Tải bản đầy đủ (.pdf) (207 trang)

Tính đặc thù trong xây dựng và vận hành hệ thống chính trị ở tây nguyên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.78 MB, 207 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-***--

NGUYỄN CHÍ HIẾU

TÍNH ĐẶC THÙ TRONG XÂY DỰNG
VÀ VẬN HÀNH HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-***--

NGUYỄN CHÍ HIẾU

TÍNH ĐẶC THÙ TRONG XÂY DỰNG
VÀ VẬN HÀNH HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học
TS. HỒ ANH DŨNG



TP. HỒ CHÍ MINH - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi, chưa được ai
công bố, dưới sự hướng dẫn của TS. Hồ Anh Dũng. Tư liệu trong luận
văn là hồn tồn trung thực.
Người cam đoan

NGUYỄN CHÍ HIẾU


MỤC LỤC
Trang
PHẦN

MỞ ĐẦU.......................................................................................... 1

Chương 1:

QUAN NIỆM VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ TÍNH

ĐẶC THÙ TRONG XÂY DỰNG, VẬN HÀNH HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Ở ĐỊA PHƯƠNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................... 8
1.1. Quan niệm về hệ thống chính trị và cấu trúc hệ thống chính trị Việt
Nam hiện nay ........................................................................................................8
1.1.1 Quan niệm về hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay ................................ 8
1.1.2 Cấu trúc hệ thống chính trị ở Việt Nam .....................................................11

1.1.3 Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam ............................................. 20
1.2. Quan niệm chung về xây dựng và vận hành hệ thống chính trị...... 23
1.2.1. Quan niệm về xây dựng hệ thống chính trị ......................................... 24
1.2.2. Quan niệm về vận hành hệ thống chính trị ......................................... 28
1.3. Quan niệm về tính đặc thù địa phương trong xây dựng và vận hành
hệ thống chính trị ........................................................................................ 37
1.3.1. Tính đặc thù địa phương trong xây dựng hệ thống chính trị .............. 37
1.3.2. Tính đặc thù địa phương trong vận hành hệ thống chính trị .............. 49
Kết luận chương 1 ....................................................................................... 59
Chương 2: THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP VẬN
DỤNG TÍNH ĐẶC THÙ TRONG XÂY DỰNG VÀ VẬN HÀNH HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY ............................. 60
2.1. Tính đặc thù trong hệ thống chính trị ở Tây Nguyên hiện nay ....... 60
2.1.1. Những điều kiện ảnh hưởng đến đặc thù của hệ thống chính trị ở Tây
Nguyên hiện nay ............................................................................................ 60
2.1.2. Những yếu tố đặc thù của hệ thống chính trị ở Tây Nguyên .............. 71
2.2. Thực trạng vận dụng tính đặc thù trong xây dựng và vận hành hệ


thống chính trị ở Tây Nguyên .................................................................... 97
2.2.1. Thành tựu ............................................................................................ 97
2.2.2. Hạn chế ..............................................................................................116
2.2.3. Nguyên nhân ..................................................................................... 124
2.3. Phương hướng và giải pháp vận dụng tính đặc thù nhằm tiếp tục xây
dựng, vận hành hệ thống chính trị trong thời gian tới................................129
2.3.1. Phương hướng và giải pháp vận dụng tính đặc thù trong xây dựng hệ
thống chính trị ............................................................................................. 129
2.3.2. Phương hướng và giải pháp vận dụng tính đặc thù trong vận hành hệ
thống chính trị ............................................................................................. 134
Kết luận chương 2 ..................................................................................... 144

KẾT LUẬN

.................................. 146

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 149
PHỤ LỤC SỐ LIỆU.................................................................................. 160


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tây Nguyên là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng, nhạy cảm và tập trung
nhiều vấn đề bức xúc về kinh tế, văn hố, dân tộc, tơn giáo, an ninh – quốc phòng.
Từ sau ngày thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư xây
dựng, phát triển kinh tế – xã hội vùng Tây Nguyên. Đặc biệt chú trọng xây dựng hệ
thống chính trị các cấp nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của vùng; bảo đảm an
ninh, quốc phòng; tổ chức cho đồng bào các dân tộc phát triển kinh tế, văn hóa, xóa
bỏ nghèo nàn lạc hậu, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, từng bước phát triển.
Đến nay, đời sống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên được cải thiện, một bộ
phận giàu lên, hệ thống chính trị ngày càng được củng cố và tăng cường; văn hóa
các dân tộc tại chỗ luôn được coi trọng, bảo tồn và phát huy.
Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, Tây Nguyên nay đã yên
song chưa ổn. Đời sống nhân dân, đặc biệt là bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số tại
chỗ vẫn cịn nhiều khó khăn, phát triển kinh tế chưa bền vững. Tỷ lệ đói nghèo cịn
tương đối cao, dân trí thấp, chất lượng nguồn nhân lực cịn hạn chế. Mơi trường suy
thối, tài ngun có nguy cơ cạn kiệt, tranh chấp đất đai diễn ra phức tạp. Văn hóa
truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một, thậm chí biến mất.
Một số địa bàn trọng điểm vùng sâu, vùng xa, nguy cơ bất ổn cịn lớn. Hệ thống
chính trị của các tỉnh Tây Nguyên tiếp tục bộc lộ những hạn chế, yếu kém trong
việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phịng –

an ninh. Sự lỏng lẻo trong hệ thống, tình trạng thiếu kiểm soát quyền lực, quan liêu
– tham nhũng có chiều hướng phát triển đã làm suy giảm hiệu lực của hệ thống
chính trị. Nhiều chính sách đối với Tây Nguyên không phát huy được hiệu quả như
mong đợi, thậm chí cịn gây hiệu ứng nghịch. Một trong những nguyên nhân quan
trọng dẫn đến hạn chế trên là trong q trình xây dựng và vận hành hệ thống chính
trị ở Tây Nguyên chúng ta chưa nhận thức đầy đủ và thực sự về yếu tố đặc thù địa
lý – tự nhiên, lịch sử, kinh tế, xã hội, dân tộc, tơn giáo, an ninh – quốc phịng trên


