Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.58 KB, 12 trang )

Phần IV. Nghiên cứu, dạy học và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng - Chủ nghĩa Mác - Lênin…

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
ThS. Đỗ Thị Yên*
ThS. Nguyễn Thị Hào**
Trường Đại học Hoa Lư
Tóm tắt
Bài viết khái quát những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị. Trên cơ sở đó, nghiên cứu, tìm hiểu sự vận dụng quan
điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong thực tiễn cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới đất nước.
Từ khóa: Chủ nghĩa Mác - Lênin, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị của Đảng
Cộng sản Việt Nam.

I. MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là nền tảng tƣ tƣởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là
một trong các vấn đề cơ bản, quan trọng, xuyên suốt của chủ nghĩa Mác - Lênin. Quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là cơ sở lý
luận, đặt nền móng tƣ tƣởng, lý luận để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết mối quan
hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ đổi mới đất nƣớc ở nƣớc ta hiện
nay. Bài viết khái quát những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị và sự vận dụng quan điểm đó của chủ nghĩa trong thực tiễn
cách mạng Việt Nam của Đảng ta.
II. NỘI DUNG
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
Theo C. Mác, kinh tế có vai trị hết sức to lớn đối với chính trị. Vai trị quyết định
của kinh tế đối với chính trị đƣợc thể hiện ở chỗ: Kinh tế tạo ra những cơ sở cho sự
*, **



Giảng viên Bộ mơn Lý luận chính trị, Trƣờng Đại học Hoa Lƣ

|514


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

xuất hiện giai cấp và đối kháng giai cấp; kinh tế tạo ra điều kiện để hình thành các
chính đảng của các giai cấp thông qua các cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời kinh tế
cũng là cơ sở cho sự ra đời của nhà nƣớc... Do đó, khi nói về vai trị quyết định của
kinh tế đối với những quan hệ chính trị, Ph. Ăngghen viết: "Từ đó, nhận thấy rất rõ
ràng rằng những sự kiện kinh tế mà từ trƣớc đến nay, những tác phẩm sử học cho là
không đúng một vai trị nào, hoặc có chăng nữa thì chỉ đúng một vai trị thảm hại, thì ít
nhất trong thế giới hiện đại, cũng đó là một lực lƣợng lịch sử quyết định" [3; tr.321].
Trƣớc hết, C. Mác và Ăngghen cho rằng, kinh tế là cơ sở xuất hiện giai cấp và đối
kháng giai cấp. Ph. Ăngghen viết: "Quan niệm duy vật về lịch sử xuất phát từ luận
điểm cho rằng, sản xuất và tiếp theo sau sản xuất là trao đổi sản phẩm của sản xuất, là
cơ sở của mọi chế độ, xã hội, rằng trong mỗi xã hội xuất hiện trong lịch sử, sự phân
phối sản phẩm và cùng với sự phân phối ấy là sự phân chia xã hội thành giai cấp hoặc
đẳng cấp đều đƣợc quyết định bởi tình hình: ngƣời ta sản xuất ra cái gì và sản xuất ra
bằng cách nào và những sản phẩm của sản xuất đó đƣợc trao đổi nhƣ thế nào" [2; tr.371].
Nhƣ vậy, theo Ph. Ăngghen, kinh tế - sản xuất và trao đổi là cơ sở của sự xuất hiện giai
cấp trong xã hội. Vì vậy, cần tìm nguyên nhân của sự xuất hiện giai cấp, của những
biến đổi xã hội, đặc biệt là những biến đổi về chính trị, ở ngay trong kinh tế chứ không
phải ở những lực lƣợng thần bí, hay ở ý thức chủ quan của con ngƣời nhƣ các nhà xã
hội học trƣớc C. Mác đó làm. Ph. Ăngghen viết: "Phải tìm những ngun nhân cuối
cùng của tất cả những biến đổi xã hội và những đảo lộn chính trị khơng phải trong đầu
óc ngƣời ta, không phải ở nhận thức ngày càng tăng thêm của ngƣời ta,... mà là trong
những biến đổi của phƣơng thức sản xuất và phƣơng thức trao đổi; cần phải tìm những

