Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

KHÓA LUẬN tốt NGHIỆP điều DƯỠNG (HOÀN CHỈNH) thực trạng xuống sữa của sản phụ sau đẻ tại khoa sản thường BV phụ sản TW năm 2013 và một số yếu tố liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.15 KB, 38 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăm sóc sức khỏe sơ sinh hiện nay đang là một vấn đề thu hút sự quan tâm
của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong những năm qua tỉ lệ tử vong trẻ em nói
chung đã giảm mạnh nhưng tỉ lệ tử vong sơ sinh vẫn giảm không đáng kể. Ước
tính hàng năm thế giới có khoảng 4 triệu trẻ sơ sinh tử vong [14],[22].
Bú mẹ là cách tốt nhất và an tồn nhất để ni dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Sữa mẹ cung cấp cho trẻ loại thức ăn hoàn thiện nhất, bảo vệ cho trẻ chống nhiễm
khuẩn và đặt nền móng cho sự phát triển tâm lý lành mạnh cho trẻ [8].
Việc cho trẻ sơ sinh bú sữa mẹ là một nét chung của các nền văn hóa và của
mọi thời đại [16],[22]. Tại Việt Nam, ni con bằng sữa mẹ được khuyến khích và
chấp nhận rộng rãi, ước tính có tới 98% trẻ nhỏ được bú mẹ. Tuy nhiên, trong các
nghiên cứu trước đây chỉ có khoảng 57% các bà mẹ thực hiện cho trẻ bú ngay sau
đẻ [2],[21].
Một trong những nguyên nhân quyết định đến việc cho trẻ bú là hiện tượng
xuống sữa. Ngày đầu sau đẻ, sản phụ thường có sữa non. Sau đẻ 2- 3 ngày có sữa
thường [4]. Thời điểm xuống sữa, đặc điểm của vú, tính chất của sữa và sự xuống
sữa khác nhau ở người con so và con rạ có thể ảnh hưởng đến quyết định cho trẻ
bú sớm nói riêng và chăm sóc trẻ nói chung.
Chính vì điều đó chúng tơi thực hiện đề tài: “Thực trạng xuống sữa của sản
phụ sau đẻ tại khoa Sản thường – Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2013 và
một số yếu tố liên quan”. Nhằm mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng xuống sữa của sản phụ sau đẻ tại khoa Sản thường,
bệnh viện Phụ sản Trung ương, năm 2013.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến sự xuống sữa của sản phụ sau khi đẻ
thường tại khoa Sản thường, bệnh viện Phụ sản Trung ương, năm 2013.

1


Chương 1
TỔNG QUAN


1.1. Giải phẫu học tuyến vú
Vú là tuyến sữa, nằm ở thành trước ngực, từ nách đến bờ xương ức và từ
xương sườn III đến xương sườn VII. Thường có hai vú. Một số trường hợp có thể
có một dãy vú phụ.

Hình 1.1. Giải phẫu học tuyến vú
1.1.1. Hình thể ngồi
Vú có hình mâm xơi. Nửa dưới lồi hơn tạo thành rãnh dưới vú ngăn cách vú
với da ngực. Rãnh càng sâu khi vú càng sệ xuống.
Ở trung tâm mặt trước vú có một lồi trịn gọi là núm vú. Núm vú có nhiều lỗ
nhỏ là lỗ tiết của các ống tiết sữa. Xung quanh núm vú có một quầng sẫm màu hơn
gọi là quầng vú. Ở mặt quầng vú có những hạt nhỏ nổi lên do các tuyến bã của
quầng vú đẩy lồi lên [4],[8],[13].
1.1.2. Cấu tạo
Từ nông vào sâu vú được cấu tạo bởi:
- Da: mềm mại, được tăng cường bởi các thớ cơ trơn ở quầng vú.


- Tổ chức liên kết dưới da tạo thành các hố mỡ, hay bị áp xe dưới da.
- Các tuyến sữa là loại tuyến chùm tạo thành các tiểu thùy. Nhiều tiểu thùy hợp
thành các thùy. Mỗi thùy đổ ra núm vú bởi một ống tiết sữa. Trước khi đổ ra các
ống tiết phình ra thành các xoang sữa.
Lớp mỡ sau vú rất dày ngay trên mạc nông của ngực, thường bị áp xe tại
đây [4],[8],[13].
Sự thay đổi của vú qua các thời kỳ
1.2.1. Tuyến vú lúc dậy thì
Mầm tuyến vú đầu tiên xuất hiện ở bào thai không chịu ảnh hưởng của
hormon, cho đến lúc dậy thì tuyến vú là mạng ống thưa thớt nối với núm vú. Đến
khi dậy thì, dưới ảnh hưởng của các hormon buồng trứng, mạng ống tăng sinh,
phân nhánh vào tổ chức mỡ, ở cực đầu của ống xuất hiện các nụ nhỏ là nguồn gốc

của tổ chức chế tiết.
1.2.2. Tuyến vú trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt
Ở giai đoạn tăng sinh, dưới ảnh hưởng của estradiol, các tế bào cơ biểu mô
bao quanh cực đầu của ống dẫn sữa tăng sinh, tổ chức liên kết giữ nước.
Ở giai đoạn chế tiết: progesteron là biệt hóa cực đầu của ống dẫn sữa, làm
ngừng sự tăng sinh của tế bào.
1.2.3. Tuyến vú khi có thai
Vú sau đẻ phát triển nhanh, vú căng lên, to và rắn chắc. Núm vú to, dài ra,
các tĩnh mạch dưới da vú nổi lên rõ rệt. Các tuyến sữa phát triển to lên, nắn thấy rõ
ràng, có khi lan tới tận nách.

