Tải bản đầy đủ (.pdf) (160 trang)

LUẬN VĂN: Những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng công nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 160 trang )

LUẬN VĂN:

Những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu
hàng công nghiệp Việt Nam sau khi
Việt Nam gia nhập WTO


Lời mở đầu

Sự cần thiết của đề tài
Khi đánh giá những thành tựu kinh tế đã đạt được, chúng ta khơng thể khơng nhắc
đến sự đóng góp rất to lớn của hoạt động ngoại thương nói chung và xuất khẩu nói
riêng. Với ưu thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận
lợi... nước ta càng có điều kiện để phát triển nền kinh tế quốc dân, trong đó xuất
khẩu hàng cơng nghiệp có vai trị hết sức quan trọng.
Trong những năm qua, hoạt động xuất khẩu của nước ta đã có những bước tiến
thay đổi đáng kể cả về lượng và chất và khẳng định được vị trí xứng đáng của
mình trong phát triển kinh tế của đất nước. Kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng
cao: năm 1996 mới chỉ đạt 7,3 tỷUSD, chiếm khoảng 30%/GDP, trong đó tỷ trọng
hàng cơng nghiệp xuất khẩu là 29%; đến năm 2006 đã lên tới gần 40 tỷ USD,
chiếm trên 70%/GDP, trong đó tỷ trọng xuất khẩu hàng cơng nghiệp chiếm
khoảng 43%. Đây có thể coi là những thành quả đáng khích lệ ban đầu góp phần
làm nên thành cơng của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong bối cảnh
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ; Sự phát
triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ đã làm nên một cuộc cách mạng thay
đổi về chất mang tính tồn cầu, chuyển từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công
nghiệp và tiếp đến là xã hội trí tuệ, ở đó biên giới giữa các quốc gia gần như
khơng cịn. Tự do hóa thương mại song phương và đa phương đang trở thành xu
hướng phát triển của thời đại, trong đó các quan hệ thương mại H-H, H-T-H diễn
ra trên thị trường truyền thống buộc phải nhường chỗ cho những sản phẩm “mềm”,


có hàm lượng cơng nghệ và trí tuệ cao diễn ra trên thị trường “ảo” nhờ có sự hỗ
trợ của Internet. Chính vì thế, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương: “...tích cực
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, tạo điều kiện để tiếp tục đưa nước
ta tiến nhanh và vững chắc hơn, đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”. Trước yêu cầu phát triển mới của nền kinh tế, việc


đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp của Việt Nam càng có ý nghĩa hơn bao giờ
hết. Bởi, nó góp phần quan trọng cho việc thực hiện thành công sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách nhanh chóng và tạo điều kiện thuận lợi
nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Lẽ dĩ nhiên, khi bước vào sân chơi toàn cầu, nước ta phải thực hiện những cam kết
của mình, phải chấp nhận một cuộc chiến khơng cân sức, ở đó có biết bao cơ hội
có thể tận dụng, đan xen mn vàn thách thức, muôn vàn rào cản cần phải vượt
qua. Việc phân tích và đánh giá đúng thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng cơng
nghiệp Việt Nam để tìm ra những giải pháp phù hợp với yêu cầu phát triển mới
của đất nước là vấn đề mang tính thời sự, địi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu
một cách nghiêm túc, tạo điều kiện cho hàng công nghiệp Việt Nam thâm nhập thị
trường khu vực và thế giới một cách có hiệu quả, tạo đà cho đất nước đi lên với
thế và lực mới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Thúc đẩy xuất khẩu hàng
công nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO)" sẽ là một việc làm cần thiết và có ích.
2 - Tình hình nghiên cứu
Khi nói đến thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu hàng cơng
nghiệp nói riêng của Việt Nam, các nhà khoa học, các nhà kinh tế học đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này theo cách riêng của mình.
2.1 Tài liệu tiếng Việt
2.1.1 Bộ Thương mại (2004) “Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc gia về Thương mại
Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Hà Nội. Trong đó, 65 nhà
khoa học đã trình bày quan điểm riêng của mình về một khía cạnh nào đó của xuất

nhập khẩu hàng cơng nghiệp và đề xuất các hướng giải quyết khác nhau góp phần
làm cho thương mại Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Chẳng hạn như: Tác giả Nguyễn Thành Hưng trong đề tài“Một số trường
hợp thực tế đối với doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào thương mại quốc tế”,
đã trình bày một số vấn đề bức xúc mà các doanh nghiệp Việt Nam thường gặp
phải khi tham gia vào thị trường quốc tế như: vấn đề chống bán phá giá, đăng ký


thương hiệu ở nước ngồi, ghi nhãn hàng hóa, đồng thời đưa ra những bài học
kinh nghiệm cho các doanh nghiệp trong cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thương
trường...
2.1.2 GS. Viện sỹ Đặng Hữu (2004) “Kinh tế tri thức, thời cơ và thách thức đối
với sự phát triển của Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, đã phân tích tác
động của kinh tế tri thức đối với sự phát triển của Việt Nam; đề xuất các phương
hướng và giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong thời gian tới và coi
đây là cơ hội lớn để nước ta rút ngắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, là động lực quan trọng đưa nước ta về cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
2.1.3 TS. Nguyễn Văn Hồng (2005) “Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của
các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, Trường Đại học Ngoại
thương (số 13), đã trình bày 8 giải pháp vi mô mà các doanh nghiệp cần thực hiện
để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất khẩu hàng hóa thành cơng trong
điều kiện Việt Nam tích cực hội nhập kinh tế quốc tế như: Đẩy mạnh việc nghiên
cứu thị trường nước ngoài, thị trường trong nước một cách có hệ thống, nắm vững
nguồn hàng xuất khẩu...
2.1.4 Ngơ Chung Khanh (2006), “Tiến triển vịng đàm phán DOHA từ Hội nghị
Bộ trưởng Hồng Kơng”, Tạp chí Kinh tế Thế giới, Vụ Chính sách Thương mại đa
biên, Bộ Thương mại, (số 2+3), đã đề cập đến những diễn biến mới của Vòng đàm
phán DOHA, vấn đề tiếp cận thị trường hàng phi nông sản (NAMA), nguyên nhân
đổ vỡ của Vòng DOHA mang lại nhưng cơ hội và thách thức gì đối với các nước

đang phát triển trước sự bảo hộ của các nước phát triển, trong đó có Việt Nam.
2.1.5 TS. Nguyễn Văn Lịch, TS. Nguyễn Anh Tuấn (2005), “Giáo trình Kinh tế
Đối ngoại Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, đã phân tích về tình hình
xuất nhập khẩu, chính sách ngoại thương của Việt Nam qua các thời kỳ, định
hướng phát triển xuất nhập khẩu đến năm 2010, Việt Nam đã thực hiện các cam
kết quốc tế trong thời gian qua như thế nào...