ngun nhân đó khơng phải trong triết học, mà là trong kinh tế của thời đại tƣơng ứng"
[2; tr.371].
Trong đấu tranh giai cấp, tất yếu các giai cấp phải lập ra chính đảng của mình để
lãnh đạo phong trào. Nhƣ vậy, kinh tế cũng là cơ sở gián tiếp của sự hình thành các
chính đảng của các giai cấp và cuộc đấu tranh chính trị giữa các chính đảng đó với
nhau. Thêm vào đó, sự ra đời của nhà nƣớc, sự xuất hiện các quan điểm chính trị của
một giai cấp nhất định có tác dụng chi phối hoạt động của giai cấp, của nhà nƣớc trong
xã hội,... đều bắt nguồn từ nguyên nhân kinh tế.
Nhà nƣớc ra đời cùng sự ra đời của chế độ tƣ hữu và sự phân chia xã hội thành
các giai cấp đối kháng. Giai cấp thống trị khơng thể duy trì địa vị thống trị nếu không
dựa vào bộ máy bạo lực và các cơng cụ của nó nhƣ qn đội, pháp luật... Tất cả những
cái đó đều bắt nguồn một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ những nguyên nhân kinh tế.
515

|


Phần IV. Nghiên cứu, dạy học và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng - Chủ nghĩa Mác - Lênin…

Do đó, Ph. Ăngghen đã khẳng định: "Tất cả mọi quyền lực xã hội và tất cả mọi bạo lực
chính trị đều bắt nguồn từ những tiền đề kinh tế, từ phƣơng thức sản xuất, trao đổi của
mỗi một xã hội nhất định trong lịch sử" [2; tr. 303]. Vì vậy, sự ra đời, tồn tại và tiêu
vong của Nhà nƣớc khụng phải do ý muốn chủ quan của một cá nhân của một giai cấp
nào, mà trái lại, là một tất yếu khách quan, do yêu cầu phát triển tất yếu của các quan
hệ kinh tế.
Không những giai cấp, đảng phái, nhà nƣớc và đấu tranh giai cấp đều có nguồn
gốc từ kinh tế mà hệ tƣ tƣởng chính trị chi phối mọi hoạt động chính trị nhƣ đấu tranh
giai cấp, hoạt động của Nhà nƣớc, của các chính đảng... cũng đều là biểu hiện của kinh
tế. Mặc dù chƣa trực tiếp chỉ ra rằng, hệ tƣ tƣởng chính trị là biểu hiện của kinh tế
nhƣng khi nói về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trỳc thƣợng tầng của một xã

hội nhất định, C. Mác, Ph. Ăngghen đều coi chính trị (gồm có hệ tƣ tƣởng chính trị và
các thiết chế tƣơng ứng cũng nhƣ mối quan hệ nội tại giữa chúng) là một bộ phận của
kiến trúc thƣợng tầng đƣợc sinh ra từ quan hệ kinh tế nhất định và phản ánh những
quan hệ kinh tế đó.
Vì lẽ đó, những mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị bao giờ cũng là sự phản ánh
của những mâu thuẫn về kinh tế, và ngƣợc lại, những mâu thuẫn trong kinh tế tất yếu sẽ
dẫn đến đấu tranh giai cấp. Đúng nhƣ C. Mác đã khẳng định, mâu thuẫn gay gắt giữa
lực lƣợng sản xuất và quan hệ sản xuất cuối cùng sẽ dẫn đến cuộc cách mạng xã hội.
Do đó, khi nghiên cứu những cuộc đảo lộn trong xã hội thì bao giờ cũng phải phân biệt
cuộc đảo lộn vật chất trong những điều kiện kinh tế của sản xuất với những hình thái
pháp lý, chính trị, tơn giáo... Tóm lại, với những hình thái tƣ tƣởng, trong đó con ngƣời
ý thức đƣợc cuộc xung đột ấy và đấu tranh để giải quyết nó [1; tr.15].
Vai trị quyết định của kinh tế đối với chính trị khơng chỉ biểu hiện ở chỗ, kinh tế
sinh ra chính trị, mà còn biểu hiện ở chỗ, những biến đổi căn bản trong kinh tế sớm
muộn sẽ dẫn đến những biến đổi căn bản trong chính trị.
Theo Ph. Ăngghen, kinh tế là cái có trƣớc, cịn chính trị là cái có sau và là sự biểu
hiện của kinh tế; kinh tế là tính thứ nhất, cịn chính trị là tính thứ hai, cho nên sự biến
đổi của chính trị bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi trong kinh tế. Nhƣng khơng phải
cứ có sự biến đổi nào về kinh tế thì ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi về chính trị...
Song, sự biến đổi của kinh tế sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chính trị.
Chính trị đƣợc sinh ra từ những nguyên nhân kinh tế và mọi sự biến đổi của nó
đều do kinh tế quyết định một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhƣng chính trị khơng phải
là yếu tố thụ động mà có tác động trở lại kinh tế. Khẳng định điều đó Ph. Ăngghen viết:

|516


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

"Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tơn giáo, văn học, nghệ thuật,... đều

dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhƣng tất cả chúng cũng có ảnh hƣởng lẫn nhau và
ảnh hƣởng đến cơ sở kinh tế" [5; tr.271].
Trong tất cả các nhân tố của chính trị, nhà nƣớc đúng một vai trị hết sức quan
trọng và có tác dụng to lớn đối với kinh tế. Đƣợc nảy sinh trên một cơ sở kinh tế nhất
định, nhà nƣớc tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế. Chính vì vậy, trong xã hội
có giai cấp đối kháng, các giai cấp đấu tranh với nhau để giành, giữ chính quyền cũng
là để tạo cho giai cấp mình một sức mạnh kinh tế. Vì thế, khi nói về cuộc đấu tranh
chính trị của giai cấp vơ sản, Ph. Ăngghen viết: "Chúng tơi đấu tranh cho chun chính
chính trị của giai cấp vơ sản để làm gì, nếu quyền lực chính trị bất lực về kinh tế? Bạo
lực (tức là quyền lực nhà nƣớc) - cũng là một lực lƣợng kinh tế" [4; tr.683]. Dựa vào nhà
nƣớc, giai cấp nắm chính quyền khơng ngừng phát triển lực lƣợng kinh tế của mình
ngày càng vững mạnh. Khi kinh tế phát triển lại là cơ sở đảm bảo cho quyền lực nhà
nƣớc càng đƣợc tăng cƣờng mạnh mẽ. Có nhƣ vậy, địa vị và quyền lực kinh tế của giai
cấp nắm chính quyền nhà nƣớc luôn luôn đƣợc đảm bảo vững chắc. Nghĩa là cơ sở
kinh tế của một xã hội nhất định đƣợc ổn định và vững chắc là phần lớn nhờ vào sự
vững mạnh của chính quyền nhà nƣớc tƣơng ứng.
Sự tác động của chính trị đối với kinh tế không chỉ đƣợc thể hiện thông qua sự tác
động của nhà nƣớc mà cũng thể hiện ở vai trò của hệ tƣ tƣởng chính trị - một nhân tố
quan trọng của chính trị. Nhƣng hệ tƣ tƣởng chính trị tự nó chƣa có vai trị gì đối với
kinh tế. Vai trị tác động của hệ tƣ tƣởng chính trị đối với kinh tế đƣợc thực hiện thơng
qua thực tiễn chính trị của nhà nƣớc, của chính đảng của một giai cấp nhất định. Chỉ
thơng qua những hoạt động đó, hệ tƣ tƣởng chính trị mới có tác dụng to lớn trong việc
bảo vệ hoặc xóa bỏ chế độ kinh tế hiện đang tồn tại.
Cũng nhƣ sự tác động của nhà nƣớc, hệ tƣ tƣởng chính trị của một giai cấp tác động
đến kinh tế theo hai chiều. Nếu hệ tƣ tƣởng chính trị phản ánh một cách khoa học và đƣợc
cụ thể hóa trong các cƣơng lĩnh, đƣờng lối của các chính đảng, trong pháp luật và các
chính sách của nhà nƣớc của giai cấp nắm chính quyền thì sẽ có tác dụng bảo vệ và thúc
đẩy kinh tế phát triển nhanh chóng. Ngƣợc lại, sẽ cản trở sự phát triển của kinh tế.
Nhƣ vậy, thông qua sự tác động của hệ tƣ tƣởng chính trị của một giai cấp nhất
định trong xã hội, thông qua hoạt động của nhà nƣớc, chính đảng của giai cấp đó, chính

