Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo " Về trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động và bảo vệ sức khoẻ người lao động "

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.46 KB, 7 trang )

nghiên cứu - trao đổi

ths. đỗ thị dung *

o m điều kiện lao động an toàn, vệ
sinh, bảo vệ sức khoẻ, ngăn ngừa tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người
lao động là một trong các yếu tố quan trọng
để doanh nghiệp ổn định sản xuất, tăng năng
suất lao động. Song, do kinh phí để đầu tư và
tổ chức các hoạt động này khá lớn nên hầu
hết các doanh nghiệp vì mục đích lợi nhuận
trước mắt, đã khơng chú trọng đúng mức.
Theo kết quả thanh tra thực hiện Bộ luật lao
động từ năm 1995 đến năm 2008 thì “chưa
có doanh nghiệp nào thực hiện đầy đủ các
nội dung cơ bản của Bộ luật lao động. Bình
quân chung là 7 sai phạm/doanh nghiệp”.(1)
Trong đó, các sai phạm chủ yếu của doanh
nghiệp liên quan đến vấn đề về an toàn lao
động, vệ sinh lao động và bảo vệ sức khoẻ
người lao động.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề
mà pháp luật lao động từ trước đến nay đều
quy định Nhà nước thống nhất quản lí các
hoạt động về an tồn lao động, vệ sinh lao
động và bảo vệ sức khoẻ người lao động.
Cịn các doanh nghiệp có trách nhiệm buộc
phải thực hiện những quy định của Nhà
nước. Theo quy định của pháp luật hiện
hành,(2) trách nhiệm của doanh nghiệp gồm


ba nhóm: trách nhiệm thực hiện tiêu chuẩn
an toàn lao động, vệ sinh lao động; trách

B

t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011

nhiệm bảo đảm sức khoẻ cho người lao động
và trách nhiệm đối với người lao động bị tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Nhìn chung
các quy định của pháp luật về trách nhiệm
của doanh nghiệp trong lĩnh vực này khá
toàn diện và đầy đủ. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện, các quy định của pháp luật
còn bộc lộ một số vấn đề bất cập.
Thứ nhất, trách nhiệm của doanh nghiệp
trong việc thực hiện tiêu chuẩn an toàn lao
động, vệ sinh lao động.
Trách nhiệm thực hiện tiêu chuẩn an
toàn lao động, vệ sinh lao động của doanh
nghiệp được hiểu là doanh nghiệp phải thực
hiện các tiêu chuẩn về pháp luật, khoa học kĩ
thuật, kinh tế-xã hội nhằm ngăn ngừa các
nguy cơ xảy ra sự cố làm chấn thương và đe
dọa tính mạng người lao động, hạn chế các
yếu tố có hại cho sức khoẻ người lao động
trong q trình lao động. Có thể tóm tắt các
trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc
thực hiện tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ
sinh lao động như sau:

- Doanh nghiệp phải có luận chứng về
các biện pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao
động đối với nơi làm việc của người lao
động và môi trường xung quanh khi xây
* Giảng viên chính Khoa pháp luật kinh tế
Trường Đại học Luật Hà Nội

3


nghiên cứu - trao đổi

dng mi hoc m rng, ci tạo cơ sở để sản
xuất, sử dụng, bảo quản, lưu giữ và tàng trữ
các loại máy, thiết bị.
- Thực hiện đúng theo tiêu chuẩn an
toàn, vệ sinh lao động khi sản xuất, sử dụng,
bảo quản, vận chuyển các loại máy, thiết bị,
vật tư, năng lượng, điện, hóa chất, thuốc bảo
vệ thực vật, khi thay đổi công nghệ, nhập
khẩu công nghệ mới. Các loại máy, thiết bị,
vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về
an toàn, vệ sinh lao động phải được đăng kí
và kiểm định theo quy định của nhà nước.
- Tại nơi làm việc của người lao động,
doanh nghiệp phải bảo đảm đạt các tiêu
chuẩn về không gian, độ thoáng, độ sáng, đạt
tiêu chuẩn vệ sinh cho phép về bụi, hơi, khí
độc, phóng xạ, điện từ trường, nóng, ẩm, ồn,
rung và các yếu tố có hại.