2.1.6 Bùi Thị Lý (2003), “Điều chỉnh và hoàn thiện chính sách thương mại hàng
hóa của Việt Nam để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới”, Luận án tiến sỹ
Kinh tế, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội, đã phân tích và đánh giá thực
trạng về chính sách thương mại hàng hóa của Việt Nam, tìm ra những điểm chưa
phù hợp so với các quy định của WTO và đề xuất một số giải pháp hồn thiện
chính sách này để gia nhập WTO.
2.1.7 Trang website của Chính phủ www.chinhphu.vn/portal/page đã tóm tắt cơ
bản cam kết gia nhập WTO của Việt Nam. Đây có thể coi là căn cứ cơ bản để
Chính phủ Việt Nam có định hướng phát triển đúng đắn trong thời gian tới.
2.2 Tài liệu tiếng Anh
2.2.1 Do Duc Dinh (2007), “Vietnam’s Competitiveness”, Economic Review,
(No149), đã nêu 4 nguyên nhân chủ yếu làm giảm năng lực cạnh tranh của Việt
Nam trong thời gian qua, đó là: nền kinh tế nước ta dựa vào thay thế nhập khẩu
nhiều hơn là hướng về xuất khẩu nên đã dẫn đến tình trạng nhập siêu triền miên;
hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư rất thấp; lợi thế so sánh của đất nước khơng
được khai thác có hiệu quả; khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như
hàng xuất khẩu Việt nam cịn kém. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra một số khuyến
nghị cho vấn đề này như: cần xây dựng thể chế của nền kinh tế thị trường; xóa bỏ
độc quyền và các loại bảo hộ...
2.2.2 Websites: www.ven.org.vn;
Nhìn chung, những đề tài nghiên cứu trên đều đã đề cập đến các khía cạnh khác
nhau liên quan đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam và coi đó như là một trong

những động lực, những định hướng quan trọng, góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng
công nghiệp của Việt Nam ra thị trường quốc tế trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Tuy nhiên, những cơng trình đó mới chỉ dừng lại ở góc độ đánh giá, phân
tích những vấn đề có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu và đề xuất những
giải pháp khác nhau nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng công nghiệp của Việt Nam ra
thị trường toàn cầu trước khi gia nhập WTO, chứ chưa đi sâu phân tích và đánh
giá tổng thể về việc Việt Nam đã và sẽ làm gì và phải làm như thế nào để hàng


cơng nghiệp của mình có thể thâm nhập vào thị trường khu vực và thế giới một
cách có hiệu quả sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Và cho đến giờ
cũng chưa có một cuốn sách nào viết về đề tài “Thúc đẩy xuất khẩu hàng công
nghiệp của Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) ” một cách tổng thể và sâu sắc.
3 - Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
 Mục tiêu:
Tìm giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng công nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam
gia nhập WTO
 Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn quyết định việc Việt Nam
phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng cơng nghiệp
- Phân tích, đánh giá tình hình xuất khẩu hàng cơng nghiệp của Việt Nam trong
thời gian qua, tìm ra những điểm mạnh nào cần phát huy, những điểm nào còn bất
cập, chưa phù hợp về chính sách thuế, phi thuế và một số chính sách khác đối với
hoạt động xuất khẩu hàng cơng nghiệp Việt Nam so với các qui định của WTO về
thương mại hàng hóa , gây cản trở đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này trong bối cảnh mới.
- Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng này sau khi
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO
4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

 Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu và đánh giá tình hình xuất khẩu hàng cơng nghiệp của Việt Nam
- Đề xuất những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng công nghiệp Việt Nam sau khi
gia nhập WTO
 Phạm vi nghiên cứu
- Khơng gian nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình xuất khẩu của 4 mặt hàng cơng
nghiệp chế tạo có kim ngạch xuất khẩu lớn của Việt Nam


- Thời gian nghiên cứu: Chủ yếu từ năm 1996, đây là mốc thời gian Việt Nam phải
thực hiện cam kết AFTA và mục tiêu mà Đại hội VIII của Đảng đã đề ra.
5- Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là phương pháp
duy vật biện chứng, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê; phương pháp so
sánh trên cơ sở phân tích và tổng hợp các số liệu thực tế trên sách, báo, tạp chí...
6- Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
 Luận văn hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn quyết định
việc Việt Nam phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp.
 Luận văn đi sâu phân tích và đánh giá tổng thể về thực trạng xuất khẩu 4 mặt
hàng công nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn của Việt Nam giai đoạn từ 1996
đến năm 2006 - thời điểm chính thức gia nhập WTO của Việt Nam, từ đó tìm
ra những điểm còn bất cập, những điểm chưa phù hợp về chính sách thuế, phi
thuế và một số chính sách khác đối với hoạt động xuất khẩu hàng công nghiệp
Việt Nam so với các quy định của WTO về thương mại hàng hóa, cũng như
điều kiện phát triển của đất nước và của ngành công nghiệp, gây cản trở đối
với hoạt động xuất khẩu mặt hàng này trong thời gian tới.
 Tác giả xin dề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng công
nghiệp của Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
7- Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, bảng biểu, luận văn gồm 3 chương:

Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu hàng hóa
Chương II: Xuất khẩu hàng cơng nghiệp Việt Nam – Chính sách và thực tiễn hoạt
động
Chương III: Những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng công nghiệp Việt Nam sau
khi Việt Nam gia nhập WTO


Chương I:
Những vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu hàng hóa
1.1 Khái niệm xuất khẩu
Khái niệm xuất khẩu ra đời khi kinh tế thị trường hình thành và phát triển, nó gắn
liền với lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới:
 “Xuất khẩu là việc đưa hàng hoá từ nước này sang nước khác. Xuất khẩu
hàng hố bắt nguồn từ sự phân cơng lao động quốc tế và sự tồn tại của thị
trường ngoài nước.” Nhưng dưới chế độ TBCN thì xuất khẩu lại được hiểu
theo một góc độ khác: “Xuất khẩu hàng hố bị dùng làm thủ đoạn bóc lột
những nước kém phát triển bằng cách trao đổi không ngang giá, bị các
nước lớn dùng làm thủ đoạn nô dịch các nước nhược tiến về chính trị” (1).