trị có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế, ở một mức độ nhất định, chính
trị có thể làm thay đổi cơ sở kinh tế. Vai trò của chính trị đối với kinh tế có thể tác
động theo hai chiều hƣớng tích cực hoặc tiêu cực. Chính trị sẽ có tác động tích cực, nếu
517

|


Phần IV. Nghiên cứu, dạy học và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng - Chủ nghĩa Mác - Lênin…

nó tác động cùng chiều với các quy luật phát triển kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trái lại, sự tác động ngƣợc chiều của chính trị đối với các quy luật kinh tế sẽ dẫn đến
sự xung đột giữa kinh tế và chính trị, lúc đó chính trị là chƣớng ngại vật cản trở sự phát
triển của kinh tế.
Quá trình giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ ở
nƣớc Nga, V.I. Lênin đã có nhiều đóng góp quan trọng vào lý luận về mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị.
Theo V.I. Lênin, khi giai cấp vô sản chƣa giành đƣợc chính quyền, chƣa nắm đƣợc
quyền lực nhà nƣớc thì giai cấp vơ sản chƣa có quyền lực kinh tế. Giai cấp vơ sản chỉ
có đƣợc quyền lực ấy khi hồn thành nhiệm vụ chính trị là lật đổ chính quyền của giai
cấp tƣ sản và thiết lập nền chính quyền của giai cấp vơ sản.
Trong tác phẩm Làm gì, Lênin viết: "Từ chỗ quyền lợi kinh tế đóng một vai trị
quyết định, tuyệt nhiên khơng thể kết luận đƣợc rằng cuộc đấu tranh kinh tế (có tính
chất nghiệp đồn) lại có một tầm quan trọng bậc nhất, với những quyền lợi chủ yếu,
"quyết định" của cuộc giai cấp nói chung, chỉ có thể thỏa mãn đƣợc bằng những cuộc
cải biến chính trị căn bản; cịn quyền lợi kinh tế trọng yếu của giai cấp vơ sản nói riêng,
chỉ có thể thỏa mãn đƣợc bằng cuộc cách mạng chính trị thay thế chuyên chính của giai
cấp tƣ sản bằng chuyên chính vơ sản" [6; tr.59]. Theo V.I. Lênin, trong bất cứ cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa nào, giai cấp vơ sản đã làm xong nhiệm vụ giành chính
quyền thì tất nhiên có một nhiệm vụ căn bản khác đƣợc đề lên hàng đầu, đó là thiết lập

một chế độ xã hội mới cao hơn chủ nghĩa tƣ bản. Để thực hiện nhiệm vụ đó, giai cấp vơ
sản phải đề ra đƣợc cách tổ chức lao động cao hơn, tức là nhiệm vụ kinh tế [7; tr.228].
Do đó, sau khi giai cấp vơ sản giành đƣợc chính quyền nhà nƣớc, mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị biểu hiện ở chỗ, giai cấp vô sản đã thiết lập đƣợc bộ máy nhà nƣớc
của mình, có quyền sử dụng bộ máy nhà nƣớc đó để giải quyết những nhiệm vụ tiếp
theo trong lĩnh vực kinh tế, tổ chức lại và phát triển kinh tế quốc dân, quản lý sản xuất.
Vì thế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chính trị giữ địa vị phụ
thuộc so với nhiệm vơ kinh tế. Khẳng định điều đó, V.I. Lênin viết: "nhiệm vụ quản lý
nhà nƣớc trƣớc hết và trên hết đƣợc quy lại thành nhiệm vụ thuần túy kinh tế, hàn gắn
những vết thƣơng do chiến tranh gây ra trên đất nƣớc, khôi phục lại các lực lƣợng sản
xuất, tổ chức cơng tác kiểm sốt đối với việc sản xuất và phân phối sản phẩm, nâng cao
năng suất lao động. Nói tóm lại, nhiệm vụ đã đƣợc quy thành nhiệm vụ tổ chức lại nền
kinh tế" [7; tr. 63].
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị
cịn biểu hiện ở chỗ, nhu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế quyết định phƣơng