- Trong quá trình sử dụng lao động,
doanh nghiệp phải định kì kiểm tra đo lường
các yếu tố có hại này đồng thời phải định kì
kiểm tra, tu sửa máy, thiết bị, nhà xưởng,
kho tàng theo tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh lao
động. Đối với các bộ phận dễ gây nguy hiểm
của máy, thiết bị, doanh nghiệp phải bố trí
đề phịng sự cố, có bảng chỉ dẫn về an tồn,
vệ sinh lao động nơi làm việc, nơi đặt máy,
thiết bị, nơi có yếu tố nguy hiểm độc hại
trong doanh nghiệp. Bảng chỉ dẫn về an
tồn, vệ sinh phải đặt ở vị trí mà mọi người
dễ thấy, dễ đọc.
Ngoài ra, doanh nghiệp phải trang bị
phương tiện kĩ thuật, y tế và trang bị bảo hộ
lao động thích hợp để bảo đảm ứng cứu kịp
thời khi xảy ra sự cố, tai nạn lao động ở
những nơi có yếu tố nguy hiểm, độc hại, dễ
gây tai nạn lao động. Doanh nghiệp phải
4

thực hiện ngay những biện pháp khắc phục
hoặc phải ra lệnh ngừng hoạt động tại nơi
làm việc và cho ngừng hoạt động đối với
máy, thiết bị có nguy cơ gây tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp cho tới khi nguy cơ
được khắc phục.
Thực hiện triệt để các trách nhiệm này
chính là doanh nghiệp đã thiết lập được môi
trường lao động thuận lợi, ngăn ngừa tai nạn

lao động, bệnh nghề nghiệp. Tuy nhiên,
trong quá trình triển khai thực hiện vẫn còn
một số điểm cần xem xét.
Một là pháp luật hiện hành không quy
định rõ cơ quan có thẩm quyền phê duyệt
luận chứng về các biện pháp bảo đảm an toàn,
vệ sinh lao động đối với nơi làm việc của
người lao động và môi trường xung quanh.
Từ khi Nghị định số 110/2002/NĐ-CP ngày
27/12/2002 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 06/CP ngày 20/1/1995 có hiệu
lực, các doanh nghiệp rất lúng túng trong
việc thực hiện quy định này vì khơng biết
gửi luận chứng đến đâu để trình duyệt. Điều
này dẫn đến hệ quả là các luận chứng của
doanh nghiệp, nếu có, chủ yếu để đối phó
với cơ quan chức năng, chưa nhằm bảo vệ
người lao động và bảo vệ môi trường xung
quanh như quy định đặt ra. Những vụ việc
xảy ra trong thời gian gần đây như việc có
rất nhiều doanh nghiệp khai thác đá, khoáng
sản, xây dựng… đã xảy ra tai nạn lao động
và có hơn 90% doanh nghiệp được thanh tra,
kiểm tra vi phạm pháp luật mơi trường đã
chứng minh rõ điều đó.
Hai là thủ tục đăng kí máy, thiết bị, vật
tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao
động, vệ sinh lao động cịn q lỏng lẻo. Đó
t¹p chÝ lt häc sè 12/2011



nghiên cứu - trao đổi

l doanh nghip cú th chuyn hồ sơ đăng
kí trực tiếp hoặc chuyển qua đường bưu
điện/fax/thư điện tử đến cơ quan đăng kí và
khơng cần có giấy chứng nhận đã đăng kí
của cơ quan có thẩm quyền. Quy định này
dẫn đến tình trạng cơ quan chức năng khó
kiểm sốt việc doanh nghiệp đã thực hiện
đăng kí hay chưa nên cũng khó có đủ cơ sở
xử phạt hành chính đối với doanh nghiệp
vi phạm. Về phía doanh nghiệp, hầu hết
các hồ sơ gửi đến nhằm thông báo chứ khơng
phải đăng kí. Vì thế, hiệu quả của hoạt
động này trong việc bảo đảm an toàn lao
động, vệ sinh lao động đối với người lao
động chỉ là lí thuyết.
Ba là pháp luật chưa quy định danh mục
cấm nhập khẩu, sử dụng máy móc, thiết bị,
vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn
lao động, vệ sinh lao động nên đã dẫn đến
tình trạng doanh nghiệp nhập khẩu các máy
móc đã quá niên hạn sử dụng, nhập khẩu
rác, phế thải hoặc máy móc ở Việt Nam cho
là cơng nghệ mới nhưng ở nước ngồi cơng
nghệ đó đã lỗi thời hàng trăm năm. Hậu quả
làm thất thoát của doanh nghiệp và nhà
nước nhiều tỉ đồng.
Bốn là việc bỏ đăng kí các chất có u