“Xuất khẩu là việc bán hàng hố và dịch vụ cho nước ngoài”(2)

 “Xuất khẩu là sự luân chuyển hàng hố ra nước ngồi theo những thoả
thuận giữa các đối tác với nhau về pháp lý, phong tục, điều kiện kinh tế
(bao gồm: chất lượng, kỹ thuật…) và thông lệ quốc tế mà đôi bên đã thoả
thuận” (3)
Như vậy, ngoại thương nói chung và xuất khẩu nói riêng là một hoạt động kinh tế
đã có từ lâu. Cùng với thời gian và sự tiến bộ của xã hội, hoạt động ngoại thương
đã có những thay đổi đáng kể, chuyển từ phương thức trao đổi H-H trong xã hội
nô lệ và phong kiến sang H-H hay H-T-H trong thời đại tư bản chủ nghĩa.

Khi sản xuất đã được quốc tế hóa, khơng một quốc gia nào có thể tồn tại và phát
triển kinh tế mà không tham gia vào phân cơng lao động quốc tế và trao đổi hàng
hóa với bên ngoài. Hoạt động xuất khẩu trong bối cảnh đó khơng chỉ mang ý nghĩa
đơn thuần là trao đổi, bn bán với bên ngồi, mà thực chất là cùng với các quan
hệ kinh tế đối ngoại khác tham gia vào phân công lao động quốc tế như: đầu tư
quốc tế, tài chính quốc tế, liên kết kinh tế... Dưới tác động của tồn cầu hóa (TCH)
và hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT), nhiều tổ chức thương mại toàn cầu và liên
khu vực đã ra đời như: GATT/WTO; EU; ASEAN; APEC..., kèm theo đó là sự
phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ và kỹ thuật hiện đại, nó đã làm nên


một cuộc cách mạng thay đổi về chất mang tính tồn cầu, trong đó các quan hệ
thương mại H-H, H-T-H buộc phải nhường chỗ cho những sản phẩm có hàm
lượng trí tuệ cao diễn ra trên thị trường “ảo” nhờ có sự hỗ trợ của Internet.
Như vậy, sự ra đời của ngoại thương nói chung và xuất khẩu nói riêng là kết quả
của sản xuất phát triển, đồng thời ngoại thương lại là tiền đề cho sự phát triển của
sản xuất.
* Điều kiện để ngoại thương nói chung và xuất khẩu nói riêng ra đời, tồn tại và
phát triển là:
-

Có sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ, kèm theo đó
là sự xuất hiện của tư bản thương nghiệp;

-

Sự ra đời của Nhà nước và sự phát triển của phân công lao động quốc tế
giữa các nước

Kinh nghiệm của các nước trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá cho thấy

những thành tựu của các nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Singapore… đã
được cả thế giới thừa nhận, mà điều này sẽ khơng thể có được nếu khơng có chính
sách mở cửa của họ. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công này là họ
đã thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý hướng về xuất khẩu, năng
động và hiện đại; nhận thức được mối quan hệ hữu cơ giữa kinh tế trong nước và
mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài để khai thác tối đa mọi lợi thế so sánh của
đất nước thông qua phân cơng lao động quốc tế.
1.2 Vai trị của xuất khẩu trong phát triển kinh tế của đất nước
Cùng với tiến trình hội nhập và phát triển, thương mại quốc tế (TMQT) là một bộ
phận quan trọng gắn liền với tiến trình hội nhập và lợi thế của một quốc gia trên
thị trường khu vực và quốc tế. Vì vậy, việc đẩy mạnh giao lưu TMQT nói chung
và thúc đẩy xuất khẩu hàng hố nói riêng là mục tiêu hàng đầu của các quốc gia,
bởi sự đóng góp của nó trong phát triển nền kinh tế quốc dân là rất lớn.
Qua bảng 1.1 có thể thấy, xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong
GDP, nó thể hiện mức độ mở cửa và quan hệ kinh tế với bên ngoài của các nước.
Hơn nữa, tốc độ tăng của GDP gắn liền với tốc độ tăng của xuất khẩu, đồng thời


cũng gắn liền với chính sách đầu tư vào các ngành sản xuất hàng xuất khẩu. Cụ thể
là trong thời kỳ 1970-1980 xuất khẩu trên thế giới tăng 4%/năm, trong khi đó GDP
của tồn thế giới tăng 3.9%/năm, sang thời kỳ 1980-1995, xuất khẩu phát triển hơn
trước tăng 5.3% năm, GDP chỉ tăng 2.4%/năm(4). Chẳng hạn, tốc độ tăng GDP của
Trung Quốc giai đoạn 1995-2000 là 8,3%/năm, trong khi đó tốc độ tăng của xuất
khẩu là 13,76%/năm(5). Vì vậy có thể nói thúc đẩy xuất khẩu hàng hố là một
trong những động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế của các quốc gia, các
dân tộc.
Bảng 1.1: Mức độ mở cửa thương mại (%GDP)
Xuất khẩu

Tên nước


Nhập khẩu

1990

2004

2006

1990

2004

2006

Mỹ

9,2

9,8

11,8

10,6

15,1

12,7

Trung Quốc


14,8

39,7

39,9

12,0

36,7

29,9

Nhật Bản

-

11,9

15,6

-

8,9

13,7

Ân Độ

7,2


17,9

38,1

9,4

20,7

40,2

Thái Lan

36,6

69,6

63,4

45,2

65,5

62,1

Việt Nam

32,6

67,3


69,8

30,9

74,6

70,5

Nguồn: Lê Bộ Lĩnh (2006), Kinh tế chính trị thế giới 2005 và dự báo 2006, Nxb
Từ điển Bách khoa Hà Nội; Thời báo kinh tế Việt Nam 2005-2006; Internet.
1.2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước
Để thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước trong một thời gian ngắn, địi
hỏi phải có một lượng vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có vốn và thu hút vốn, kỹ thuật từ
bên ngồi nhiều nhất. Với một nước có trình độ phát triển thấp và hội nhập vào
nền kinh tế thế giới muộn hơn so với các nước khác như Việt Nam, con đường
nhanh nhất để phát triển kinh tế là thu hút vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN), vay nợ,


nhận viện trợ, xuất khẩu... Thế nhưng, việc đi vay sẽ làm cho nước ta bị phụ thuộc
vào bên ngoài do phải trả nợ, nên mở rộng giao lưu quốc tế trong thương mại, tận
dụng tối đa mọi nguồn lực nhằm thúc đẩy sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu để tăng
thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của đất nước có thể coi là giải pháp chuẩn
mực tối ưu.
Bảng 1.2: Nguồn thu ngoại tệ của Việt Nam trong thời gian qua
Đơn vị: Triệu USD
Năm


