
Giám sát thường được chia thành hai loại:
Giám sát mang tính quyền lực nhà nước hay cịn gọi là giám sát bên
trong hệ thống, là loại hình giám sát được tiến hành bởi chủ thể là các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đối với một hay một số hệ thống các cơ quan nhà
nước khác theo những nguyên tắc nhất định về sự phân công quyền lực nhà
nước. Cụ thể là hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ,
Tịa án Nhân dân tối cao và Viện kiểm sát Nhân dân tối cao; là hoạt động
giám sát của Hội đồng Nhân dân các cấp đối với cơ quan nhà nước ở địa
phương. Ngồi ra cịn có hoạt động giám sát của Viện kiểm sát, Tịa án đối
với bộ máy nhà nước thông qua hoạt động truy tố, kiểm sát tư pháp, xét xử và

giám sát thông qua hoạt động của các cơ quan thanh tra. Các phương pháp,
cách thức mà loại hình giám sát này áp dụng ln mang tính quyền lực nhà
nước và nó trực tiếp mang lại những hậu quả có tính pháp lý. [41]
Giám sát khơng mang tính quyền lực nhà nước hay cịn gọi là giám sát
từ bên ngồi là loại hình giám sát được tiến hành bởi các chủ thể phi Nhà
nước. Đó là hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên, của các cơ quan báo chí, của Nhân dân đối với bộ máy nhà
nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. [41]
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đồn thể chính trị - xã hội được ban hành kèm theo Quyết định số 217QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị quy định: “Giám sát là việc theo
dõi, phát hiện, xem xét; đánh giá kiến nghị nhằm tác động đối với cơ quan, tổ
chức và cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước về
việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước” [22].
10


Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được hiểu là “giám sát xã
hội”. Giám sát xã hội phát hiện cả những việc làm tốt, chưa tốt và chỉ dừng lại
ở mức “đánh giá, kiến nghị”, tức là áp dụng các biện pháp tác động mang tính
xã hội vào hoạt động của đối tượng bị giám sát (sự nhận xét, đánh giá, kiến
nghị từ phía xã hội, từ đó đối tượng bị giám sát tự chấn chỉnh, rút kinh
nghiệm trong q trình hoạt động của mình), khơng có quyền yêu cầu hoặc
bắt buộc cơ quan, tổ chức phải tiến hành xử lý một vụ việc cụ thể nào đó.
Việc có xử lý hay khơng xử lý, xác định kết quả, kiến nghị giám sát đó đúng
hay sai phụ thuộc vào quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân
được giám sát theo pháp luật và các quy định hiện hành.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về giám sát của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam như sau: “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là

việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt
động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, công chức, viên chức trong việc
thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước nhằm kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý những sai sót, khuyết điểm
đồng thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp; phát hiện,
phổ biến những nhân tố mới, những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân góp phần kiểm sốt quyền lực của Nhà nước, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước”.
1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động giám sát
Đặc điểm chung của Giám sát:
- Giám sát là hành vi của chủ thể biểu hiện qua theo dõi, quan sát, xem
xét, nhận định về việc làm của đối tượng bị giám sát.
- Giám sát mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục.
- Sự tác động qua lại giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát có
mối quan hệ pháp lý, gắn với quyền và trách nhiệm của mỗi bên.
11


- Giám sát là một trong những thành phần của sự quản lý có cơ sở khoa
học đối với cơng việc của Nhà nước và xã hội, đảm bảo cho sự vận hành
không bị ngắt đoạn của cơ chế quản lý xã hội.
- Tạo tiền đề cho sự hiểu biết sâu sắc và cản trở sự hoạt động tối ưu của
hệ thống, là chất xúc tác cho việc nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý.
Giám sát do các cơ quan nhà nước thực hiện đối với tổ chức và hoạt
động của bộ máy bộ máy nhà nước gọi là giám sát Nhà nước; giám sát do các
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và công dân trực
tiếp thực hiện được gọi là giám sá của xã hội hoặc là giám sát của nhân dân.
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khơng mang tính quyền lực,
là giám sát mang tính nhân dân, có một số đặc điểm cơ bản sau:
- Thứ nhất, giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là phải trả