3


Hình 1.2. Thay đổi của vú khi mang thai
Nguồn gốc của sự phát triển trên là do ảnh hưởng của các hormon, estrogen
và progesteron của bánh rau giữ vai trò cơ bản. Estrogen làm phát triển ống dẫn
sữa, làm cho các tiểu thùy nhạy cảm với các hormon khác. Progesteron làm phát
triển các tiểu thùy.
Hiện tượng chế tiết bắt đầu từ tháng thứ ba, tạo ra sữa non. Sữa non giàu
protein, lactose và globulin miễn dịch. Sữa non tồn tại cho đến lúc xuống sữa (sau
đẻ vài ngày).
Cuối thời kỳ thai nghén, dưới ảnh hưởng của estrogen và progesteron, tuyến
vú đã được chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng hoạt động. Trong khi có thai tuyến vú chưa
hoạt động vì estrogen và progesteron ức chế prolactin, sự ức chế này xảy ra ngay
tại tuyến yên và tuyến vú.
Sự xuống sữa xảy ra sau đẻ 2-3 ngày ở người con rạ, 3-4 ngày ở người con
so. Hiện tượng xuống sữa là do nồng độ prolactin trong máu tăng cao đột ngột làm
tổng hợp nhiều sữa [4],[8],[13].
1.3. Sinh lý tiết sữa

1.3.1. Đặc điểm
Ngày đầu sản phụ có sữa non, màu trắng nhạt, có nhiều men tiêu hóa. Sau
đẻ 2-3 ngày có sữa thường, đặc hơn và ngọt hơn. Ở người con rạ, sữa xuống sớm
hơn vào ngày thứ 2- 3 sau đẻ, ở người con so sữa xuống chậm hơn vào ngày thứ 34 sau đẻ.


Khi xuống sữa, vú căng tức và nóng, các tuyến sữa phát triển nhiều, phồng
to, các tĩnh mạch dưới da vú nổi rõ, có thể có hiện tượng sốt xuống sữa với các
0

hiện tượng: sốt nhẹ dưới 38 C, thời gian không quá nửa ngày, sau khi sữa được tiết
ra, các hiện tượng đó sẽ mất [3],[4].
1.3.2. Cơ chế xuống sữa
Sữa mẹ bài tiết theo cơ chế phản xạ. Khi trẻ bú, cảm giác đi từ núm vú lên
não tác động đến tuyến yên bài tiết prolactin và oxytoxin. Prolactin là nội tiết tố
của thùy trước tuyến yên, có tác dụng kích thích tế bào sữa. Đây là phản xạ tạo
sữa, vì vậy cho trẻ bú nhiều sẽ tạo sữa nhiều hơn.
Prolactin thường sản xuất nhiều về ban đêm và làm cho bà mẹ thư giãn
buồn ngủ. Vì vậy nên cho trẻ bú đêm. Prolactin cịn có tác dụng ngăn cản sự rụng
trứng, giúp bà mẹ chậm có thai.
Oxytoxin là nội tiết tố của thùy sau tuyến yên có tác dụng làm co các cơ
xung quanh tế bào tiết sữa để đẩy sữa từ các nang sữa theo ống dẫn sữa đến các
xoang sữa. Đây là phản xạ phun sữa.
Oxytoxin dễ bị ảnh hưởng bởi những ý nghĩ và cảm giác của bà mẹ:
+ Cảm giác tốt: khi bà mẹ thấy hài lịng thương u trẻ, ngắm nhìn hoặc
nghe thấy tiếng khóc của trẻ và tin tưởng sữa mình là tốt nhất sẽ hỗ trợ cho phản
xạ này.
+ Cảm giác xấu: khi bà mẹ lo lắng hoặc nghi ngờ là mình khơng đủ sữa có
thể hạn chế phản xạ và sữa mẹ ngừng chảy. Vì phản xạ oxytoxin là quan trọng nên
ngay sau khi đẻ, bà mẹ phải nằm cạnh con để trẻ tiếp xúc với mẹ và cho bú sớm.

- Chất ức chế trong sữa mẹ:
Sự sản xuất sữa trong vú cũng tự điều chỉnh được. Nếu sữa ứ đọng thì chất
ức chế sẽ làm ngưng sữa tiết sữa.
Nếu cho trẻ bú nhiều, vú lại tạo sữa nhiều hơn. Vì vậy, nếu trẻ khơng bú
được thì phải vắt sữa mẹ để vú tiếp tục sản xuất sữa.