2
địa bàn. Cơ chế quản lý xã hội áp dụng có phần xơ cứng mơ hình của người Kinh
lên vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên và chưa chú ý đầy đủ việc khai
thác yếu tố đặc thù trong cách thức tổ chức xã hội truyền thống của đồng bào các
dân tộc thiểu số. Những bất cập trong các chính sách phát triển đã tạo ra nhiều mâu
thuẫn trong kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh – quốc phòng. Đây là những vấn đề đã
và đang tiềm ẩn nguy cơ dẫn tới mất ổn định chính trị – xã hội, nhất là khi bị các
thế lực thù địch lợi dụng, những mâu thuẫn đó sẵn sàng bùng phát, chuyển hố
thành “điểm nóng” chính trị...Do đó, cần nhận thức và giải quyết đúng đắn tính đặc
thù trong việc hoạch định và thực thi chính sách phát triển kinh tế – xã hội, trong
xây dựng và vận hành hệ thống chính trị trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên.
Để góp phần nhận thức rõ hơn về tính đặc thù trong xây dựng và vận hành hệ
thống chính trị ở Tây Nguyên hiện nay, góp phần thực hiện thắng lợi cơng cuộc
đổi mới tồn diện đất nước, tơi chọn đề tài: “Tính đặc thù trong xây dựng và vận
hành hệ thống chính trị ở Tây Nguyên hiện nay” làm luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Tây Nguyên là một vùng lãnh thổ của Việt Nam với nhiều nét đặc thù, có tầm
quan trọng đặc biệt trên nhiều phương diện. Do đó, đây là khu vực được các nhà
nghiên cứu đặc biệt quan tâm với nhiều đề tài phân tích về các yếu tố kinh tế, chính
trị, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc phịng có liên quan đến q trình xây dựng và

vận hành hệ thống chính trị ở Tây Ngun hiện nay. Có thể tổng hợp các cơng trình
do các nhà khoa học trong nước liên quan đến hệ thống chính trị ở Tây Ngun
thành 3 nhóm vấn đề cơ bản sau:
Nhóm thứ nhất: các cơng trình nghiên cứu về hệ thống chính trị, về xây dựng
và vận hành hệ thống chính trị ở Việt Nam. Tiêu biểu như: cơng trình nghiên cứu
“Một số vấn đề của triết học chính trị” của tập thể cán bộ giảng dạy khoa Triết học
do PGS.TS Trịnh Dỗn Chính và PGS.TS Đinh Ngọc Thạch đồng chủ biên; Sách
“Chính trị học so sánh từ cách tiếp cận hệ thống cấu trúc chức năng” của Viện
Chính trị học, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2012; Các chuyên đề


3
bài giảng chính trị học (dành cho học viên cao học chuyên chính trị học) do
PGS.TSKH Phan Xuân Sơn chủ biên, Nxb. Chính trị – Hành chính, Hà Nội, xuất
bản năm 2010; Hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi mới của GS.VS
Nguyễn Duy Quý, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2008; Cơ sở lý
luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong q trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam do PGS.TS Lê Minh Thông chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, xuất bản năm 2007; Cơng trình “Những đặc trưng cơ bản của bộ máy
quản lý đất nước và hệ thống chính trị nước ta trước thời kỳ đổi mới” của
GS.TSKH Vũ Minh Giang, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2010;
Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam do GS.TS Dương
Xuân Ngọc chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2012; Văn
hóa chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hóa chính trị (chun luận) của PGS.TS
Phạm Hồng Tung (Đại học Quốc gia Hà Nội), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, xuất
bản năm 2010; “Địa chính trị trong chiến lược và chính sách phát triển quốc gia”
của PGS.TS Nguyễn Văn Dân, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 2011.
Các cơng trình trên đã phân tích khái niệm, đặc điểm, cấu trúc, quan hệ giữa
các thành tố của hệ thống chính trị trong xây dựng và vận hành hệ thống chính trị
của nước ta qua các thời đại lịch sử. Những quy luật chung nhất của chính trị, quan

hệ giữa chính trị với các yếu tố địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội. Cung cấp cơ sở lý
luận, phương pháp nghiên cứu, phân tích tính đặc thù trong xây dựng và vận hành
hệ thống chính trị ở Tây Nguyên hiện nay. Tuy nhiên các công trình này chủ yếu
tiếp cận theo chiều ngang của hệ thống chính trị, chưa tiếp cận chiều dọc và phân
tích về đặc thù trong hệ thống chính trị cấp địa phương, cấp cơ sở, nhất là ở khu
vực miền núi.
Nhóm thứ hai, những cơng trình nghiên cứu về tác động của điều kiện đặc thù
trong phát triển kinh tế – xã hội đến hệ thống chính trị ở Tây Nguyên. Tiêu biểu
phải kể đến là các cơng trình: Sách “Một số vấn đề cơ bản của kinh tế Tây Nguyên
trong phát triển bền vững” của TS. Bạch Hồng Việt, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà
Nội, xuất bản năm 2012; Sách “Kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng


4
ở Tây Nguyên giai đoạn 1996 – 2010” của TS. Lê Nhị Hịa, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, xuất bản năm 2013; Sách“Hướng tới phát triển bền vững Tây
Nguyên” do hai tác giả Lê Văn Khoa và Phạm Quang Tú đồng chủ biên, Nxb. Tri
thức, Hà Nội, xuất bản năm 2014; Tài liệu Hội thảo “Tham vấn về chính sách đặc
thù cho vùng Tây Nguyên” do Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Viện Tư vấn Phát triển tổ chức tháng 11 năm 2012 tại Hà Nội; Đề tài “Đời sống
văn hóa và xu hướng phát triển văn hóa một số dân tộc vùng Tây Bắc, Tây Ngun,
Tây Nam Bộ trong thời kỳ cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa” do GS.TS Trần Văn
Bính làm chủ nhiệm đề tài, hoàn thành năm 2005 tại Hà Nội.
Các cơng trình nghiên cứu kể trên đã phân tích điều kiện đặc thù trong tự
nhiên, địa kinh tế, địa chính trị, lịch sử, văn hóa, tộc người, tín ngưỡng – tôn
giáo...ở Tây Nguyên. Tác động của chúng theo cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực
đến phát triển kinh tế, quản lý xã hội, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh – quốc
phòng. Đây là cơ sở quan trọng để phân tích những yếu tố ảnh hưởng tạo nên tính
đặc thù trong xây dựng và vận hành hệ thống chính trị ở Tây Ngun hiện nay.
Nhóm thứ ba: các cơng trình nghiên cứu về biểu hiện đặc thù trong xây dựng