lời được câu hỏi ai (người hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo dõi,
xem xét, kiểm tra và đưa ra những đánh giá, nhận định về một việc làm nào
đó đã được thực hiện đúng hay sai so với quy định hiện hành;
- Thứ hai, giám sát bao giờ cũng cần 02 giai đoạn: Giai đoạn theo dõi,
xem xét, kiểm tra và giai đoạn đánh giá, đưa ra kiến nghị, kết luận. Trong đó,
giai đoạn thứ nhất là cơ sở để thực hiện giai đoạn thứ hai. Nếu giai đoạn theo
dõi, xem xét, kiểm tra làm tốt thì việc đánh giá, kết luận sẽ đúng đắn, chính
xác và cuộc giám sát sẽ hiệu quả và ngược lại;
- Thứ ba, giám sát luôn gắn với một đối tượng cụ thể, đặc điểm cơ bản
này cho chúng ta phân biệt giữa giám sát và kiểm tra;
- Thứ tư, giám sát phải thể hiện được quan hệ giữa các chủ thể tham gia
vào hoạt động giám sát. Nội dung của quan hệ này biểu hiện ở những quyền
và nghĩa vụ của chủ thể giám sát và đối tượng chịu giám sát;
- Thứ năm, giám sát phải được tiến hành trên những căn cứ do pháp
luật quy định. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì nếu như thiếu
12


những quy định này thì chủ thể giám sát khơng có cơ sở để thực hiện quyền
giám sát và tiêu chí để đưa ra những nhận định về hoạt động của đối tượng
chịu giám sát;
- Thứ sáu, giám sát là hoạt động có tính mục đích. Trước hết, mục đích
của giám sát là đưa ra những nhận định chính xác của chủ thể giám sát đối với
hoạt động của đối tượng chịu giám sát, từ đó có biện pháp xử lý đối với
những việc làm sai trái nhằm bảo đảm cho những quy định của pháp luật
được thực hiện đúng và có hiệu quả.
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có ba nhóm chủ thể là:
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp: Chủ trì giám sát đối với
các đối tượng và nội dung quy định tại Khoản 1 và Khoản 2, Điều 26 của
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015.

- Các tổ chức chính trị - xã hội (Cơng đồn Việt Nam, Hội Nông dân
Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh): Chủ trì giám sát các đối tượng và
nội dung quy định tại Khoản 1 và Khoản 2, Điều 26 Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam năm 2015 theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
hoặc quy định của pháp luật.
- Các tổ chức thành viên khác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Tham
gia phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp thực hiện giám
sát đối với các đối tượng và nội dung quy định tại Khoản 1 và Khoản 2, Điều
26 của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 có liên quan trực tiếp đến
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đồn viên, hội viên, quyền và trách
nhiệm của tổ chức mình.
1.1.1.3. Tính chất, mục đích và nguyên tắc giám sát
Tính chất:
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính nhân
13


dân và tính xã hội rộng lớn, là một bộ phận hợp thành hệ thống kiểm soát
quyền lực ở nước ta. Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội được ban hành kèm theo
Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 quy định “Giám sát và phản
biện xã hội mang tính nhân dân, tính dân chủ Xã hội Chủ nghĩa, tính xây
dựng, tính khoa học và thực tiễn”
Theo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015, tính chất giám sát mang
tính nhân dân được các nhà lập pháp thay thế bằng “tính xã hội”, đây là một
bước tiến mới trong tư duy lập pháp, thể hiện tính xã hội rộng lớn trong hoạt
động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, không chỉ đại diện cho nhân
dân và đại diện cho toàn xã hội trong thực hiện hoạt động giám sát.
Ngoài ra, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015 cịn ghi nhận thêm