5


Động tác bú của trẻ là vấn đề quan trọng. Ăn uống, nghỉ ngơi, uống thuốc
tuy cần thiết nhưng không thể giúp bà mẹ tạo được nhiều sữa nếu không cho trẻ bú
thường xuyên và đúng cách [5],[11],[15].
1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự xuống sữa
- Các trạng thái tinh thần: cáu giận, kích thích, lo lắng, sợ hãi, lúng túng và bối rối,
oán giận.
- Mệt mỏi: sau khi sinh sản phụ mất nhiều sức nên muốn nghỉ ngơi chưa cho con
bú ngay.
- Trẻ bú kém do tư thế bú sai, bà mẹ ngồi cho con bú chưa thoải mái, gị bó, trẻ
ngậm bắt vú chưa hiệu quả.
- Trẻ bú khơng đủ thời gian: do bà mẹ chưa có kiến thức về ni con, tự ti vì mình
ít sữa nên chỉ cho bú một thời gian ngắn rồi cho trẻ ăn thêm sữa ngoài. Hoặc do
bà mẹ mới cho trẻ bú đau rát đầu vú nên trẻ chỉ bú được một lúc rồi bà mẹ chủ
động ngừng cho con bú.
- Mẹ bị căng th ng tinh thần do các yếu tố cơng việc, gia đình dẫn đến bà mẹ lo
âu, căng th ng không tập trung cho con bú.
- Do người thân, bạn bè…có những nhận xét tiêu cực về mẹ hoặc bé.
- Đau vú hoặc tử cung khi cho bé bú làm mẹ ngại cho trẻ bú (đau núm vú, đau
bụng sau sinh…)
- Thiếu chất dinh dưỡng: bà mẹ sau khi sinh lo ngại về vóc dáng, ăn kiêng có suy
nghĩ tiêu cực vì sữa khơng đủ chất nên khơng cho con bú.

- Uống ít nước: thơng thường con người cần uống 1,5 lít – 2 lít nước mỗi ngày, khi
cho con bú sản phụ cần bổ sung nhiều nước hơn để sự bài tiết sữa được đầy đủ
[1],[7],[12],[18].
1.4. Các nghiên cứu tại Việt Nam và trên thế giới
Ngay sau khi sinh, trẻ đặc biệt cần được chăm sóc về dinh dưỡng và sữa
mẹ là nguồn thức ăn tốt nhất cho trẻ. Bú mẹ được khuyến khích và chấp nhận rộng
rãi ở Việt Nam, ước tính có tới 98% trẻ nhỏ được bú mẹ. Tỷ lệ này tại các vùng
thành thị là 94% và các vùng nông thôn là 99% [15].


Tuy tỷ lệ trẻ bú mẹ cao nhưng chỉ có khoảng 57% các bà mẹ thực hiện cho
con bú ngay trong vòng một giờ sau sinh, 30% các bà mẹ cho con bú lần đầu trong
vòng 24 giờ sau sinh [9]. Vào thời điểm này, những lợi ích quan trọng của việc cho
con bú ngay đối với cả mẹ lẫn con có thể mất đi rất nhiều. Tỷ lệ này có sự khác
biệt rất lớn theo các vùng: ở miền Trung, tỷ lệ cho con bú sớm sau sinh chỉ có
39%, trong khi đó ở miền Bắc là 68%. Vào năm 2002 trên cả nước có 54 bệnh viện
đáp ứng tiêu chí tồn cầu về Bệnh viện Thân thiện Trẻ em, trong đó có một bước là
cho trẻ bú sớm trong vòng một giờ sau sinh [15].
Báo cáo khoa học trên tạp chí Y học thực hành của Nguyễn Thanh Danh
về nguyên nhân làm giảm và mất sữa mẹ, cách phát hiện và điều trị phục hồi và
phòng ngừa thiếu sữa mẹ cho thấy nguyên nhân làm giảm và mất sữa mẹ là do
người mẹ thiếu dinh dưỡng dự trữ trong giai đoạn mang thai, mẹ quá trẻ hay mắc
bệnh nội khoa. Điều trị phục hồi sữa mẹ bằng cách: tham vấn xây dựng lòng tin,
sức khỏe và khả năng tiết sữa của người mẹ; kích thích sự tiết sữa của người mẹ
bằng nhiều cách: khuyến khích người mẹ cho con bú nhiều lần, cho bú đúng tư thế
và tránh làm việc quá sức [6].
Nông Thị Thu Trang khi nghiên cứu kiến thức và kỹ năng của bà mẹ trong
việc cho trẻ bú sớm tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2009 cho thấy kiến
thức của bà mẹ trong việc cho trẻ bú sớm là chưa cao. Kiến thức của bà mẹ về sữa
non và tác dụng về sữa non với trẻ sơ sinh tương đối tốt nhưng chỉ gần một nửa bà