XK

ODA

FDI

(vốn giải ngân)

(vốn thực hiện)

Kiều hối

1991-1995

17156

2394

7200

848

1996-2000

51825

6100

12360


4776

2001-2005

110830

7900

14300

13620

Nguồn: Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX và X; Thời báo kinh tế Việt Nam
2005-2006; Tạp chí Economic Review (2007), No 2.
Theo bảng 1.2: nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu giai đoạn 1991-1995 tăng gấp gần
2 lần so với nguồn thu từ đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI), hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA) cộng lại. Bước sang giai đoạn 2001-2005, con số này còn lớn hơn
nhiều, tăng gấp gần 5 lần so với tổng 2 nguồn còn lại. Bởi vậy, xuất khẩu được
thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của ngoại thương, là phương tiện thúc đẩy kinh
tế phát triển, là chiếc cầu nối để xây dựng và phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại...
Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu, cũng
như tạo cơ sở cho phát triển hạ tầng...phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
(CNH-HĐH) đất nước là mục tiêu chiến lược rất quan trọng, góp phần quan trọng
cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
1.2.2 Xuất khẩu làm chuyển dịch nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH, thúc
đẩy sản xuất phát triển
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ.
Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ (KH-CN) hiện đại, của



tồn cầu hóa (TCH) và hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT). Việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH phù hợp với xu thế phát triển chung của thế
giới là tất yếu đối với nước ta.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế: (2)
 Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá
nhu cầu nội địa, tức là xuất khẩu những gì ta có.
 Coi thị trường và đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ
chức sản xuất nhằm xuất khẩu những gì mà thị trường thế giới cần.
Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất
về cơ bản còn chưa đủ để tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ sự dư thừa của sản xuất
thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé về qui mơ và tăng trưởng chậm chạp. Cịn theo quan
điểm thứ 2 thì hoạt động xuất khẩu chính là xuất phát từ nhu cầu thị trường thế
giới để tổ chức sản xuất. Điều đó tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy sản xuất phát triển hay nói cách khác, đất nước sẽ hình thành những
ngành kinh tế hướng xuất khẩu. Những ngành kinh tế đó phải có kỹ thuật và cơng
nghệ tiên tiến để hàng hố khi tham gia vào thị trường thế giới có đủ sức cạnh
tranh và mang lại lợi ích quốc gia. Theo quan điểm này, đây chính là giải pháp làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách mạnh mẽ theo hướng có lợi hơn và mang lại
hiệu quả kinh tế cao hơn. Bởi lẽ:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi, tạo
nên sự phát triển hài hòa giữa các ngành kinh tế từ nông nghiệp, công nghiệp đến
dịch vụ. (Xem bảng 1.3)
Bảng 1.3: Sự đóng góp của các ngành trong GDP
Đơn vị: Tỷ đồng; %
1990

1995

2000


2005 *

Ngành
kinh tế

Giá trị

Cơ cấu

Giá trị

Cơ cấu

Giá trị

Cơ cấu

Giá trị

Cơ cấu


Công

9513

22,67

65820


28,76

162220

36,73

19,28

41,03

16252

37,74

62219

27,18

108356

24,583

9,82

20,89

16190

38,59


100853

44,06

171070

38,74

17,9

38,08

nghiệp
Nông
nghiệp
Dịch vụ

Nguồn: Niên giám Thống kê 2002, Nxb Thống kê Hà Nội 2003; Thời báo kinh
tế Việt Nam 2005-2006
Chú thích: *- Giá trị tính bằng tỷ USD
Như đã phân tích ở trên, tốc độ tăng của GDP gắn liền với tốc độ tăng của xuất
khẩu, đồng thời cũng gắn liền với chính sách đầu tư và làm hàng xuất khẩu. Thực
tế cho thấy: tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP đã giảm dần, nhường chỗ cho
sức bật của hàng công nghiệp và dịch vụ, một trong những điều kiện tiên quyết
cho nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại. Nếu như năm 1990, tỷ
trọng nông nghiệp chiếm 37,74%/GDP và 47,5%/XK, thì đến năm 2000 tỷ trọng
này đã giảm xuống cịn 24,58%/GDP và 30,1%/XK. Trong khi đó, tỷ trọng công
nghiệp trong GDP và trong xuất khẩu tăng rất nhanh tương ứng từ 22.67%/GDP
và 42%/XK lên 36.73%/GDP và 70.9%/XK.

- Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất phát
triển và ổn định ở các vùng kinh tế trong cả nước, đặc biệt là các vùng kinh tế
trọng điểm. Nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế vùng, nước ta đã có các
biện pháp khuyến khích phát triển kinh tế vùng, đặc biệt là vùng sâu vùng xa, như:
phủ xanh đất trống đồi trọc, trồng rừng, trồng cây công nghiệp... nhằm tạo nguồn
nguyên liệu, cũng như khai thác có hiệu quả tiềm năng sẵn có của đất nước.
- Xuất khẩu là nhịp cầu cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản
xuất trong nước, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia.
- Xuất khẩu là phương tiện quan trọng thu hút vốn, kỹ thuật và công nghệ từ bên
ngồi nhằm hiện đại hố nền kinh tế đất nước, hình thành một năng lực sản xuất
mới. Nếu như năm 1995 khu vực kinh tế trong nước chiếm khoảng 73%/XK, thì


đến năm 2005 con số này đã giảm xuống chỉ cịn 43%/XK; trong khi đó, khu vực
có vốn ĐTNN có sức tăng vượt trội tương ứng từ 27%/XK lên 57%/XK.
- Thơng qua xuất khẩu, hàng hố của nước ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh
quyết liệt trên thị trường thế giới, nên cần phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ
cấu sản xuất mới, thích nghi được với sự thay đổi của thị trường theo hướng giảm
dần tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp và tăng nhanh những
sản phẩm có hàm lượng khoa học, công nghệ và chất xám cao, tạo điều kiện thuận
lợi cho q trình CNH-HĐH.
- Xuất khẩu cịn địi hỏi các doanh nghiệp phải ln đổi mới và hồn thiện
phương pháp quản trị sản xuất kinh doanh theo qui luật của cạnh tranh. Tính qui
luật của sự thay đổỉ cơ cấu là chuyển dần từ sản phẩm sử dụng nhiều lao động
không cần tay nghề cao sang các sản phẩm sử dụng nhiều lao động lành nghề có
trình độ chun mơn hố cao như: điện tử, ơ tơ. Chính qui luật của sự thay đổi ấy
là yếu tố quan trọng kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNHHĐH.
Bảng 1.4: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
Đơn vị: % ; 1000 người
Ngành