và vận hành hệ thống chính trị ở Tây Nguyên. Tiêu biểu như: Sách “Một số vấn đề
về xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên” do PGS.TS Phạm Hảo và TS.
Trương Minh Dục đồng chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm
2002; Đề tài nghiên cứu “Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong
thời kỳ đổi mới” do TS. Trương Minh Dục làm chủ nhiệm đề tài, hoàn thành năm
2007 tại Đà Nẵng; Luận án “Hoạt động tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững
mạnh của các đơn vị quân đội trên địa bàn Tây Nguyên giai đoạn hiện nay” của
tác giả Nguyễn Tiến Dung, thuộc chuyên ngành xây dựng Đảng và chính quyền
Nhà nước, hồn thành năm 2011 tại Học viện Chính trị – Bộ Quốc phịng, Hà Nội;
Luận án “Tạo nguồn cán bộ, cơng chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây
Nguyên giai đoạn hiện nay” của tác giả Trương Thị Bạch Yến, thuộc chun ngành
Khoa học Chính trị, hồn thành năm 2014 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.


5
Các cơng trình này đã tiếp cận chiều dọc hệ thống chính trị Tây Nguyên, đặc
biệt là chú trọng nghiên cứu hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn. Từ đó, các tác giả
đã chỉ ra một số đặc điểm, nét đặc thù của hệ thống chính trị ở Tây Nguyên hiện
nay, có giá trị tham khảo quan trọng đối với luận văn. Các tác giả cũng đã gợi mở
một số giải pháp vận dụng tính đặc thù trong xây dựng và vận hành hệ thống chính
trị ở Tây Nguyên hiện nay như sử dụng hiệu quả thiết chế xã hội truyền thống của
đồng bào dân tộc thiểu số, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ, phát
huy vai trò lực lượng quân đội...trong xây dựng và vận hành hệ thống chính trị trên
địa bàn Tây Ngun. Nhưng chưa đề cập đến những mơ hình hiệu quả vận dụng
tính đặc thù trong thực tiễn xây dựng và vận hành hệ thống chính trị ở Tây Ngun.
Cả 3 nhóm cơng trình nghiên cứu nêu trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với
quá trình thực hiện đề tài, bao gồm: cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu, cách
thức tiếp cận đối tượng nghiên cứu và cung cấp tư liệu cho luận văn. Tuy nhiên,
chưa có cơng trình nghiên cứu chun biệt, mang tính hệ thống trong phân tích các

nhân tố tác động đến hệ thống chính trị, về tính đặc thù trong xây dựng và vận hành
hệ thống chính trị ở Tây Nguyên hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Làm rõ tính đặc thù của hệ thống chính trị ở Tây Nguyên, trên cơ sở đó đề
xuất phương hướng và giải pháp vận dụng tính đặc thù trong xây dựng và vận hành
hệ thống chính trị ở Tây Nguyên trong thời gian tới.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày, phân tích và làm rõ quan niệm xây dựng và vận hành hệ
thống chính trị ở Việt Nam và tính đặc thù trong xây dựng, vận hành hệ thống
chính trị ở các địa phương.
Thứ hai, phân tích, làm rõ biểu hiện tính đặc thù trong xây dựng và vận hành
hệ thống chính trị ở Tây Nguyên.
Thứ ba, phân tích thực trạng, phương hướng và giải pháp vận dụng tính đặc


6
thù trong xây dựng và vận hành hệ thống chính trị ở Tây Nguyên hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Phạm vi đối tượng: tính đặc thù trong xây dựng và vận hành hệ thống chính
trị ở Tây Nguyên.
- Phạm vi thời gian: từ 2001 đến nay. Kể từ khi có sự ra đời của Nghị quyết số
10-NQ/TW ngày 18/01/2002 về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng
– an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001 – 2010 và Nghị quyết số 17/NQ-TW
ngày 18/3/2002 về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn.
- Phạm vi không gian: vùng Tây Nguyên gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk
Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận văn

Về cơ sở lý luận, luận văn dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về hệ thống chính trị. Luận văn còn sử dụng kết hợp các phương
pháp lịch sử và lơgíc, phân tích và tổng hợp, so sánh đối chiếu, diễn dịch và quy
nạp... để nghiên cứu và trình bày luận văn.
Về cách tiếp cận, để phân tích đặc điểm xây dựng và vận hành hệ thống chính
trị ở Tây Nguyên, luận văn tiếp cận từ góc độ triết học chính trị, tức lý giải những
nguyên lý, quy luật khách quan, về mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù
trong hệ thống chính trị. Để lý giải được tính đặc thù trong xây dựng hệ thống
chính trị ở Tây Nguyên. Bên cạnh cách tiếp cận triết học chính trị, luận văn cịn sử
dụng cách tiếp cận hệ thống – cấu trúc.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Về ý nghĩa khoa học
Luận văn góp phần xây dựng cơ sở lý luận về tính đặc thù trong q trình xây
dựng và vận hành hệ thống chính trị ở Tây Nguyên hiện nay. Cho thấy sự tương tác
giữa các yếu tố địa lý – tự nhiên, lịch sử, kinh tế, xã hội, dân tộc, tơn giáo – tín
ngưỡng, an ninh – quốc phịng đến quá trình xây dựng và vận hành hệ thống chính


7
trị ở Tây Nguyên hiện nay.
Về ý nghĩa thực tiễn
Góp phần cung cấp luận cứ, cơ sở khoa học trong việc tiếp tục xây dựng, từng
bước hoàn thiện hệ thống chính trị ở Tây Ngun hiện nay. Ngồi ra luận văn có
thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên thuộc chuyên ngành Triết học, Chính trị
học cũng như những người quan tâm nghiên cứu tìm hiểu về Tây Nguyên nói
chung, hệ thống chính trị ở Tây Ngun nói riêng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
đề tài được kết cấu gồm 2 chương, 6 tiết và 14 mục.