mẹ có kiến thức đúng về thời gian nên cho con bú sau khi sinh. Tỷ lệ bà mẹ cho
con bú trong vòng một giờ đầu sau khi sinh thấp, chỉ đạt 31%. Tỉ lệ bà mẹ có tư
thế đúng và cho con ngậm bắt vú đúng rất thấp, tương ứng là 25,4% và 24,4%. Tuy
nhiên, tỉ lệ bà mẹ không cho con ăn hoặc uống thứ khác trước khi bú mẹ lần đầu
theo đúng khuyến nghị về nuôi con bằng sữa mẹ khá cao, chiếm 76,9%. Một số
yếu tố liên quan đến vấn đề cho trẻ bú sớm: kỹ năng cho trẻ bú lần đầu trong vịng
một giờ đầu sau sinh liên quan có ý nghĩa thống kê với các yếu tố từ phía mẹ như
tuổi, cân nặng khi sinh, thứ tự sinh [15].

7


Trên thế giới, mặc dù lợi ích của việc cho trẻ bú sớm trong vòng 30 phút
đầu sau sinh đã được chứng minh nhưng tỷ lệ trẻ được bú sớm rất khác nhau ở các
nước. Ví dụ: Phần Lan 77%, Thụy Sĩ 67%, Ba Lan 65%, Anh 46%, Colombia
49%, ấn Độ 16%, Indonesia 8%. Ở châu Á, hơn 80% số trẻ sơ sinh khơng được bú
sữa mẹ trong vịng 24h đầu sau đẻ [19],[20],[21].
Heinig MJ, Dewey KG. nghiên cứu tại Hoa Kỳ năm 2004 về những ảnh
hưởng của việc cho bú đối với cơ thể bà mẹ cho thấy: cho bú có tác dụng tốt với bà
mẹ cả trong thời kỳ hậu sản và giai đoạn sau. Cho bú trong thời kỳ hậu sản thúc
đẩy sự trở lại bình thường nhanh chóng của tử cung liên quan đến tác dụng của
Oxytocin. Cho bú còn dẫn đến sự trở lại nhanh hơn của trọng lượng cơ thể sau khi
mang thai. Tuy nhiên, khơng có bằng chứng cho thấy có mối liên quan giữa cho bú
và giảm béo phì. Cho bú cũng ảnh hưởng đến chuyển hóa Glucid và Lipid. Mặc dù
hiệu quả lâu dài chưa được biết đến, nhưng cho bú có thể ngăn ngừa sự phát triển
tiếp theo của bệnh tiểu đường và bệnh tim. Cho bú trì hỗn sự trở lại của hiện
tượng rụng trứng và giúp bà mẹ tránh thai nếu cho bú vô kinh [17].


Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn mẫu
Các sản phụ sau đẻ đường âm đạo hoặc đẻ mổ tại bệnh viện Phụ sản Trung
ương, với các tiêu chuẩn:
- Đẻ thai đủ tháng
- Đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Các sản phụ bị các bất thường không được cho con bú như: dùng kháng
sinh chống chỉ định cho con bú, mắc các bệnh có nguy cơ lây truyền
sang con cao…
Địa điểm nghiên cứu
Khoa Sản thường- Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 03/2013- tháng 10/2013
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kết nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu- kỹ thuật chọn mẫu nghiên cứu
2.5.1. Cỡ mẫu nghiên cứu
Áp dụng cơng thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu mơ tả tỷ lệ mắc quần thể
như sau:
n=Z

2
(1- α/2)p(1

– p)/(p.έ)

2


9


Trong đó:
- n: cỡ mẫu nghiên cứu
- p = 0,66: tỷ lệ sản phụ đã xuống sữa tại khoa Sản thường- Bệnh viện Phụ sản
Trung Ương (Nghiên cứu của Nguyễn Thị Lý [10]).
- έ: giá trị tương đối. Lấy έ= 0,1
- α: mức ý nghĩa thống kê. Lấy α = 0,05.
- Z1- α/2: giá trị Z thu được từ bảng Z ứng với giá trị α được chọn, là 1,96. Vậy, ta
có cỡ mẫu của nghiên cứu về kiến thức là:
2

2

n = 1,96 x 0,66 x 0,34/(0,66 x 0,1) = 197 (người)
- Vậy cỡ mẫu được chọn là: 198 (thai phụ)
2.5.2. Kỹ thuật chọn mẫu nghiên cứu
Chọn tất cả các đối tượng đủ tiêu chuẩn nghiên cứu tại khoa Sản thườngBệnh viện Phụ sản Trung ương trong thời gian nghiên cứu đến khi đủ cỡ mẫu 198
sản phụ thì dừng lại.
2.6. Nội dung, các biến số/chỉ số và phương pháp thu thập thông tin
2.6.1. Nội dung, các biến số/chỉ số nghiên cứu
* Các biến về đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
- Tuổi

- Nghề nghiệp

- Trình độ văn hóa

- Tiền sử sản khoa


- Thời gian chuyển dạ

- Cách đẻ

- Trọng lượng thai
* Tình trạng xuống sữa
- Thời điểm xuống sữa
- Đặc điểm xuống sữa: hình dạng vú, số lượng sữa, màu sắc sữa.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến sự xuống sữa
- Bú sớm
- Bú thường xuyên
- Chế độ dinh dưỡng