2000

2003

2005

Nông nghiệp

24481

24443

42710

Tỷ trọng

65,1

60,3

56,8

Công nghiệp

4930

6671

7645


13,1

16,5

17,9

8199

9460

10806

21,8

23,2

25,3

Tổng

37610

40574

42710

Tỷ trọng

100


100

100

Tỷ trọng
Dịch vụ
Tỷ trọng

Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam 2005-2006


Như vậy, số lượng lao động trong ngành công nghiệp còn quá nhỏ bé so với lượng
lao động làm việc trong các lĩnh vực khác. Đó là một yếu điểm cần phải khắc phục
để đáp ứng yêu cầu phát triển mới của nền kinh tế thế giới. (Xem bảng 1.4, 2.7)
Có thể nói, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH có ý nghĩa hết
sức to lớn cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Mặc dù nó khơng được lượng hố bằng
tiền, song sự tác động của nó trong nền kinh tế quốc dân là vô cùng to lớn.
1.2.3 Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và
nâng cao đời sống của người lao động
Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất
hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập cao.
Bên cạnh đó, xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu những vật phẩm tiêu
dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày càng phong phú nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân. Với một đất nước có tỷ lệ dân số sản xuất hàng hóa theo
phương pháp thủ cơng cao như Việt Nam, thì việc tiếp thu và vận dụng khoa họckỹ thuật tiên tiến từ bên ngoài trong phát triển kinh tế nói chung và sản xuất hàng
xuất khẩu nói riêng càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi lẽ, khi mức sống
của người dân được cải thiện, hoạt động thương mại trong nước sẽ trở nên sôi
động hơn, thị trường nội địa phong phú hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất
phát triển. Hơn nữa, xuất khẩu cũng tác động tích cực tới trình độ tay nghề, thay

đổi thói quen của người sản xuất hàng xuất khẩu nhằm tạo nên những sản phẩm có
sức cạnh tranh cao trên thị trường. Đó là một trong những lý do mà Đại hội lần thứ
VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề cập đến vấn đề con người và coi con
người là nhân tố có tính chất quyết định hàng đầu đối với sự tồn tại và phát triển
của đất nước, đặc biệt là trong giai đoạn hình thành và phát triển nền kinh tế tri
thức nước nhà. Một số kết quả dưới đây sẽ phần nào chứng minh được điều đó: (6)
-

GDP/người và XK/người tăng nhanh tương ứng là 289 USD và 76 USD
năm 1995, lên 402 USD và 176 USD năm 2000, năm 2005 còn cao hơn đạt
637 USD và 388 USD.


-

Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm dần từ 6.4% năm 2000 xuống còn 5,3%
năm 2005

-

Tỷ trọng lao động của ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 12,1% năm
2000 lên 17,9% năm 2005; tỷ trọng lao động đã qua đào tạo tăng từ 20%
năm 2000 lến 25% năm 2005.

1.2.4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại
của đất nước.
Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại,
phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động của kinh tế đối ngoại. Có thể hoạt
động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện
thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và công nghiệp sản

xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế...
và chính các quan hệ này lại tạo tiền đề cho sự mở rộng của xuất khẩu.
Như vậy, chúng ta có thể thấy các nước áp dụng chính sách phát triển kinh tế
hướng về xuất khẩu khởi đầu với tỷ lệ XK/GDP tương đối cao. Phần lớn tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu của các nước này là nhờ vào xuất khẩu sản phẩm công
nghiệp chế biến. Điều thú vị ở đây là những nền kinh tế càng ‘mở’ thì lại càng có
khả năng tăng trưởng tốt hơn và ổn định hơn nhờ có thị trường xuất khẩu rộng mở,
nhờ những kỹ năng và kinh nghiệm học hỏi được khi tham gia vào thương mại
quốc tế.
Chính vì thế, từ năm 1986, xuất khẩu đã được đưa thành một trong ba chương
trình kinh tế lớn của cả nước, trên cơ sở thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ kinh tế đối ngoại với việc thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực như: thương
mại, đầu tư, hợp tác khoa học-kỹ thuật... Công cuộc đổi mới của nước ta trong
những năm vừa qua đã mở đường cho sự chuyển đổi nền kinh tế nước nhà đi vào
quĩ đạo của sự phát triển đầy ngoạn mục. Một trong những nhân tố tạo nên điều kỳ
diệu ấy là sự đóng góp rất to lớn và quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại
như: việc tham gia vào ASEAN/AFTA năm 1995, APEC năm 1998 và WTO năm


2006 đã tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút ĐTNN, ODA, góp
phần quan trọng cho việc thu hút nguồn ngoại tệ lớn.
1.2.5 Xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện thành công sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước một cách nhanh chóng
Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin đã làm chấn động cả thế giới. Nó đã tạo ra một sự chuyển đổi
rất quan trọng của nền kinh tế thế giới từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức.
Đồng thời, sự vận hành của các quan hệ kinh tế quốc tế cũng trở nên linh hoạt hơn,
các qui trình từ khoa học-kỹ thuật, công nghệ đến sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu
dùng được rút ngắn. Chính vì vậy, mở cửa nền kinh tế, hội nhập với bên ngoài
nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa là nhu cầu cấp thiết của mọi quốc gia, nhất là

các nước đang phát triển. Đây là cơ hội tốt để các nước này thu hẹp khoảng cách
về trình độ phát triển so với các nước công nghiệp đi trước.
Để trở thành các nước phát triển hay các nước NIEs như ngày nay thì Châu Âu đã
phải trải qua khoảng 200 năm; trong khi đó Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,
Singapore... đã “đi tắt” và chỉ mất khoảng từ 40-60 năm trong việc thực hiện quá
trình CNH-HĐH hướng vào xuất khẩu trên cơ sở khai thác tối đa nội lực của
mình. Điều đó cho phép rút ra một kết luận rằng thực hiện quá trình CNH-HĐH
“rút ngắn” dựa vào xuất khẩu là một phương châm hiện thực và rất khả thi (8).
(Xem bảng 1.5)

Bảng 1.5: Chỉ số kinh tế tri thức của các nước năm 2002
Tỷ lệ
Tên nước

Chỉ

học cao số sẵn

Trình

Số th

Số máy

Số cán

Chi

độ


bao

tính cá

bộ

R&D/

nhân/

R&D/1

GDP

vạn

(%)