8
Chương 1
QUAN NIỆM VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ TÍNH ĐẶC THÙ
TRONG XÂY DỰNG, VẬN HÀNH HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Ở ĐỊA PHƯƠNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Quan niệm về hệ thống chính trị và cấu trúc hệ thống chính trị Việt
Nam hiện nay
1.1.1. Quan niệm về hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
Có những định nghĩa khác nhau về chính trị nhưng nội hàm cơ bản của khái
niệm chính trị có thể hiểu như sau [103, tr.10]:
– Chính trị là quan hệ lợi ích giữa các giai cấp vô cùng phức tạp với sự đấu
tranh, thỏa hiệp, hợp tác giữa các lực lượng xã hội mà biểu hiện tập trung nhất là
cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp cơ bản đối lập nhau trong một phương thức sản
xuất. Từ đó tác động đến quan hệ giữa những cá nhân, những giai tầng xã hội, công
dân và nhà nước, các dân tộc trong từng quốc gia và quốc tế. Cơ sở của tất cả
những quan hệ đó là lợi ích mà trước hết và cơ bản nhất là lợi ích kinh tế.
– Trung tâm của chính trị là việc giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước
theo yêu cầu lợi ích của các lực lượng xã hội. Chính trị khơng chỉ gói gọn trong
hoạt động của các đảng phái, chính khách mà cịn là sự tham gia của nhân dân vào
công việc nhà nước nhằm xác định phương hướng, nội dung, hình thức, cơ chế vận
hành của nhà nước và hệ thống chính trị, vừa đảm bảo lợi ích của giai cấp cầm
quyền, vừa phải hài hòa với lợi ích của tồn thể xã hội.
– Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế: chính trị ln chịu sự tác động
bởi các yếu tố lịch sử, văn hóa, tơn giáo, dân tộc, tâm lý, khoa học và nghệ thuật…
Với tư cách thành tố thuộc kiến trúc thượng tầng thì chính trị là sản phẩm trực tiếp
của các quá trình kinh tế – xã hội mà nền tảng là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất,
quan hệ về tổ chức và quản lý lao động xã hội; quan hệ trong phân phối sản phẩm
làm ra. Đồng thời, chính trị cũng tác động trở lại các quá trình kinh tế – xã hội đó.

Tóm lại, chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội trong việc
giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước trên nền tảng của một chế độ kinh tế xã


9
hội nhất định. [103, tr.10]
Hệ thống chính trị là khái niệm của khoa học chính trị đương đại, là một trong
những khái niệm phản ánh đặc trưng của những quan hệ quyền lực chính trị cũng
như các bộ phận, các nhân tố tham gia vào các quá trình trong thể chế chính trị hiện
đại. Liên quan đến vấn đề này có nhiều quan niệm khác nhau:
– Cách tiếp cận hệ thống chính trị nhấn mạnh vai trị đảng phái chính trị, đặc
biệt là đảng của giai cấp cầm quyền. Cách tiếp cận này quan niệm hệ thống chính
trị là một cơ cấu, tổ chức bao gồm đảng phái chính trị, nhà nước, các tổ chức chính
trị – xã hội tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật hiện hành. Hệ thống
pháp luật đó được chế định theo tư tưởng và lợi ích giai cấp cầm quyền nhằm duy
trì, bảo vệ và phát triển xã hội đó.
– Cách tiếp cận hệ thống chính trị lấy nhà nước là yếu tố trung tâm, tồn tại
xung quanh nhà nước là các tổ chức phi nhà nước để thực hiện chức năng chính trị.
Cách tiếp cận này quan niệm rằng hệ thống chính trị là tổng thể các tổ chức chính
trị của xã hội được chính thức thừa nhận về mặt pháp lý nhằm thực hiện quyền lực
chính trị của xã hội đó. Hệ thống này bao gồm nhà nước, các đảng phái, các nghiệp
đồn và các tổ chức chính trị khác. Trong đó nhà nước là yếu tố cơ bản, trung tâm.
– Cách tiếp cận hệ thống, cấu trúc, chức năng thì quan niệm hệ thống chính trị
khơng chỉ bao gồm các yếu tố cấu thành bên trong mà hệ thống chính trị tồn tại như
một chỉnh thể trong mối liên hệ với các hoạt động chính trị, các quan hệ chính trị,
các tư tưởng và học thuyết chính trị, quyết sách chính trị, chính sách cơng. Xem xét
hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm nhà
nước, các đảng chính trị, các đồn thể nhân dân và các tổ chức chính trị – xã hội
hợp pháp được liên kết với nhau nhằm tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội
để củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời phù hợp với lợi ích của

chủ thể cầm quyền.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin [103, tr.17], cái quan trọng nhất trong chính trị là
tổ chức chính quyền nhà nước, chính trị là sự tham gia vào cơng việc nhà nước,
định hướng nhà nước, xác định hình thức, nội dung, nhiệm vụ hoạt động nhà nước