cầu nghiêm ngặt về an tồn lao động, vệ sinh
lao động như hiện nay là không hợp lí. Vì
như thế sẽ khuyến khích các doanh nghiệp
sử dụng các chất độc hại có nguy cơ gây ra
nhiều loại bệnh cho người lao động, nhất là
những lao động đặc thù như: phụ nữ có thai
hoặc ni con dưới 12 tháng tuổi, lao động
chưa thành niên, lao động là người cao tuổi,
lao động là người tàn tật. Như thế cũng sẽ
mâu thuẫn với các quy định khác về bảo vệ
t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011

sức khoẻ đối với các lao động này.(3)
Năm là chế tài chưa hợp lí đối với doanh
nghiệp vi phạm quy định định kì kiểm tra đo
lường các tiêu chuẩn vệ sinh về bụi, hơi, khí
độc, phóng xạ, điện từ trường, nóng, ẩm, ồn,
rung và các yếu tố có hại.(4)
Thứ hai, trách nhiệm của doanh nghiệp
trong việc bảo đảm sức khoẻ đối với người
lao động.
Các quy định liên quan đến vấn đề bảo
vệ sức khoẻ cho người lao động bao gồm:
- Doanh nghiệp phải tổ chức huấn luyện,
hướng dẫn, thông báo cho người lao động về
những quy định, biện pháp làm việc an toàn,
vệ sinh và những khả năng tai nạn cần đề
phịng trong cơng việc của từng người.
- Doanh nghiệp phải cấp đầy đủ phương
tiện bảo vệ cá nhân, phải bảo đảm các

phương tiện bảo vệ cá nhân đạt tiêu chuẩn
chất lượng và quy cách theo quy định của
pháp luật.
- Doanh nghiệp phải có trách nhiệm
chăm lo sức khoẻ cho người lao động, phải
tổ chức khám sức khoẻ khi tuyển dụng và
khám sức khoẻ định kì cho người lao động.
- Doanh nghiệp phải bồi dưỡng bằng
hiện vật, phải thực hiện chế độ ưu đãi về thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi cho người
lao động theo quy định.
- Doanh nghiệp phải rút ngắn thời giờ
làm việc đối với lao động nữ, lao động là
người tàn tật và lao động chưa thành niên.
Không sử dụng lao động chưa thành niên,
lao động nữ có thai từ tháng thứ 7 trở lên
hoặc nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, lao
động tàn tật bị suy giảm 51% khả năng lao
động trở lên làm thêm, làm đêm.
5


nghiên cứu - trao đổi

- Doanh nghip phi bo m các biện
pháp khử độc, khử trùng, vệ sinh cá nhân
cho người lao động sau khi làm việc ở nơi có
yếu tố gây nhiễm độc, nhiễm trùng.
- Doanh nghiệp phải căn cứ vào sức khoẻ
người lao động để bố trí cơng việc phù hợp.

Không được sử dụng lao động nữ, lao động
chưa thành niên, lao động là người cao tuổi,
lao động là người tàn tật làm những công
việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với
các chất độc hại có ảnh hưởng xấu tới sức
khoẻ, thiên chức của họ. Riêng lao động nữ,
người sử dụng lao động không được sử dụng
họ làm việc thường xuyên dưới hầm mỏ
hoặc ngâm mình dưới nước.
Nhìn chung, các quy định về trách nhiệm
của doanh nghiệp thực hiện các hoạt động
này là khá toàn diện. Ngoài các chế độ bảo
vệ sức khoẻ cho người lao động nói chung,
pháp luật lao động cịn quy định doanh
nghiệp phải thực hiện các chế độ bảo vệ sức
khoẻ đối với lao động đặc thù là phù hợp,
tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng có
đặc điểm riêng về tâm sinh lí, sức khoẻ cũng
được bình đẳng về bảo vệ sức khoẻ trong
quá trình tham gia quan hệ lao động. Tuy
nhiên, để phù hợp với sự phát triển kinh tếxã hội, nhu cầu của người lao động, cần xem
xét các vấn đề:
Một là thời gian rút ngắn đối với lao
động đặc thù như quy định hiện nay là không
thực sự phù hợp với mục đích bảo vệ sức
khoẻ cho các lao động này.
Hai là chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật
chưa thực hiện triệt để theo quy định của
pháp luật. Mức bồi dưỡng thấp hoặc không
đáp ứng được nhu cầu, sở thích, thói quen…