đẳng

sàng

cơng

Internet/

trở lên

điện


nghệ

1000 dân 1000 dân

%

tử

dân


G7

59,6

-

-

5,97

5,7

35

2,27

Hàn Quốc

66


4,88

0,67

4,62

5,2

16

2,82

Trung Quốc

6

3,1

0,30

0,52

2,5

6,5

0,66

Malaixia


11

4,29

0,40

3,35

4,23

4

0,24

Thái Lan

30

3,53

0,34

2,29

3,12

5

0,13


Indonesia

28

3,27

0,30

1,17

2,83

6

0,22

Việt Nam

11

2,42

0,12

0,52

2,19

6


0,52

Nguồn: Đặng Hữu (2004), “Kinh tế tri thức-thời cơ và thách thức đối với sự phát
triển của Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
Chính vì thế, Văn kiện Đại hội X của Đảng đã khẳng định rõ hơn: “Khuyến khích
phát triển các ngành cơng nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công
nghiệp phần mềm và cơng nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh”; “tăng nhanh tỷ
trọng xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp đã qua chế biến có giá trị tăng thêm
cao, giàu hàm lượng cơng nghệ, có sức cạnh tranh cao ...” nhằm “đưa đất nước
về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.
Như vậy, xuất khẩu được coi là có ý nghĩa quan trọng để thực hiện mục tiêu này,
bởi, nó khơng chỉ làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, mà còn
tạo ra những tiền đề cần thiết cho Việt Nam tiến tới một xã hội phát triển cao hơn
thông qua việc khuyến khích và tạo thuận lợi cho phát triển các ngành cơng nghệ
cao nhờ “đi tắt, đón đầu” những thành quả của văn minh nhân loại. Một minh
chứng cụ thể: Năm 2000 mới có 3 sản phẩm cơng nghiệp đạt KNXK trên 1 tỷ
USD với tổng giá trị là 6,86 tỷ USD, đến năm 2005 tăng lên 5 sản phẩm với tổng
giá trị là 16,78 tỷ USD, chiếm gần 50%/KNXK, gấp hơn 2 lần tổng KNXK của cả
giai đoạn 1986-1990, trong đó phải kể đến sự vươn lên của hàng linh kiện điện tử
(LKĐT)& máy tính với KNXK đạt gần 2 tỷ USD năm 2006 tăng gấp hơn 20 lần
so với năm 1996.
Đây có thể coi là một trong những thành quả rất đáng khích lệ, là căn cứ để khẳng
định Việt Nam cũng có thể thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.


1.3 Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hóa
Khi tham gia vào TMQT, các nhà xuất khẩu phải hoạt động trong một môi trường
kinh doanh rất phức tạp, ở đó có những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giao
thương của họ. Trong các thành phần của mơi trường này, mơi trường nước ngồi

có vị trí quan trọng đặc biệt và có vai trị quyết định đến hoạt động xuất nhập khẩu
hàng hóa của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp.
1.3.1 Mơi trường nước ngồi
Mơi trường nước ngồi là tổng hịa các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp khi họ thâm nhập vào thị
trường mục tiêu. Các yếu tố này có thể làm tăng khả năng sinh lời hay rủi ro cho
các nhà kinh doanh.
1.3.1.1 Tình hình chính trị-pháp luật
Các quyết định kinh doanh chịu tác động mạnh mẽ trước sự thay đổi của môi
trường chính trị - pháp luật ở nước nhập khẩu. Mơi trường này được tạo ra từ các
luật lệ, các cơ quan cơng quyền và những nhóm áp lực gây ảnh hưởng và ràng
buộc tới mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội.
Ổn định chính trị là yếu tố hấp dẫn các doanh nghiệp đến với thị trường, là điều
kiện quan trọng để duy trì sự ổn định về kinh tế-xã hội, đảm bảo đường lối phát
triển nhất quán, hạn chế sự tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh
XNK.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần phải hiểu rõ các đạo luật, các chính sách, các
thể chế ảnh hưởng đến các lĩnh vực kinh doanh của họ ở nước ngồi, cũng như
phải tơn trọng thực hiện các quy định đó, cho dù chúng có xung đột hay mâu thuẫn
với các quy định của nước mình và/hoặc của tổ chức quốc tế mà cả hai là thành
viên hay khơng. Chẳng hạn, WTO có quy định riêng dành cho các nước có chung
đường biên giới; có những ưu đãi đặc biệt dành cho các nước đang và chậm phát
triển; khơng áp đặt cụ thể việc xây dựng chính sách pháp luật của từng nước... Bởi,
mỗi nước đều có đặc điểm riêng, sắc thái xã hội riêng, cũng như môi trường kinh


doanh riêng, kèm theo đó là mơi trường chính trị-pháp luật độc lập phù hợp với
điều kiện phát triển nước họ.
Hiểu rõ pháp luật nước nhập khẩu chính là để bảo vệ quan hệ giữa các công ty với
nhau; bảo vệ người tiêu thụ tránh được các giao dịch không bình đẳng; bảo vệ lợi

ích của xã hội tránh được những hành vi sai lệch vì hầu hết các cơng ty đều khơng
muốn hứng chịu những phí tổn xã hội trong hoạt động sản xuất hoặc trong sản
phẩm của họ nhằm đạt tới lợi nhuận tối đa. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp
đã phải gánh chịu những rủi ro, mất mát khơng đáng có do khơng nắm vững
những quy định của luật pháp nước sở tại, dẫn đến tình trạng kiện tụng không cần
thiết như: các quy định về môi trường, về nhãn mác, về chống bán phá giá.
Bên cạnh đó, tính hiệu lực trong thực hiện, cũng như sự cơng khai, minh bạch của
các chính sách pháp luật của nước nhập khẩu cũng là mối quan tâm rất lớn của các
nhà xuất khẩu, vì đó là chỗ dựa đảm bảo quyền lợi cho họ khi kinh doanh ở nước
ngồi. Nếu việc thực hiện luật pháp khơng nghiêm, kém hiệu lực thi hành, không
minh bạch sẽ làm tăng rủi ro trong các hoạt động kinh doanh của nhà xuất khẩu,
làm nản lịng họ tham gia vào thị trường đó do quyền lợi của họ bị đe dọa.
Bảng 1.6: So sánh mơi trường kinh doanh giữa các nước
1997 (10)

Tên nước

2002(8)

Tính minh

Hiệu lực

HTCS

HTCS

Về mức

Về quy


bạch của

hành

“cứng”

“mềm”

độ xóa

định

chính sách

chính

bỏ rào

pháp

cản

luật

Hàn Quốc

-

-


-

-

6

6

Trung Quốc

-

-

-

-

2

4

Malaisia

3,0

3,0

2,9


3,0

4

6

Thái Lan

2,3

2,3

2,6

2,6

8

6

Indonesia

1,8

1,9

2,6

2,4


6

4

Việt Nam

1,5

1,4

2,0

2,0

2

2


Nguồn:

(8)

Đặng Hữu (2004), “Kinh tế tri thức-thời cơ và thách thức đối với sự

phát triển của Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội;

(10)


PGS.TS. Phùng

Xuân Nhạ (2001), “Đầu tư Quốc tế”, Nxb ĐHQG Hà Nội.
Chú thích:

(10)

- Xếp hạng theo thang điểm cao nhất là 5;

(8)

- Xếp hạng theo thang điểm cao nhất là 10

Từ bảng 1.6 có thể thấy, so với môi trường pháp lý của các nước trong khu vực,
Việt Nam là nước có chỉ số khá thấp, nó thể hiện thị trường này cịn tiềm ẩn nhiều
rủi ro đối với các nhà kinh doanh nước ngoài, hiệu lực thực thi pháp luật còn thấp...
(Phần này sẽ được phân tích ở Chương II)
1.3.1.2 Trình độ phát triển của nền kinh tế
Trình độ phát triển của nền kinh tế là mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô,
hạ tầng cơ sở, công nghệ, chất lượng cung cấp dịch vụ cho các nhà xuất khẩu và
mức độ cạnh tranh của nước nhập khẩu.
Trình độ quản lý kinh tế vĩ mơ có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định kinh tế vĩ mơ, các
thủ tục hành chính và nguy cơ tham nhũng. Những nước có trình độ quản lý kém
thường dẫn đến chất lượng và tốc độ tăng trưởng thấp, các thủ tục hành chính
rườm rà, nạn quan liêu, tham nhũng gia tăng... Những yếu tố này tác động tiêu cực
đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do sức mua trên thị trường giảm, do
những chi phí khơng cần thiết phát sinh từ thủ tục hành chính, từ tệ quan liêu...
Mặt khác, sự phát triển của hạ tầng cơ sở và dịch vụ sẽ tạo ra những điều kiện
thuận lợi và giảm những chi phí phát sinh cho các hoạt động kinh doanh XNK của
doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng ‘cứng’ gồm các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến sự

vận hành các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu như: sân bay, cảng biển, giao
thông, điện lực, viễn thơng... Ngồi ra, cịn phải tính đến chất lượng các dịch vụ về
cơng nghệ, tài chính... (HTCS “mềm”). Đây là những yếu tố rất quan trọng tạo
điều kiện thuận lợi cho các hoạt động giao thương được dễ dàng và nhanh chóng.
Mức độ cạnh tranh của thị trường nước ngoài cũng tác động rất lớn đến hoạt động
sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu. Nếu thị trường càng cạnh tranh, thì độ “mở”


của thị trường càng lớn, mức độ bảo hộ và độc quyền thu hẹp lại, tạo lực hút sự
giao lưu kinh tế từ bên ngoài và ngược lại. (Xem bảng 1.1, 1.6, 1.7)
1.3.1.3 Đặc điểm phát triển văn hóa - xã hội
Đặc điểm văn hóa - xã hội cũng có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động kinh doanh
XNK của doanh nghiệp. Mỗi nền văn hóa có một đặc trưng riêng về thị hiếu thẩm
mỹ, thị hiếu tiêu dùng, phong tục tập quán... mà các nhà XNK phải tìm hiểu,
nghiên cứu để có quyết định kinh doanh đúng hướng. Những đặc điểm này ảnh
hưởng đến việc xác định thị trường mục tiêu, thiết kế nhãn hiệu, kiểu dáng, chiến
lược quảng cáo, chiến lược sản phẩm... của doanh nghiệp. Chẳng hạn, màu đen là
biểu tượng của tang tóc ở Châu Âu và Mỹ, thì ở Nhật Bản biểu tượng đó lại là
màu trắng; Việt Nam có một nền văn hóa rất phong phú với 54 dân tộc khác nhau...
Sự khác biệt này một mặt đã tạo ra những rào cản trong giao lưu giữa các nền văn
hóa, qua đó ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động kinh doanh XNK và mặt khác,
nó tạo nên sự phân đoạn thị trường, mà ở đó địi hỏi phải có sự phong phú về sản
phẩm nhằm đáp ứng những nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Hơn nữa, nếu
một xã hội có mơi trường giáo dục tốt, khơng có phân biệt đối xử, coi trọng lịng
tin, khơng có thái độ bài ngoại, phong tục tập qn có nhiều nét tương đồng... thì
nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà xuất khẩu thâm nhập thị trường một cách
dễ dàng hơn và có cơ hội làm ăn lâu dài trên thị trường đó.
1.3.1.4 Vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố về khoảng cách, địa điểm, khí
hậu,... Đây là những nhân tố cũng có tác động ít nhiều đến hoạt động kinh doanh

của các doanh nghiệp. Do vậy, các nhà xuất khẩu phải cân nhắc thật kỹ khi lựa
chọn việc đóng gói, bảo quản cho hàng hóa, hay xác định thời vụ để sản xuất
nhằm hạn chế tối đa những tác động xấu của thời tiết, khí hậu đối với hàng xuất
khẩu, góp phần giảm được giá thành sản phẩm và hạn chế rủi ro do các yếu tố trên
gây nên.
Tóm lại, mơi trường nước ngồi được gọi là thuận lợi nếu các yếu tố trên tạo được
sức hấp dẫn cho các nhà kinh doanh XNK. Sự thành công của họ phụ thuộc vào


việc nắm bắt đúng được các cơ hội kinh doanh mà thị trường này mang lại, bởi,
cùng một đặc điểm của mơi trường nước ngồi, đối với người này là cơ hội nhưng
đối với người kia lại là rủi ro.
1.3.2 Mơi trường trong nước
Cũng giống như mơi trường nước ngồi, môi trường trong nước bao gồm tất cả
các nhân tố trên. Sức hấp dẫn của từng yếu tố sẽ tạo ra những cơ hội hay rủi ro cho
các nhà kinh doanh, qua đó tác động mạnh đến quyết định của họ trong việc lựa
chọn môi trường để hoạt động. Tuy nhiên, việc quyết định xuất khẩu hàng hóa ra
nước ngồi còn chịu ảnh hưởng rất lớn từ những thay đổi của chính sách kinh tế vĩ
mơ, các hoạt động thúc đẩy kinh doanh ra nước ngoài, cũng như tiềm lực kinh tế,
khoa học, công nghệ của nước họ.
1.3.2.1 Sự thay đổi của chính sách kinh tế vĩ mơ
Chính sách kinh tế vĩ mơ có tác động mạnh đến việc thúc đẩy hay hạn chế các hoạt
động giao thương của các nhà kinh doanh XNK. Sự thay đổi của chính sách này
một mặt bắt nguồn từ nhu cầu nội tại của nền kinh tế và mặt khác, lại do đòi hỏi
của yêu cầu thực tế khách quan. Chẳng hạn, kể từ năm 1986, Việt nam đã bắt đầu
thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; trong khi đó các nước trong khu vực đã trở thành những con rồng
châu A sau khi lựa chọn con đường cơng nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu từ
những năm 1960. Sự chuyển hướng này đã có tác động rất tích cực đến tình hình