10
trong xã hội có giai cấp. Bất kỳ vấn đề xã hội nào cũng có mối quan hệ nhất định
với chính trị, việc giải quyết nó ln trực tiếp hay gián tiếp gắn với lợi ích giai cấp,
với vấn đề quyền lực chính trị. Hệ thống chính trị là một phạm trù dùng để chỉ một
chỉnh thể các đảng phái chính trị, nhà nước và tổ chức chính trị – xã hội, tồn tại
trong khuôn khổ pháp luật của một nước thuộc giai cấp cầm quyền nhằm tác động
vào quá trình kinh tế – xã hội để duy trì và phát triển chế độ xã hội đó. Trong các
thời kỳ lịch sử, bộ phận cốt lõi của hệ thống chính trị là hệ thống chuyên chính của
giai cấp cầm quyền. Nhà nước là nhân tố quan trọng hàng đầu, là mắt xích quan
trọng. Nhà nước bao giờ cũng là cơng cụ chuyên chính của giai cấp cầm quyền. Hệ
tư tưởng của giai cấp cầm quyền được thể chế hoá thành hệ thống pháp luật, pháp
chế. Dân chủ là thước đo trình độ phát triển của chế độ chính trị, trước hết là mức
độ phù hợp của lợi ích kinh tế giữa giai cấp cầm quyền với các giai cấp, các dân tộc.
Chính trị là sự biểu hiện tập trung kinh tế, chính trị là quan hệ giữa các giai cấp,
chính trị là việc tham gia vào những công việc nhà nước.
Như vậy, có mối quan hệ qua lại giữa các nhân tố cấu thành hệ thống chính
trị theo một logic nhất định, tạo thành cơ chế thực hiện quyền lực chính trị trong
xã hội có giai cấp. Nếu hệ thống chính trị kết cấu hợp lý và vận hành có hiệu quả
thì thúc đẩy xã hội phát triển. Ngược lại, nếu hệ thống chính trị kết cấu khơng hợp
lý, vận hành kém hiệu quả thì nó kìm hãm sự phát triển của xã hội, sớm hay muộn
thì hệ thống chính trị ấy cũng sẽ bị thay thế bằng hệ thống chính trị tiến bộ hơn
hợp quy luật phát triển của xã hội lồi người. Từ các phân tích trên có thể rút ra
quan niệm: Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thiết chế chính trị
(nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội), được xây dựng trên

các quyền và các chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng nhất
định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể nhằm thực thi
quyền lực chính trị.
Ở Việt Nam, khái niệm hệ thống chính trị được Đảng ta nêu ra từ Hội nghị
lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI (tháng 3/1989) và chính thức
sử dụng trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991). Hệ thống


11
chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
một chỉnh thể gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam cùng với các tổ chức chính trị – xã hội hợp pháp. Hoạt động theo
một cơ chế nhất định nhằm từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Quan niệm hệ thống chính trị theo quan điểm của Đảng ta thể hiện trên hai
vấn đề cơ bản: Một là, hệ thống chính trị có cấu trúc gồm các tổ chức thành viên và
mối quan hệ giữa các tổ chức đó. Hai là, khẳng định quyền lực chính trị thuộc về
nhân dân là bản chất cốt lõi, là mục đích của việc tổ chức và vận hành của hệ thống
chính trị.
1.1.2. Cấu trúc hệ thống chính trị ở Việt Nam
Theo chiều ngang, hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay ra đời từ khi thiết lập
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945. Gồm các yếu tố cấu thành sau:
Đảng Cộng sản Việt Nam: Là đội tiên phong của giai cấp cơng nhân, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc,
vừa là lực lượng hợp thành, vừa là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm cho hệ thống chính trị giữ được bản chất giai cấp công nhân và bảo
đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa: Là tổ chức trung tâm và là trụ cột
của hệ thống chính trị, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân,

chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội và
thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại. Nhà nước bao gồm Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp (Tịa án và Viện Kiểm sát Nhân dân) và chính
quyền các cấp.
Các tổ chức chính trị – xã hội và đồn thể nhân dân: Đây là những tổ chức
đại diện cho lợi ích của các cộng đồng xã hội khác nhau tham gia vào hệ thống
chính trị theo tơn chỉ, mục đích, tính chất của từng tổ chức. Ở Việt Nam hiện có 6
tổ chức chính trị – xã hội gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ


12
Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nơng dân Việt Nam, Hội Cựu
chiến binh Việt Nam, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Ngồi ra cịn có
nhiều tổ chức xã hội, các đồn thể nhân dân được Nhà nước công nhận và cho phép
hoạt động.
Về vị trí, vai trị, chức năng, quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị
ở Việt Nam. Ở Việt Nam hiện nay, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ
thể chân chính của quyền lực. Vì vậy, hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng
là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hệ thống chính trị của
Việt Nam gồm nhiều tổ chức, mỗi tổ chức có vị trí, vai trò khác nhau do chức năng,
nhiệm vụ của từng tổ chức, nhưng cùng tác động vào các quá trình phát triển kinh
tế – xã hội nhằm đảm bảo quyền lực của nhân dân.
Đảng có vị trí là hạt nhân trong hệ thống chính trị, giữ vai trị lãnh đạo trong
hệ thống chính trị. Vai trị lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị là sự dẫn
đường, chỉ hướng của Đảng đối với hệ thống chính trị tiến tới mục tiêu chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Biểu hiện trên thực tế bằng hoạt động đề ra chủ
trương, đường lối và động viên, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối đó đối với
các thành phần của hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền,
có chức năng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bởi:
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng nắm giữ chính quyền, lãnh đạo

chính quyền, chi phối tổ chức và hoạt động của chính quyền. Ý chí của Đảng là đại
diện cho ý chí, lợi ích chung của xã hội.
Thứ hai, phạm trù Đảng Cộng sản lãnh đạo đất nước, xã hội là có sự phân biệt
chức năng lãnh đạo Nhà nước về mặt chính trị của Đảng với chức năng quản lý xã
hội của nhà nước. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn xã hội, nhà nước, có
nghĩa là Đảng là tổ chức có chức năng dẫn dắt, tổ chức nhà nước và các tổ chức
chính trị – xã hội. Đảng lãnh đạo nhà nước là lãnh đạo về mặt chính trị, tức là lãnh
đạo nhà nước bằng đường lối, bằng đội ngũ cán bộ… Đảng lãnh đạo xã hội gián
tiếp thông qua việc dẫn dắt vai trị quản lý của nhà nước. Đảng khơng có chức năng
quản lý cụ thể, khơng có chức năng của cơ quan công quyền. Đảng không được