6

của người lao động. Vì thế khơng bảo vệ sức
khoẻ người lao động như mục đích đề ra.
Ba là các quy định về khám sức khoẻ
cũng chưa được cụ thể về các hạng mục cần
khám để đánh giá sức khoẻ của người lao
động nhằm phù hợp với điều kiện của doanh
nghiệp. Thực tế, các doanh nghiệp không
thực hiện thường xuyên hoạt động này hoặc
thực hiện mang tính hình thức, chỉ dừng lại ở
việc đánh giá về cân nặng, chiều cao, bệnh
ngồi da… khơng phát hiện được các bệnh
nghề nghiệp do yêu cầu cần phải có máy
móc hiện đại hoặc đội ngũ y bác sĩ có trình
độ chun môn cao.
Thứ ba, trách nhiệm của doanh nghiệp
đối với người lao động bị tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp.
Trong quá trình thực hiện nghĩa vụ lao
động, những rủi ro bất kì có thể xảy ra đối
với người lao động. Để đảm bảo cuộc sống
cho người lao động bị tai nạn lao động hoặc
bệnh nghề nghiệp trong trường hợp thương
tật, suy giảm khả năng lao động, doanh
nghiệp phải có trách nhiệm:
- Sơ cứu, cấp cứu, điều trị kịp thời.
- Trả đủ lương và tồn bộ chi phí y tế
cho người lao động trong thời gian điều trị.
- Sau khi điều trị, doanh nghiệp phải bố

trí cơng việc phù hợp với mức độ suy giảm
khả năng lao động của người lao động và
phải khám sức khoẻ định kì 6 tháng/lần cho
người lao động.
- Doanh nghiệp phải bồi thường hoặc trợ
cấp cho người lao động. Cụ thể, doanh
nghiệp phải bồi thường khi người lao động
khơng có lỗi, cịn nếu người lao động có lỗi
thì doanh nghiệp cũng phải trợ cấp cho
t¹p chÝ lt häc sè 12/2011


nghiên cứu - trao đổi

ngi lao ng. Mc bi thng, trợ cấp căn
cứ vào mức suy giảm khả năng lao động và
lỗi của người lao động.
Trường hợp doanh nghiệp chưa tham gia
loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc và người
lao động thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội
bắt buộc thì ngồi những khoản trên, người
sử dụng lao động phải trả cho người lao
động khoản tiền ngang với mức quy định
trong Luật bảo hiểm xã hội.
- Khi xảy ra tai nạn lao động, người sử
dụng lao động phải lập biên bản, điều tra có
sự tham gia của đại diện ban chấp hành cơng
đồn cơ sở. Định kì vào tháng một và tháng
bảy hàng năm, doanh nghiệp phải khai báo,
thống kê, báo cáo về tất cả các trường hợp bị

tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp xảy ra
trong doanh nghiệp.
Theo đánh giá chung thì các quy định
này đã tăng cường trách nhiệm của doanh
nghiệp đối với người lao động bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp. Cho dù người lao
động có lỗi hay khơng có lỗi thì đều liên
quan đến quyền quản lí của doanh nghiệp vì
thế doanh nghiệp phải có trách nhiệm đảm
bảo cuộc sống, chia sẻ rủi ro đối với người
lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp là hợp lí. Tuy nhiên, trong mối tương
quan về trách nhiệm với các chủ thể khác
cũng như nhằm mục đích bảo đảm an sinh xã
hội mà Đảng và Nhà nước ta đang đặt ra
hiện nay, các quy định này cần thiết phải sửa
đổi, bổ sung một số vấn đề sau đây:
Một là quy định trách nhiệm của doanh
nghiệp phải trả đủ lương và chi phí y tế
cho người lao động trong thời gian điều trị
là không phù hợp. Thực tế, có nhiều tai
t¹p chÝ lt häc sè 12/2011

nạn lao động xảy ra, người lao động phải
điều trị trong thời gian dài, chi phí y tế q
lớn, trong khi đó doanh nghiệp lại có quy
mơ nhỏ, làm ăn khơng có lãi thì đây là vấn
đề gây khơng ít khó khăn cho các doanh
nghiệp. Nên chăng, cần xem xét đến thực
tế doanh nghiệp cũng như trách nhiệm của