- Chế độ nghỉ ngơi
- Sử dụng sản phẩm hỗ trợ xuống sữa
- Tư vấn trước sinh
2.6.2. Phương pháp và công cụ thu thập thông tin
Công cụ thu thập
Phiếu nghiên cứu (Phụ lục 1)
Quy trình thu thập thơng tin
- Sản phụ sau khi được chuyển từ Phòng Đẻ lên khoa Sản thường, ổn định
giường và phịng chăm sóc.
- Tiến hành lấy số liệu:
+ Thời điểm bắt đầu thăm khám, lấy số liệu là ngày thứ 02 sau đẻ
Sản phụ được giải thích rõ mục đích và cách tiến hành nghiên cứu.
Khám và lấy số liệu theo mẫu phiếu nếu được sản phụ đồng ý.
Đánh giá các biến số:
Các biến đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.

Tình trạng xuống sữa.
Hình dạng 2 vú.
+ Nếu sản phụ chưa xuống sữa, tiếp tục đánh giá sự xuống sữa lại sau thời
điểm nhận định 24 giờ.
+ Thời điểm sản phụ ra viện, đánh giá: số lượng sữa, màu sắc sữa.
2.6.3. Nghiên cứu viên
Hộ sinh công tác tại khoa Sản thường- Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Sai số và cách khống chế
- Sai số chọn được khống chế bằng các tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng đã được
định nghĩa ở trên.
- Sai số khám và phỏng vấn được khống chế bằng các cách:
+ Phiếu nghiên cứu được thiết kế và thử nghiệm trước khi nghiên cứu.
+ Nghiên cứu viên giải thích rõ mục đích các câu hỏi
+ Thăm khám đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật.

11


2.8. Xử lý số liệu
- Xử lý số liệu bằng phần mềm Epi-info 6.04 để tính tỷ lệ phần trăm, giá trị trung
bình và độ lệch chuẩn; p, OR và 95%CI.
2.9. Đạo đức nghiên cứu
- Tất cả các sản phụ tham gia nghiên cứu đều tự nguyện, họ có thể từ chối tham gia
nghiên cứu vào bất kỳ lúc nào.
- Tất cả các thông tin của sản phụ đều được giữ kín, khơng tiết lộ cho bất kỳ ai nếu
khơng được sự đồng ý của họ.


Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
3.1.1. Tuổi của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1. Tuổi của đối tượng nghiên
cứu
Tuổi
Tuổi trung bình

Số lượng

Tỷ lệ %

28,64 ± 5,26

Tuổi lớn nhất

44

1

Tuổi nhỏ nhất

18

2

Biểu đồ 3.1. Tuổi của đối tượng nghiên cứu
Nhận xét:
- Nhóm tuổi từ 20 đến 34 chiếm tỷ lệ cao nhất là 85,3%. Có 1,5% sản phụ dưới
20 tuổi và 13,1% sản phụ từ 35 tuổi trở lên.
- Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 28,64 ± 5,26.


13


3.1.2. Nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.2. Nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu
Nghề

Số lượng

Tỷ lệ %

Nhân viên, cán bộ

132

66,7

Tự do

52

26,3

Học sinh, sinh viên

14

7,1


Tổng

198

100

* Nhận xét:
- Có 66,7% sản phụ là nhân viên, cán bộ.
- Có 7,1% là học sinh sinh viên,

3.1.3. Trình độ văn hóa của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.3. Trình độ văn hóa của đối tượng nghiên cứu
Trình độ văn hóa

Số lượng

Tỷ lệ %

Cao đ ng, đại học

103

52

Trung cấp

72

36,4


PTTH

22

11,1

Dưới PTTH

1

0,5

198

100

Tổng
* Nhận xét:

- Sản phụ có trình độ cao đ ng, đại học chiếm tỷ lệ cao nhất là 52%. Có 36,4%
sản phụ có trình độ trung cấp.


3.1.4. Tiền sử sản khoa

Biểu đồ 3.2. Số lần mang thai của đối tượng nghiên cứu
Nhận xét:
- Có 47% sản phụ có thai lần đầu; 39,4% sản phụ sinh con lần 2.
- Còn đến 12,1% sản phụ sinh con lần 3.


3.1.5. Thời gian chuyển dạ
Bảng 3.4. Thời gian chuyển dạ của đối tượng nghiên cứu
Thời gian chuyển dạ

Giờ

Trung bình

11,39 ± 3,74

Dài nhất

24

Ngắn nhất

2

* Nhận xét:
- Thời gian chuyển dạ trung bình là 11,39 ± 3,74 giờ.

15


3.1.6. Cách đẻ

Biểu đồ 3.3. Cách đẻ
* Nhận xét:
- Tỷ lệ sản phụ đẻ đường âm đạo là 66,7%. Có 33,3% sản phụ mổ đẻ.