13
nhân danh nhà nước để thực hiện quyền lực.
Thứ ba, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội là do sự tín
nhiệm, tơn vinh của nhân dân Việt Nam trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng.
Điều này được ghi vào Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Thế
giới đương đại, ít có luật pháp của nước nào lại khẳng định một đảng cụ thể là đảng
cầm quyền, lãnh đạo nhà nước trong Hiến pháp. Do đó, đây là đặc điểm rất riêng
của một đảng cầm quyền như Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về vị trí, vai trị, chức năng của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam trong hệ thống chính trị ở Việt Nam. Địa vị chính trị – pháp lý của Nhà nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam bắt nguồn từ bản chất giai cấp của nó. Tính
chất giai cấp cơng nhân và tính nhân dân của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam là thống nhất với nhau. Do lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động, các giai tầng xã hội khác và lợi ích của tồn thể dân tộc là thống nhất.
Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Nhà nước Cộng hịa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam ln tơn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Nhà nước ở vị trí trung tâm trong hệ thống chính trị. Vị trí này thể hiện Nhà
nước là một bộ phận quan trọng, một mắt xích đặc biệt, một tâm điểm nổi bật trong

hệ thống chính trị. Vì Nhà nước là tổ chức quyền lực rộng lớn, đại diện, bảo vệ cho
ý chí, lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, là chủ
thể đại diện cho quốc gia trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, vị trí của Nhà nước
được quy định bởi chức năng, nhiệm vụ của nó trong hệ thống chính trị. Nhà nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là trụ cột của hệ thống chính trị, là cơng cụ
chủ yếu thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân,
do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà
nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật. Nhà nước tôn
trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý
giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Nhà


14
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Nhà nước là đại diện chính thức cho tồn xã hội, có cơ sở xã hội rộng lớn để
triển khai thực hiện các chính sách, pháp luật của nhà nước. Nhà nước có hệ thống
các cơ quan đại diện rộng lớn từ trung ương đến địa phương và cơ sở do nhân dân
bầu nên. Nhà nước là chủ thể của quyền lực chính trị, cơng cụ chủ yếu để thực hiện
quyền lực chính trị của nhân dân, có bộ máy làm chức năng quản lý xã hội, thực
hiện các biện pháp cưỡng chế khi cần thiết. Nhà nước quản lý xã hội bằng hệ thống
pháp luật, thể chế hóa các đường lối của Đảng. Chính sách, chủ trương của nhà
nước được thực hiện một cách thống nhất, phổ biến rộng rãi trên quy mơ tồn xã
hội. Kết hợp với các phương tiện điều chỉnh xã hội khác, đặc biệt là đạo đức, pháp
luật giữ vai trò hàng đầu trong quản lý xã hội vì sự ổn định, trật tự và phát triển bền
vững của đất nước. Nhà nước có chủ quyền quốc gia tức quyền tối cao về đối nội
và độc lập về đối ngoại. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc để nhà nước thực hiện sự
quản lý các công việc đối nội và đối ngoại trên nguyên tắc hợp tác, tôn trọng độc
lập chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, các bên cùng có lợi. Trong hệ thống chính trị, nhà

nước là tổ chức duy nhất có quyền tham gia với tư cách là chủ thể đối với công
pháp quốc tế. Nhà nước là chủ sở hữu đối với những tư liệu sản xuất quan trọng
nhất, nắm trong tay nguồn lực cơ sở vật chất, tài chính to lớn, đảm bảo thực hiện
các chức năng nhà nước, tạo điều kiện cho hoạt động của các tổ chức chính trị – xã
hội. Ưu thế, sức mạnh và vai trò của nhà nước đã khẳng định vị trí đặc biệt của nhà
nước trong hệ thống chính trị Việt Nam là vị trí trung tâm, trụ cột, là cơng cụ sức
mạnh của hệ thống chính trị.
Trong q trình đổi mới hiện nay, Nhà nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam thực hiện chức năng chính trị của mình thơng qua những nhiệm vụ chủ yếu
như phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và
phát triển kinh tế nhà nước làm chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã làm
nền tảng của nền kinh tế, xây dựng nền dân chủ và nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; xây dựng và củng cố nền tảng tinh thần của xã hội trên cơ sở chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại;


15
xây dựng và thực hiện chiến lược an ninh, quốc phòng, bảo vệ tổ quốc và nhân dân,
bảo vệ Đảng, Nhà nước và sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước thực hiện chức năng xã hội thông qua việc hoạch định và thực
thi các chính sách phát triển xã hội, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học –
cơng nghệ và bảo vệ môi trường; xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng xã hội thiết
yếu; thực hiện xóa đói, giảm nghèo,…
Về vị trí, vai trị, chức năng của các tổ chức chính trị – xã hội trong hệ thống
chính trị ở Việt Nam. Các tổ chức chính trị – xã hội ở vị trí cơ sở của hệ thống
chính trị. Vị trí này có nghĩa là, các tổ chức chính trị – xã hội như những vệ tinh
quay xung quanh tâm điểm Nhà nước. Trong tâm điểm đó, có hạt nhân là Đảng. Sở
dĩ Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội ở vị trí cơ sở của hệ thống chính trị vì
các tổ chức này là nơi tập hợp, đoàn kết rộng rãi các lực lượng xã hội, tạo ra nền
tảng vững chắc cho hệ thống chính trị tồn tại, hoạt động và phát triển. Đồng thời, vị

trí của Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội cũng được quy định bởi chính
chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức này. Trong hệ thống chính trị ở Việt Nam,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức chính trị – xã hội đặc biệt, vì:
Thứ nhất, Mặt trận là tổ chức tập hợp rộng rãi, nơi tập hợp mọi lực lượng
trong xã hội Việt Nam và người Việt Nam ở nước ngoài, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Thứ hai, thành viên của Mặt trận là các tổ chức của các giai cấp, tầng lớp,
cộng đồng dân cư trong xã hội Việt Nam. Đặc biệt, Đảng cũng là một trong số các
tổ chức thành viên của Mặt trận. Thành viên của Mặt trận ngồi các tổ chức cịn là
cá nhân. Nhưng đó phải là những cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp, lực
lượng xã hội hoặc cộng đồng dân cư có tầm quan trọng đối với đời sống chính trị,
xã hội Việt Nam.
Thứ ba, Mặt trận là tổ chức duy nhất trong hệ thống chính trị thực hiện nhiệm
vụ hiệp thương dân chủ cử ra danh sách ứng cử viên trong kỳ bầu cử hệ thống cơ
quan quyền lực nhà nước, đặt nền móng cho việc xây dựng bộ máy Nhà nước.
Hiện nay, tất cả các tổ chức chính trị – xã hội đều hoạt động cơng khai, hợp