bảo hiểm xã hội khi người lao động đã
tham gia đóng phí.
Hai là quy định trách nhiệm doanh
nghiệp phải bố trí cơng việc phù hợp với khả
năng lao động của người lao động sau khi bị
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cũng cần
xem xét. Thực tế doanh nghiệp khơng có
cơng việc phù hợp thì giải quyết như thế
nào? Hiện nay pháp luật quy định đây là
trách nhiệm “cứng” nên các doanh nghiệp
buộc phải bố trí cơng việc, kể cả khơng có
cơng việc phù hợp, sau đó nếu người lao
động khơng hồn thành cơng việc thì doanh
nghiệp sẽ đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động. Chúng tôi cho rằng trong trường
hợp này nên quy định linh hoạt vì ngồi việc
bảo đảm ngun tắc bảo vệ việc làm cho
người lao động, luật lao động cũng phải đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng lao động.
Ba là pháp luật chưa quy định cụ thể vấn
đề bồi thường hoặc trợ cấp trong trường hợp
người lao động bị bệnh nghề nghiệp nhưng
phát sinh từ điều kiện lao động có hại trong
thời gian làm cho doanh nghiệp trước đó. Vì
thế đã gây khơng ít khó khăn cho doanh
nghiệp nơi mà người lao động đang làm
việc, nếu thực hiện đầy đủ các quyền lợi cho
người lao động thì ảnh hưởng đến lợi nhuận,
nếu khơng thực hiện thì ảnh hưởng đến

7


nghiên cứu - trao đổi

quyn li ngi lao ng. Thc tế nhiều
doanh nghiệp không thực hiện bồi thường
hoặc trợ cấp trong trường hợp này.
Bốn là pháp luật chưa quy định nguồn
quỹ để người sử dụng lao động chủ động
trong việc chi trả khi người lao động bị tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Năm là quy định khi người lao động bị
tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp đều
được hưởng chế độ như nhau là khơng hợp
lí. Do đặc điểm khác nhau về điều kiện phát
sinh, thời gian điều trị, sự ổn định sau điều
trị… mà quy định về thời điểm hưởng, mức
hưởng giống nhau là không phù hợp. Hơn
nữa, pháp luật lao động chỉ mới đưa ra khái
niệm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp chứ
chưa quy định các điều kiện để hưởng chế
độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Vì
vậy pháp luật cũng cần thiết điều chỉnh vấn
đề này để vừa nhằm bảo vệ sức khoẻ người
lao động đồng thời giúp người sử dụng lao
động áp dụng hiệu quả trên thực tế.
Sáu là quy định trách nhiệm của doanh
nghiệp phải chi trả khoản tiền tương ứng quỹ
bảo hiểm xã hội chi trả cho người lao động

bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong
trường hợp doanh nghiệp khơng tham gia
bảo hiểm xã hội và khơng đóng bảo hiểm xã
hội cho người lao động thuộc diện tham gia
bảo hiểm xã hội bắt buộc (hợp đồng lao
động từ 3 tháng trở lên) cũng cần xem xét
thêm. Mục đích của quy định này là nhằm
ràng buộc trách nhiệm của người sử dụng
trong việc đảm bảo các quyền lợi về bảo
hiểm xã hội cho người lao động. Tuy nhiên,
trách nhiệm nộp bảo hiểm là của doanh
nghiệp nhưng trách nhiệm thu, chi thuộc về
8

bảo hiểm xã hội. Không thể quy định như
vậy để ràng buộc doanh nghiệp được.
Nhằm tăng cường trách nhiệm của người
sử dụng lao động và bảo đảm hơn nữa các
điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao
động và bảo vệ sức khoẻ người lao động, tác
giả bài viết đưa ra một số kiến nghị sau đây:
1. Quy định cơ quan có thẩm quyền phê
duyệt luận chứng về các biện pháp bảo đảm
an toàn, vệ sinh lao động đối với nơi làm việc
của người lao động và môi trường xung quanh.
2. Quy định chặt chẽ thủ tục đăng kí
máy, thiết bị, vật tư có u cầu nghiêm ngặt
về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Hồ sơ
đăng kí phải gửi trực tiếp đến cơ quan đăng
kí. Sau khi kiểm định, cơ quan đăng kí cấp

giấy chứng nhận đăng kí thống nhất theo
biểu mẫu.
3. Khơi phục quy định bắt buộc phải
đăng kí các chất có u cầu nghiêm ngặt về
an toàn lao động, vệ sinh lao động.
4. Quy định rút ngắn hơn nữa thời giờ
làm việc cho các lao động đặc thù. Họ chỉ
phải làm việc tối đa 6 giờ/ngày, 36 giờ/tuần.
5. Quy định linh hoạt trách nhiệm của
người sử dụng lao động trong việc bố trí
cơng việc cho người lao động sau tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp. Doanh nghiệp chỉ
buộc phải bố trí cơng việc cho người lao
động khi người lao động còn sức khoẻ thực
hiện được nghĩa vụ lao động và ý thức kỉ
luật tốt. Trường hợp người lao động không
đảm bảo sức khoẻ và ý thức kỉ luật không tốt
(bị suy giảm từ 31% khả năng lao động trở
lên nếu do lỗi của người lao động, bị suy
giảm từ 61% khả năng lao động trở lên nếu
khơng do lỗi của người lao động) thì người
t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011