3.1.7. Trọng lượng thai
Bảng 3.5. Trọng lượng thai
Trọng lượng

Số lượng

Tỷ lệ %

< 2500 gram

14

7,1

2500- < 3500 gram

143

72,2

>= 3500 gram

41

20,7

Tổng

198


100

* Nhận xét:
- Thai nhi có trọng lượng từ 2500 - < 3500 gram chiếm tỷ lệ cao nhất
72,2%.
- Có 20,7% thai nhi có trọng lượng từ 3500gram trở lên.


3.2. Tình trạng xuống sữa
3.2.1. Thời điểm xuống sữa
Bảng 3.6. Thời điểm xuống sữa
Thời điểm

Số lượng (n= 198)

Tỷ lệ %

Chưa xuống sữa

16

8,1

Sau đẻ 01 ngày

71

35,7

Sau đẻ 02 ngày


47

23,7

Sau đẻ 03 ngày

27

13,6

Sau đẻ 04 ngày

26

13,1

Sau đẻ 05 ngày

11

5,6

Thời điểm xuống sữa trung bình

2,23 ± 1,27 ngày

Biểu đồ 3.4. Thời điểm xuống sữa
Nhận xét:
- Có 35,7% sản phụ xuống sữa sau đẻ 01 ngày, 23,7% sau đẻ 02 ngày.

- Có 8,1% sản phụ chưa xuống sữa tại thời điểm ra viện.

17


3.2.2. So sánh thời điểm xuống sữa của người con so và con rạ
Bảng 3.7. So sánh thời điểm xuống sữa của sản phụ con so và con rạ
Con

Số lượng
(n= 182)

Thời điểm

p
> 0,05

So

81

2,41 ± 1,18

Rạ

101

2,08 ± 1,32

* Nhận xét:

- Thời điểm xuống sữa của sản phụ con so trung bình là 2,41 ± 1,18 ngày,
sản phụ con rạ là 2,08 ± 1,32 ngày. Sự khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê với
p > 0,05.

3.2.3. So sánh thời điểm xuống sữa của sản phụ đẻ thường và mổ đẻ
Bảng 3.8. So sánh thời điểm xuống sữa của sản phụ đẻ thường và mổ đẻ
Cách đẻ

Số lượng

Thời điểm

p
< 0,01

(n= 182)
Đẻ thường

121

1,52 ± 0,69

Mổ đẻ

61

3,62 ± 0,95

* Nhận xét:
- Thời điểm xuống sữa của sản phụ đẻ mổ trung bình là 3,62 ± 0,95

ngày, sản phụ đẻ thường là 1,52 ± 0,69 ngày. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p < 0,01


3.2.4. Đặc điểm của xuống sữa
Bảng 3.9. Đặc điểm của xuống sữa
Đặc điểm
Hình dạng vú
Số lượng sữa

Màu sắc sữa

Vú phải

Vú trái

Số lượng

Tỷ lệ %

Số lượng

Tỷ lệ %

Bình thường

195

98,5


195

98,5

Bất thường

3

1,5

3

1,5

Nhiều

2

1,0

0

0

Trung bình

106

53,5


107

54

Ít

90

45,5

91

46

Vàng

134

67,7

153

77,3

Trắng

64

32,3


45

22,7

Nhận xét:
- Chỉ có 1,5% sản phụ có tình trạng vú bất thường là tụt núm vú.
- Đa số sản phụ có lượng sữa về trung bình, chiếm 53,5- 54%.
- Sữa màu vàng chiếm tỷ lệ từ 67,7%- 77,3%.
3.3. Các yếu tố liên quan đến sự xuống sữa ở sản phụ đẻ thường
3.3.1. Bú sớm và xuống sữa
Bảng 3.10. Cho trẻ bú sớm và sự xuống sữa
Đặc điểm

Thời điểm xuống sữa

Tổng

OR

≤ 24 giờ

> 24 giờ

Bú sớm

69

40

109


18,11

Không

2

21

23

(3,79- 118,22)

Tổng

71

61

132

95%CI

* Nhận xét:
- Sản phụ cho trẻ bú sớm sẽ có sữa về trong vịng 24 giờ sau đẻ gấp 18,11
lần so với các sản phụ khơng cho trẻ bú sớm. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.

19



3.3.2. Bú thường xuyên và xuống sữa
Bảng 3.11. Cho trẻ bú thường xuyên và sự xuống sữa
Đặc điểm
Bú thường

Thời điểm xuống sữa
≤ 24 giờ

> 24 giờ

59

19

Tổng

OR
95%CI

78

xuyên

10,87

Không

12

42


54

Tổng

71

61

132

(4,44- 27,17)

* Nhận xét:
- Sản phụ cho trẻ bú thường xuyên sẽ có sữa về trong vòng 24 giờ sau đẻ
gấp 10,87 lần so với các sản phụ không cho trẻ bú thường xuyên. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê.