16
pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Vai trị của các tổ chức
chính trị – xã hội được thể hiện ở hai điểm cơ bản sau:
Một là, các tổ chức chính trị – xã hội có vai trị tập hợp, xây dựng khối đại
đồn kết toàn dân tạo sự đồng thuận xã hội để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ
cách mạng của Đảng. Đây là vai trò quan trọng bậc nhất của các tổ chức chính trị –
xã hội trong hệ thống chính trị Việt Nam.
Hai là, các tổ chức chính trị – xã hội có vai trị đại diện, bảo vệ lợi ích và phát
huy vai trò quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
Bên cạnh hai vai trị nói trên, Mặt trận Tổ quốc có sáu chức năng chủ yếu
như sau:

Thứ nhất, chức năng đại diện, bảo vệ lợi ích của các thành viên, hội viên, đại
diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Thứ hai, tập hợp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí
về chính trị và tinh thần trong nhân dân, sự đồng thuận xã hội.
Thứ ba, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thứ tư, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
Thứ năm, giám sát và phản biện xã hội.
Thứ sáu, tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam
với nhân dân các nước trên thế giới vì hịa bình, hợp tác và phát triển.
Theo chiều dọc, hệ thống chính trị ở nước ta về cơ bản được phân chia theo 4
cấp: trung ương – tỉnh (và thành phố trực thuộc trung ương), thành phố – quận,
huyện – xã, phường, thị trấn. Ngồi ra, cịn có loại hình cơ sở thuộc các tổ chức
kinh tế, hành chính sự nghiệp có tính đặc thù riêng, không gắn với địa bàn dân cư.
Ở mỗi cấp đều có các tổ chức của hệ thống chính trị như tổ chức Đảng, bộ máy
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội. Các tổ chức thành
viên trong hệ thống cũng được quản lý, điều hành theo thứ tự cấp bậc: từ trung
ương xuống tỉnh – thành phố trực thuộc trung ương, đến quận – huyện – thành phố


17
trực thuộc tỉnh – thị xã, đến xã – phường – thị trấn trên nguyên tắc cấp dưới phục
tùng cấp trên, chịu sự lãnh đạo của tổ chức cấp trên trực tiếp.
Hệ thống chính trị cấp trung ương có vị trí đặc biệt quan trọng và chi phối tồn
bộ hoạt động của các cấp từ trung ương đến cơ sở. Ở cấp trung ương, chúng ta thấy
rõ sự hiện diện của các tổ chức và hoạt động của nó: Đảng Cộng sản Việt Nam
(Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các Ban Đảng),
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Quốc hội, Chính phủ, Tịa án
Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao) và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cùng các tổ chức chính trị – xã hội Trung ương (Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ,

Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Nơng dân,
Tổng Liên đồn Lao động, Trung ương Hội Cựu chiến binh).
Hệ thống chính trị cấp tỉnh, thành phố và quận, huyện có vị trí quan trọng đối
với từng vùng, từng địa phương và là cấp trung chuyển, tổ chức thực hiện theo nghị
quyết, quyết định…của cấp Trung ương ở cấp của mình. Đồng thời chỉ đạo cấp
thấp hơn thực hiện các nghị quyết, quyết định…của cấp trên bao gồm của trung
ương – tỉnh, thành và quận, huyện. Theo đó, trong hệ thống chính trị cấp tỉnh, thành
phố và quận, huyện đều có các tổ chức tương đương như Đảng bộ (tỉnh – thành,
quận – huyện), bộ máy chính quyền (Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh – thành và Hội
đồng Nhân dân cấp quận – huyện; Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh – thành và Uỷ ban
Nhân dân cấp quận – huyện), Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội
(tỉnh – thành và quận – huyện).
Hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn cịn được gọi là cấp cơ sở, cấp thấp
nhất và chính vì thế lại là nơi diễn ra cuộc sống hiện thực của xã hội với tất cả tính
phong phú, đa dạng của hoạt động sản xuất vật chất và sáng tạo tinh thần của nhân
dân. Cấp cơ sở là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, vừa là bộ phận của hệ thống, vừa có
đặc điểm riêng của mình. Hệ thống chính trị cơ sở có vai trị rất quan trọng trong
việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của
dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế – xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng


18
đồng dân cư. Hệ thống chính trị cơ sở là một chỉnh thể các thiết chế tổ chức với ba
bộ phận cấu thành cơ bản:
Một là, tổ chức Đảng bộ cơ sở, một cấp cơ bản trong hệ thống tổ chức của
Đảng. Tuy là tổ chức độc lập và là tổ chức chính trị có vai trị lãnh đạo hệ thống
chính trị cơ sở. Nhưng do đại đa số Đảng viên trực tiếp sống và làm việc trong
guồng máy xã hội với đa ngành nghề, có một số ít Đảng viên nắm giữa các cương
vị chủ chốt trong bộ máy chính quyền và các tổ chức chính trị – xã hội của quần

chúng nên toàn bộ thiết chế tổ chức của Đảng bộ cơ sở không chỉ được xác lập theo
quy định của Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam hiện hành, mà cịn phản ánh tính
đặc thù của địa phương. Trong cấp cơ sở này, Đảng bộ, chi bộ và cấp uỷ Đảng đề ra
chủ trương, các giải pháp có tính định hướng. Đồng thời phân cơng, giao trách
nhiệm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị đề ra biện pháp, tổ chức thực hiện
theo quyền hạn, trách nhiệm của từng tổ chức.
Hai là, tổ chức chính quyền cơ sở, cấp cuối cùng của bộ máy chính quyền, cấp
trực tiếp thực hiện sự quản lý nhà nước đối với nhân dân, cũng là cấp trực tiếp thể
hiện và thực hiện quyền lực làm chủ của nhân dân tại địa phương. Do đó, các tổ chức
chính quyền cơ sở vừa là đại diện cho quyền lực của Nhà nước ta – quyền lực của
toàn dân, vừa là đại diện quyền lực của nhân dân tại địa phương. Trong hệ thống
chính trị cơ sở, chính quyền cơ sở có chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các mục tiêu kinh tế, văn hố, xã hội, an
ninh, quốc phịng ở cơ sở, thực hiện việc quản lý hành chính nhà nước theo thẩm
quyền được giao; hướng dẫn và giám sát của các hoạt động tự quản của dân; quản lý
và phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa...Tổ chức chính quyền cơ sở bao gồm:
Thứ nhất, Hội đồng Nhân dân cơ sở. Hội đồng Nhân dân cơ sở không chỉ là cơ
quan chấp hành của các cơ quan nhà nước cấp trên mà còn là cơ quan biểu hiện
quyền lực và ý chí của các tầng lớp nhân dân địa phương trong quan hệ với Uỷ ban
Nhân dân sở tại và Hội đồng Nhân dân cấp trên. Hội đồng Nhân dân quyết định
mục tiêu kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phịng tại cơ sở, những cơng việc mà xã,
phường, thị trấn được phân cấp và những việc đáp ứng yêu cầu tự quản của cộng