phát triển kinh tế-xã hội của nước ta, đặc biệt là xuất nhập khẩu.
Sự thay đổi của chính sách này cũng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động giao lưu
kinh tế với bên ngồi như: chính sách khuyến khích xuất khẩu, chính sách đối
ngoại của nước xuất khẩu... Đây có thể coi là những tiền đề cần thiết cho các
doanh nghiệp yên tâm làm ăn với bên ngoài. (sẽ được đề cập trong chương II)
1.3.2.2 Tiềm lực kinh tế, khoa học-cơng nghệ
Có thể nói, tiềm lực kinh tế, khoa học-cơng nghệ là nhân tố rất quan trọng quyết
định sự thành bại của các doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài. Bởi, khoa học-


công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố cơ bản làm tăng khả
năng cạnh tranh của hàng hóa, là nhịp cầu trao đổi thơng tin nhanh chóng giữa các
doanh nghiệp trong và ngồi nước.
Một doanh nghiệp chưa thể nói tới kinh doanh có hiệu quả ở bên ngồi nếu khả
năng tích lũy về vốn, cơng nghệ, về kinh nghiệm quản lý... của mình cịn hạn chế
trong khi các quan hệ thương mại truyền thống buộc phải nhường chỗ cho những
sản phẩm có hàm lượng cơng nghệ và trí tuệ cao; hơn nữa lại khơng đủ sức đầu tư
cho nghiên cứu và triển khai (R&D) để tạo ra các sản phẩm mới mang lại lợi
nhuận cao. Chính vì thế, mức độ tích lũy của nền kinh tế, tiềm lực về khoa họccơng nghệ có vai trị thúc đẩy hay kìm hãm hoạt động giao lưu kinh tế với bên
ngồi. Thực tế cho thấy, nước nào có tiềm lực mạnh về kinh tế, về phát triển khoa
học-công nghệ thì nước đó sẽ có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường.
Có thể nói, sức hấp dẫn của thị trường nước ngoài làm thay đổi chiến lược sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp từ hướng nội sang hướng ngoại dưới sự tác
động mạnh mẽ của các chính sách kinh tế vĩ mô, cũng như tiềm lực kinh tế, khoa
học và cơng nghệ của nước mình. Lực hút của thị trường này chỉ tồn tại khi nó
mang lại cho họ lợi nhuận và hiệu quả kinh tế cao hơn. Lẽ dĩ nhiên, sự thành bại
của các doanh nghiệp lại phụ thuộc vào chính khả năng thích ứng của mình với
mơi trường đó, bởi sức hấp dẫn của thị trường nước ngồi chỉ mang tính chất
tương đối.
1.3.3 Mơi trường quốc tế

Trong một nền kinh tế toàn cầu, quốc gia, dân tộc có chủ quyền khơng cịn là chủ
thể duy nhất có vai trị chế định chính sách kinh tế, thương mại mà là sự tồn tại
đồng thời của 4 chủ thể có thể đảm nhận vai trị này một cách hiệu quả. Đó là quốc
gia, dân tộc có chủ quyền, khối kinh tế khu vực, các thể chế kinh tế quốc tế và
TNCs. Trên thực tế, các chủ thể này luôn ảnh hưởng lẫn nhau, ràng buộc, hợp tác
và đương nhiên có nhiều xung đột trong mơi trường cạnh tranh quốc tế dưới tác
động của quá trình TCH. Do đó, chúng có ảnh hưởng rất lớn đến dịng lưu chuyển
hàng hóa giữa các quốc gia trên thế giới.


1.3.3.1 Xu hướng đối thoại chính trị giữa các nước
Như đã phân tích, tình hình chính trị là một trong những yếu tố được giới doanh
nghiệp rất quan tâm khi đánh giá về môi trường kinh doanh. Ở phạm vi ngoài quốc
gia, các nước cũng rất cần đến sự ổn định của khu vực mà doanh nghiệp của họ
hướng tới, bởi nó tác động đến sự trao đổi bn bán giữa các bên liên quan.
Xu hướng đối thoại chính trị gia tăng sẽ kéo theo việc mở rộng quan hệ hợp tác
thương mại giữa các nước, tạo điều kiện cho các hoạt động kinh doanh XNK được
dễ dàng hơn. Ngoài ra, nó cịn có tác động quan trọng đến việc xóa bỏ lệnh bao
vây, cấm vận kinh tế của nước lớn đối với các nước nhỏ, gây cản trở đến quan hệ
giao thương giữa các nước. Chính sách cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam trước
đây là bằng chứng rõ rệt về tác động này.

1.3.3.2 Liên kết khu vực
Để tạo ra một mơi trường an tồn, an ninh về kinh tế nhằm tăng cường sức cạnh
tranh để tồn tại và phát triển, những nước có điều kiện gần gũi về địa lý đã liên kết
với nhau theo khu vực, hình thành những khu vực có tính địa-chiến lược về mặt
kinh tế.
Sự ra đời của các khối thị trường chung một mặt đã tạo điều kiện thuận lợi cho
việc lưu chuyển hàng hóa giữa các thành viên của khối, mặt khác, do có sự xung
đột về lợi ích đã làm xuất hiện ngày càng nhiều các liên kết khu vực để phản ứng

với sự ảnh hưởng của các tổ chức này đối với sự tồn tại và phát triển của mình như:
việc lập ra khu vực NAFTA là để phản ứng lại việc EU đã có xu hướng mở rộng
sang các nước Đông Âu thành EU-25; hay, để hạn chế sự ảnh hưởng của Mỹ ở
Châu A, ASEAN đã mở rộng thành ASEAN + 3, ...
Thơng qua chính sách tự do hóa thương mại đã loại bỏ được các rào cản đối với
hoạt động giao thương giữa các nước thành viên trong khối, hạn chế được sức ép
cạnh tranh từ bên ngồi, giảm bớt được chi phí sản xuất, chi phí giao dịch hướng
vào xuất khẩu, giảm các thủ tục phiền hà, cũng như được hưởng những ưu đãi của
khối. Tất cả những yếu tố này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tăng khả năng


×