3.3.3. Dinh dưỡng và xuống sữa
Bảng 3.12. Chế độ dinh dưỡng và sự xuống sữa
Đặc điểm

Thời điểm xuống sữa

Tổng

OR

≤ 24 giờ


> 24 giờ

Ăn đủ chất

18

6

24

3,11

Không

53

55

108

(1,06- 9,57)

Tổng

71

61

132


95%CI

* Nhận xét:
- Sản phụ ăn đầy đủ dinh dưỡng sau sinh sẽ có sữa về trong vịng 24 giờ sau
đẻ gấp 3,11 lần so với các sản phụ ăn uống kiêng khem. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê.


3.3.4. Nghỉ ngơi và xuống sữa
Bảng 3.13. Chế độ nghỉ ngơi và sự xuống sữa
Đặc điểm

Thời điểm xuống sữa

OR

Tổng

≤ 24 giờ

> 24 giờ

Ngủ đủ giấc

12

7

19


1,57

Không

59

54

113

(0,52- 4,80)

Tổng

71

61

132

95%CI

* Nhận xét:
- Sản phụ ngủ đủ giấc sẽ có sữa về trong vịng 24 giờ sau đẻ gấp 1,57 lần so
với các sản phụ khơng ngủ đủ. Sự khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê.

3.3.5. Sử dụng sản phẩm hỗ trợ xuống sữa và xuống sữa
Bảng 3.14. Sử dụng các sản phẩm hỗ trợ xuống sữa và sự xuống sữa
Đặc điểm


Thời điểm xuống sữa

Tổng

OR
95%CI

≤ 24 giờ

> 24 giờ



14

10

24

1,25

Khơng

57

51

108

(0,47- 3,36)


Tổng

71

61

132

* Nhận xét:
- Sản phụ có sử dụng các sản phẩm hỗ trợ xuống sữa sẽ có sữa về trong
vịng 24 giờ sau đẻ gấp 1,25 lần so với các sản phụ không sử dụng. Sự khác biệt
khơng có ý nghĩa thống kê.

21


3.3.6. Tư vấn trước sinh và xuống sữa
Bảng 3.15. Tư vấn trước sinh và sự xuống sữa
Đặc điểm

Thời điểm xuống sữa

Tổng

≤ 24 giờ

> 24 giờ




64

36

100

Khơng

7

25

32

Tổng

71

61

132

OR
95%CI
6,35
(2,32- 18,05)

* Nhận xét:
- Sản phụ được tư vấn trước sinh sẽ có sữa về trước 24 giờ sau đẻ gấp 6,35

lần so với các sản phụ khơng được tư vấn. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.


Chương 4
BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu tại bảng 3.1 và biểu đồ 3.1 cho thấy tuổi trung bình
của đối tượng nghiên cứu là 28,64 ± 5,26 tuổi. Độ tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là từ
20- 34 tuổi (85,3%). Đây là nhóm tuổi trong độ tuổi sinh đẻ. Tuy nhiên, kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy có 1,5% sản phụ dưới 20 tuổi và 13,1% sản phụ từ 35
tuổi trở lên. Những sản phụ tuổi trẻ quá thường thiếu kinh nghiệm về việc chăm
sóc sức khỏe nói chung cũng như chăm sóc thai nghén và sau đẻ nói riêng, từ đó
ảnh hưởng đến sự xuống sữa và tiết sữa sau sinh. Những sản phụ nhiều tuổi sức
khỏe sinh sản thường khơng tốt, có thể ảnh hưởng đến q trình chăm sóc sơ sinh
sau đẻ.
Nghề nghiệp và trình độ học vấn là những yếu tố khá quan trọng làm tăng
kiến thức, kỹ năng và thái độ nói chung cũng như những kinh nghiệm về chăm sóc
thai nghén, chăm sóc sau sinh nói riêng của sản phụ. Kết quả bảng 3.2 và 3.3 của
chúng tôi cho thấy có 66,7% sản phụ trong nhóm nghiên cứu là cán bộ công chức
và 26,3% làm việc tự do, có 52% sản phụ có trình độ học vấn từ đại học, cao đ ng
trở lên. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thị Lý [10].
Theo tác giả, có 60% sản phụ đẻ tại bệnh viện Phụ sản Trung ương là cán bộ công
chức và 59,4% có trình độ đại học, cao đ ng. Kết quả này là do đa số sản phụ vào
bệnh viện Phụ sản Trung ương sinh đẻ là những sản phụ sinh sống tại Hà Nội và
các vùng lân cận. Vì thế, lượng cán bộ công chức nhà nước cũng như những người
làm nghề tự do, buôn bán chiếm tỷ lệ cao hơn.
Kết quả bảng 3.2 cũng cho thấy có 7,1% sản phụ là học sinh- sinh viên.
Như vậy, tỷ lệ học sinh- sinh viên mang thai và sinh con hiện nay khá cao. Việc
các bạn trẻ có con khi cịn đang đi học cũng ảnh hưởng nhiều đến việc chăm sóc