19
đồng dân cư ở cơ sở; bầu và phê chuẩn các chức danh hành chính và những cơng
việc do cấp trên thực hiện trên địa bàn, nhất là việc sử dụng đất đai, quỹ công, tài
sản công, kể cả các quỹ do dân đóng góp; bỏ phiếu tín nhiệm đối với chức danh do
Hội đồng Nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Các đại biểu Hội đồng Nhân dân, ngoài
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong các kỳ họp Hội đồng, cịn được phân

cơng tham gia các hoạt động thường xuyên, gắn bó với dân như tổ chức giám sát
của Hội đồng Nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội,
ban thanh tra nhân dân, tổ hoà giải, các tổ chức tự quản của dân.
Thứ hai, Uỷ ban Nhân dân cơ sở vừa là cơ quan trực tiếp hướng dẫn, giám
sát, hỗ trợ và phát huy sự tự quản của nhân dân, vừa là cơ quan chấp hành của các
cơ quan nhà nước cấp trên và của Hội đồng Nhân dân cùng cấp. Chức năng chính
của Uỷ ban Nhân dân là thực hiện sự quản lý nhà nước các mặt cơ bản của đời
sống xã hội theo luật định. Uỷ ban Nhân dân có bộ máy giúp việc gồm văn phịng
Ủy ban Nhân dân và ba khối: khối kinh tế – tài chính, khối văn hố – xã hội và
khối nội chính. Tại cơ sở, dưới tổ chức Uỷ ban Nhân dân còn có cấp (thơn, khu
phố) nhưng khơng phải là một cấp hành chính. Trưởng ấp (trưởng thơn, tổ trưởng
dân phố) do dân trực tiếp bầu, có chức năng vừa là người đại diện cho dân, vừa là
người đại diện cho chính quyền cơ sở thực hiện một số nhiệm vụ hành chính tại
ấp, thơn, khu phố…
Thứ ba, thiết chế các tổ chức chính trị – xã hội của quần chúng bao gồm Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên tại cơ sở. Các tổ chức này tập hợp rộng rãi
những thành viên có lợi ích chung theo từng đặc điểm xã hội như nghề nghiệp, lứa
tuổi, giới tính…mà lợi ích chính đáng của các thành viên được thoả mãn thông qua
con đường tác động vào cơ chế thực thi quyền nhà nước ở địa phương, cơ sở. Các
tổ chức này thay mặt các nhóm nhân dân tham gia cùng với Đảng và chính quyền
để giải quyết các vấn đề xảy ra ở địa phương. Nói cách khác, thơng qua các hoạt
động của mình, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đồn thể chính trị – xã hội cơ sở
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại cơ sở.
Đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị ở cơ sở là nhân tố trực tiếp quyết định


20
sự vững mạnh, hiệu quả của các tổ chức trong hệ thống, của cả hệ thống và việc
hiện thực hoá quyền làm chủ của nhân dân. Đội ngũ cán bộ này, đặc biệt là lực
lượng cán bộ chuyên trách, dù ở bất cứ tổ chức nào trong hệ thống chính trị cơ sở

đều do tổ chức Đảng cơ sở quản lý, phân công công tác và kiểm tra, giám sát hoạt
động. Đội ngũ này hiện được xác định:
Một là, cán bộ chuyên trách. Những người dành phần lớn thời gian lao động
làm việc công để thực hiện chức trách được giao, những người qua bầu cử giữ các
chức vụ chủ chốt của cấp uỷ Đảng, Ủy ban Nhân dân, Hội đồng Nhân dân, những
người đứng đầu Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị – xã hội hoặc là
cán bộ chuyên môn được Ủy ban Nhân dân tuyển chọn gồm trưởng công an, xã đội
trưởng, cán bộ văn phịng, địa chính, tài chính – kế tốn, tư pháp, văn hoá – xã hội
theo quy định của Chính phủ.
Hai là, Cán bộ khơng chun trách. Những người chỉ tham gia công việc trong
một phần thời gian lao động theo quy định của Uỷ ban Nhân dân tỉnh theo hướng
dẫn của Chính phủ.
Ở nước ta, hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở là một hệ thống thống
nhất biểu hiện qua mối quan hệ giữa các thành viên trong hệ thống theo chiều dọc
và chiều ngang. Theo chiều ngang, là quan hệ đồng cấp các tổ chức thành viên của
hệ thống chính trị. Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị –
xã hội về cơ bản được thể hiện ở chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức và yêu cầu
của việc thức hiện mục tiêu chung của từng cấp và toàn hệ thống. Theo chiều dọc,
Đảng lãnh đạo tuyệt đối, thống nhất và phân cấp trực tiếp (ngang cấp và cấp dưới
liền kề) đối với chính quyền và các tổ chức chính trị – xã hội.
1.1.3. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam
Hệ thống chính trị ở Việt Nam vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù.
Do đó, về cơ bản được tổ chức gần giống như hệ thống chính trị nhiều nước trên
thế giới. Mặt khác, hệ thống chính trị ở Việt Nam được tổ chức và vận hành trong
điều kiện lịch sử, kinh tế – xã hội và mơi trường văn hóa chính trị đặc thù. Chính vì
vậy, hệ thống chính trị ở Việt Nam có những đặc điểm sau:


×