nghiên cứu - trao đổi

s dng lao ng cú quyn đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động với người lao
động. Quy định như thế vừa đảm bảo lợi ích
của người sử dụng lao động, vừa thể hiện ý

nghĩa chính trị-xã hội trong việc đảm bảo
chất lượng nguồn nhân lực hiện nay (vốn
được coi là điểm yếu nhất của nguồn lao
động Việt Nam) mà vẫn đảm bảo mục đích
an sinh xã hội và công bằng xã hội.
6. Nên quy định người sử dụng lao động
chỉ phải trả toàn bộ tiền lương và chi phí y tế
trong khoảng thời gian điều trị tối đa 12
tháng tùy thuộc vào tình trạng bệnh tật, sức
khoẻ và ý thức kỉ luật của người lao động.
Quy định danh mục về tình trạng bệnh, sức
khoẻ và mức độ lỗi của người lao động
tương ứng với thời gian điều trị tối đa đó.
Trường hợp điều trị quá 12 tháng, cần thiết
phải có sự tham gia của bảo hiểm xã hội.
Theo đó, người sử dụng lao động sẽ phải trả
theo tỉ lệ giảm dần tính trên thời gian điều
trị, bảo hiểm xã hội chi trả theo tỉ lệ tăng dần
tính trên thời gian điều trị, để vừa đảm bảo
cơng bằng về quyền lợi cho người lao động,
không ảnh hưởng lớn đến lợi ích của người
sử dụng lao động và đồng thời tận dụng
được sự an toàn của quỹ bảo hiểm tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp. Như vậy sẽ đảm
bảo hơn quyền lợi cho người sử dụng lao
động khi tham gia quan hệ lao động, nhất là
trong trường hợp người lao động mới vào
làm việc mà gặp rủi ro do lỗi của họ.
7. Quy định các đơn vị sử dụng lao động
phải lập quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp. Mức phí đóng từ 1,5% đến 3% so
với tổng quỹ tiền lương, được trích từ lợi
nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Tùy vào
t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011

điều kiện thực tế của doanh nghiệp mà chủ
sử dụng lựa chọn mức cụ thể nhằm bảo đảm
chủ động nguồn chi trả khi người lao động bị
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
8. Tách chế độ tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp thành hai chế độ: Tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp. Đồng thời quy
định cụ thể về điều kiện hưởng (hoặc dẫn
chiếu quy định của pháp luật khác), thời
điểm chi trả và mức hưởng cho các trường
hợp suy giảm khả năng lao động cụ thể.
9. Quy định vai trò của tổ chức cơng
đồn cấp trên cấp cơ sở trong việc tham gia
lập biên bản, điều tra tai nạn lao động, tham
gia hội đồng bảo hộ lao động trong doanh
nghiệp và các hoạt động khác để bảo vệ
người lao động trong trường hợp doanh
nghiệp khơng có tổ chức cơng đồn cơ sở
hoặc ban chấp hành cơng đồn lâm thời.
10. Tăng cường đội ngũ thanh tra an toàn
lao động, vệ sinh lao động cả về lượng và
chất nhằm đảm bảo kiểm tra, thanh tra, xử
phạt kịp thời các vi phạm pháp luật của
doanh nghiệp về lĩnh vực này./.
(1).Xem: Nguyễn Văn Tiến, “Đánh giá việc thực hiện

Bộ luật lao động thông qua kết quả thanh tra từ năm
1995 đến năm 2008 và những đề xuất sửa đổi, bổ
sung Bộ luật lao động”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010, tr. 82.
(2).Xem: Chương IX Bộ luật lao động (từ Điều 95
đến Điều 108); Nghị định số 06/CP ngày 20/1/1995
quy định chi tiết một số điều của Bộ luật lao động về
an toàn lao động, vệ sinh lao động; Nghị đinh số
110/2002/NĐ-CP ngày 27/12/2002 về việc sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 06/CP.
(3).Xem: Các điều 113, 121, 124, 127 Bộ luật lao động.
(4).Xem: Điều 20 Nghị định số 47/2010/NĐ-CP ngày
06/05/2010.
9



×