23


trẻ và quá trình cho con bú sau sinh do họ thường thiếu kinh nghiệm về chăm sóc
trẻ sơ sinh.
Kết quả biểu đồ 3.2 cho thấy có 47% sản phụ mang thai lần đầu; 39,4%
sản phụ mang thai lần thứ 02. Tuy nhiên, vẫn còn đến 13,6% sản phụ mang thai từ
03 lần trở lên. Việc mang thai và sinh đẻ nhiều sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe bà mẹ,
ảnh hưởng đến sự xuống sữa cũng như chất lượng của nguồn sữa. Vì vậy, cần
khuyến cáo các bà mẹ nên sinh đẻ từ một đến hai con, thực hiện đúng chính sách
Dân số- kế hoạch hóa gia đình của Nhà nước.
Thời gian chuyển dạ khác nhau tùy thuộc người con so và người con rạ.
Thai phụ con so thường chuyển dạ lâu hơn thai phụ con rạ. Thời gian chuyển dạ
trung bình là 11,39 ± 3,74 giờ (bảng 3.4). Thời gian chuyển dạ dài nhất là 24 giờ
và thời gian chuyển dạ ngắn nhất là 02 giờ. Chuyển dạ kéo dài làm sản phụ mất
nhiều nước và dịch, ngoài ra cịn làm sản phụ mệt mỏi có thể ảnh hưởng đến việc
tiết sữa sau sinh.
Kết quả biểu đồ 3.3 cho thấy có 66,7% sản phụ trong nhóm nghiên cứu đẻ
thường, 33,3% sản phụ được mổ đẻ. Một trong những nguyên nhân làm cho tỷ lệ
mổ đẻ cao là do hiện nay thai nhi có trọng lượng lớn hơn. Có 20,7% thai có trọng
lượng từ 3500 gram trở lên. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của
Nguyễn Thị Lý [10]. Hiện nay, do mức sống của người dân cao hơn, các thai phụ
được khám và chăm sóc thai nghén tốt hơn, đặc biệt là những chăm sóc về dinh
dưỡng nên trọng lượng thai thường nặng hơn trước đây. Thai to có thể có nguy cơ
bị hạ đường huyết, vàng da cao hơn nên càng cần thiết được bà mẹ cho bú sớm và
thường xuyên hơn.


4.2. Tình trạng xuống sữa
4.2.1. Thời điểm xuống sữa

Sữa mẹ được bài tiết theo cơ chế phản xạ do khi trẻ bú, cảm giác đi từ núm
vú lên não tác động đến tuyến yên bài tiết prolactin và oxytocin. Hai phản xạ giúp
sữa mẹ bài tiết là phản xạ tạo sữa liên quan đến hormon prolactin và phản xạ phun
sữa liên quan đến hormon oxytocin [8],[15].
Kết quả tại bảng 3.6 và biểu đồ 3.4 của chúng tôi cho thấy thời điểm xuống
sữa thường gặp nhất của sản phụ là sau đẻ 01 ngày (35,7%) và sau đẻ 02 ngày
(23,7%). Có 13,6% sản phụ xuống sữa sau đẻ 03 ngày; 13,1% xuống sữa sau đẻ 04
ngày. Thời điểm xuống sữa trung bình là 2,23 ± 1,27 ngày. Kết quả này cho thấy
hiện tượng xuống sữa của các sản phụ hiện nay sớm hơn với các nghiên cứu trước
đây. Các nghiên cứu cho rằng hiện tượng xuống sữa thường vào ngày thứ 02 đến
ngày thứ 04 sau đẻ [4],[5],[9],[11]. Giải thích điều này theo chúng tôi hiện nay
mức sống của người dân tốt hơn nên các sản phụ được chăm sóc thai nghén và
chăm sóc sau đẻ tốt hơn. Bên cạnh đó, đây là nghiên cứu thực hiện tại bệnh viện
Phụ sản Trung ương- bệnh viện đầu ngành về Sản phụ khoa tại miền Bắc nên các
sản phụ đã được đội ngũ Bác sĩ, Hộ sinh và Điều dưỡng tư vấn trong quá trình
mang thai và sau đẻ chu đáo hơn, nhiệt tình hơn đã giúp cho các bà mẹ có hiện
tượng xuống sữa sớm hơn trước đây.
Tuy nhiên, kết quả cũng cho thấy có đến 5,6% sản phụ có sữa về sau đẻ 05
ngày; 8,1% sản phụ chưa có sữa về vào thời điểm ra viện. Việc sữa về muộn có thể
ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển của bà mẹ và sơ sinh. Cần tư vấn cho
những bà mẹ này cách để sữa về sớm hơn như cho trẻ bú thường xuyên, ngủ đủ
giấc, tâm lý thoải mái, ăn đầy đủ dinh dưỡng….
Kết quả tại bảng 3.8 cho thấy thời điểm xuống sữa trung bình của sản phụ
đẻ thường là 1,52 ± 0,69 ngày; thời điểm xuống sữa trung bình của sản phụ sau mổ
đẻ là 3,62 ± 0,95 ngày. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,01. Kết quả này
phù hợp với các nghiên cứu trước đây là sản phụ đẻ mổ thường có sữa về muộn
hơn các sản phụ đẻ thường [4],[13]. Điều này là do sau mổ đẻ, sản phụ thường vận
25



×