một tính chất khác của hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đó
là “tính đại diện”, đại diện cho tiếng nói và sức mạnh của nhân dân, đại diện
cho tồn xã hội phát huy dân chủ thơng qua hoạt động giám sát cơ quan nhà
nước.
Đặc trưng cơ bản hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt nam
đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước là giám sát khơng mang tính
quyền lực nhà nước; khơng có quyền xử lý đối với các cơ quan nhà nước khác
hay các cá nhân chịu trách nhiệm. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khơng có
quyền quyết định những biện pháp và hình thức xử lý mà chỉ có quyền kiến
nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết.
Mục đích:
Mục đích hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam củng cố
cho giám sát bên trong bộ máy nhà nước, xem xét việc làm của đối tượng bị
giám sát có đúng với những quy định, những định hướng đã đặt ra hay khơng
để từ đó có những biện pháp xử lý nhằm khắc phục những sai sót; có tác dụng
14


hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước.
Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đồn thể chính trị - xã hội được ban hành kèm theo Quyết định số 217QĐ/TW, ngày 12/12/2013 đã đưa ra mục đích hoạt động giám sát của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là “Giám sát nhằm góp phần xây dựng và thực hiện
đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh và đối
ngoại; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến nghị
sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những nhân
tố mới, những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần
xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh” [22].
Theo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015 thì hoạt động giám sát của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có mục đích “Hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm

tra, thanh tra của Nhà nước nhằm góp phần xây dựng và củng cố chính quyền
nhân dân, làm cho bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt
động ngày càng hiệu lực, hiệu quả”; “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam mang tính xã hội; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của Nhân dân, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm;
kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những
nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh”
[46] để quản lý tốt mọi mặt đời sống xã hội theo pháp luật nhà nước, thể hiện
được quyền lực của nhân dân; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân
dân.
Nguyên tắc:
Theo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015, giám sát có những nguyên
tắc sau:
15


- Hoạt động giám sát được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm phát huy
dân chủ, sự tham gia của Nhân dân, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam;
- Xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng của Nhân dân;
- Thực hiện công khai, minh bạch, không chồng chéo;
- Không làm cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được
giám sát.
Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đồn thể chính trị - xã hội được ban hành kèm theo Quyết định số 217QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị cịn quy định thêm một số ngun
tắc:
- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với Hiến pháp, Pháp luật,
Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Điều lệ các đồn thể chính trị - xã hội.
- Có sự phối hợp chặt chẻ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn

thể chính trị - xã hội và các cơ quan, tổ chức liên quan; không làm trở ngại
hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát và phản biện xã hội.
- Bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan và mang tính xây dựng.
- Tơn trọng các ý kiến khác nhau nhưng khơng trái với quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của thành viên, đồn viên, hội viên, lợi ích quốc gia,
dân tộc.
Có thể nhận thấy, Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ
phận của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực Nhà nước, hướng đến mục tiêu
bảo đảm quyền lực Nhà nước được sử dụng đúng mục đích, đạt hiệu quả,
ngăn ngừa và hạn chế tình trạng lạm quyền, tham nhũng. Cơ chế kiểm sốt
quyền lực Nhà nước phải bảo đảm tính độc lập tương đối của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, đồng thời, bảo đảm sự kết hợp với các hình thức giám sát;
hoạt động kiểm tra, thanh tra của Nhà nước. Do vậy, giám sát của Mặt trận Tổ
16


quốc Việt Nam phải bảo đảm các thiết chế không bị phụ thuộc vào đối tượng
chịu sự giám sát. Việc theo dõi, kiểm tra sau giám sát phải được thường
xuyên, liên tục, nhất là đôn đốc việc giải quyết các kiến nghị.
Trong quá trình tổ chức hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cần thực hiện nghiêm túc, hiệu quả nguyên tắc công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Bởi vì,
cơng khai, minh bạch là biện pháp hữu hiệu nhằm phòng ngừa các hành vi
tiêu cực, các biểu hiện làm sai lệch, làm suy giảm hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước; đây cũng là điều kiện cần thiết để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát. Công khai, minh bạch đòi hỏi Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phải được thơng tin đầy đủ,
kịp thời, chính xác nội dung và đối tượng cần phải giám sát.
1.1.1.4. Đối tượng, phạm vi, phương pháp, hình thức giám sát
Đối tượng giám sát: Các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến cơ sở;

cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức,viên chức nhà nước. Nội dung
giám sát là việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) của cơ
quan, tổ chức và cá nhân.
Phạm vi giám sát: Đối với cơ quan, tổ chức: Chủ trì giám sát việc thực
hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
(trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
của mình. Đối với cá nhân: Giám sát cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công
chức, viên chức nhà nước ở nơi công tác và nơi cư trú.
Phương pháp:
- Hằng năm, căn cứ vào tình hình thực tiễn, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam có trách nhiệm xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát báo cáo cấp
ủy và chính quyền cùng cấp trước khi triển khai. Khi cần thiết có thể tổ chức
17


giám sát ngồi kế hoạch. Chương trình, kế hoạch giám sát được thống nhất
với cơ quan quản lý nhà nước liên quan để hỗ trợ triển khai, bảo đảm giám sát
thiết thực, đúng thực tế, có tác động tốt với đời sống chính trị, xã hội và Nhân
dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp thu ý kiến phản ảnh của các thành
viên, ý kiến của Nhân dân, ý kiến của các chuyên gia và tổ chức khảo sát thực
tế để có cơ sở kiến nghị với cơ quan Đảng, Nhà nước, cấp ủy và chính quyền
cùng cấp.
- Giám sát thông qua việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về
dân chủ ở cơ sở, hoạt động của Ban Thanh tra Nhân dân, Ban giám sát đầu tư
của cộng đồng.
- Giám sát thông qua nghiên cứu văn bản, tài liệu, báo cáo của các cơ
quan, tổ chức; đơn, thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của các tổ chức,
cá nhân gửi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và qua phản ánh của các phương tiện

thông tin đại chúng.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia các hoạt động giám sát do các
cơ quan dân cử đề nghị.
Hình thức: Giám sát có 04 hình thức cơ bản, đó là: Nghiên cứu, xem
xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nhân dân; Tổ chức đoàn giám sát; Thông qua hoạt động
của Ban Thanh tra nhân dân được thành lập ở cấp xã, Ban giám sát đầu tư của
cộng đồng; Tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Từ những quy định trên, cho thấy, Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là một trong những cơ chế, hình thức kiểm sốt quyền lực Nhà nước từ
bên ngoài cùng với giám sát của Đảng cầm quyền, các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội và giám sát trực tiếp của các cá nhân. Do đó, hậu quả pháp
lý của hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khơng có tính
18


cưỡng chế nhà nước mà chỉ được thể hiện dưới dạng kiến nghị, đề xuất hoặc
thông qua dư luận xã hội đối với đối tượng được giám sát và các cơ quan, tổ
chức có liên quan.
Các quy định của Pháp luật đã xác định địa vị pháp lý của Mặt trận Tổ
quốc trong thực hiện nhiệm vụ giám sát với các hình thức và phương pháp
phù hợp với địa vị pháp lý của mỗi thiết chế. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối
hợp và tham gia và thường xuyên cử đại diện tham gia giám sát với Quốc hội,
Hội đồng Nhân dân các cấp, qua đó, giúp Ủy ban MTTQ Việt Nam phát hiện,
kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, xử lý những vi
phạm trong hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Cũng chính từ hình
thức phối hợp này đã tạo ra bầu khơng khí cởi mở và tạo ra sự đồng thuận
giữa chủ thể và các đối tượng giám sát.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp sử dụng các hình thức giám sát đối
với các đối tượng giám sát chưa đa dạng và đồng bộ. Trong 04 hình thức giám

sát cơ bản của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp
mới chỉ chú trọng vào hình thức tổ chức đồn giám sát mà chưa quan tâm
thích đáng đến các hình thức giám sát khác. Trong đó, sử dụng hình thức
nghiên cứu, xem xét văn bản, giám sát văn bản của cơ quan có thẩm quyền
liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân chưa được
quan tâm đúng mức; hình thức giám sát thông qua hoạt động của Ban Thanh
tra Nhân dân vẫn còn rất hạn chế. Điều này cho thấy, việc lựa chọn, sử dụng
hình thức giám sát nào đối với từng nội dung, đối tượng giám sát vẫn chưa
được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tính tốn một cách phù hợp và hiệu quả.
1.2. Hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động phản biện xã hội
1.2.1.1. Khái niệm hoạt động phản biện xã hội
Trong đời sống chính trị của một đất nước, các thiết chế cầm quyền
19


×