|518


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

hƣớng hoạt động của đảng, của nhà nƣớc của giai cấp vô sản, quyết định tính chất và
khả năng ảnh hƣởng của nhà nƣớc đối với sự phát triển kinh tế. Nghĩa là, chính trị là sự
phản ánh tập trung của kinh tế. Sự phản ánh đã biểu hiện thơng qua việc hình thành các
tổ chức chính trị, những chính sách, từ đó giải quyết những vấn đề, quyết định mục tiêu
và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Theo quan điểm của V.I. Lênin, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế
và chính trị là hai lĩnh vực của đời sống xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau,
trong đã kinh tế, xét đến cùng, là nhân tố quyết định sự hình thành phát triển của chính
trị, song chính trị, có vai trị hết sức to lớn, nó tác động trở lại đối với sự phát triển của

kinh tế. Điều này thể hiện trƣớc hết là ở chỗ; mọi hoạt động kinh tế, mọi sự phát triển
của nền kinh tế không chỉ gắn liền với việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các
giai cấp, các dân tộc, mà còn là điều kiện đảm bảo cho hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa vững mạnh, đảm bảo cho chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đƣợc thực hiện trong
thực tế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó cũng chính là cơ sở vững chắc
cho sự thắng lợi của chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa đối với chế độ xã hội
cũ. Tất cả những điều đó có ý nghĩa chính trị to lớn. Ngƣợc lại, chính sách kinh tế của
Đảng cộng sản, sự quản lý của nhà nƣớc,... đối với kinh tế đều tạo ra động lực thúc đẩy
cho kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì
thế, V.I. Lênin quan niệm rằng, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế và chính
trị khơng thể khơng chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Đó là hai kết luận cơ bản của
Lênin về biểu hiện của sự tác động biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhƣ vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, kinh tế vẫn ln đóng vai trị quyết định đối với chính trị và các quan hệ xã hội
khác. Song, chính trị có vị trí và vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế. Nhƣng chính trị phải phản ánh trên cơ sở tính tất yếu kinh tế mới có tác dụng tích
cực đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội.
2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ đổi mới.
2.2.1. Kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị
Thời kỳ trƣớc đổi mới, trong mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị, ở nƣớc ta có hạn chế: chúng ta đã nhấn mạnh quá mức vai trò kiến trúc thƣợng tầng,
519

|


Phần IV. Nghiên cứu, dạy học và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng - Chủ nghĩa Mác - Lênin…


coi chính trị là thống sối, quyết định kinh tế và tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội;
chƣa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong quan hệ với chính trị; nhận thức một cách
đơn giản về tác động của kiến trúc thƣợng tầng chính trị đối với cơ sở kinh tế. Chính trị
can thiệp quá sâu vào các quá trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những mệnh lệnh chủ
quan của các cơ quan quản lý các cấp; bộ máy hành chính cịn quan liêu, cửa quyền,
cồng kềnh, kém hiệu quả. Đại hội VI của Đảng (1986) xác định: “Đảng phải đổi mới về
nhiều mặt: đổi mới tƣ duy, trƣớc hết là tƣ duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ
cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác” [17; tr.124]. Từ khi đổi mới đến nay,
về quan điểm Đảng ta chủ trƣơng “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bƣớc đổi mới chính trị”
[10; tr.71]. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn.
Để giữ vững ổn định chính trị, tƣ tƣởng trong Đảng, trong nhân dân, Nghị quyết
số 06-NQ/HNTW ngày 29/3/1989 của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng (khóa VI)
quyết định các nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo tồn bộ q trình đổi mới theo đúng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa: “Đổi mới tƣ duy là nhằm khắc phục những quan niệm không
đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng
sáng tạo vào phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin” [18].
Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Nghị quyết số 06NQ/HNTW ngày 29/3/1989 của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng (khóa VI) đã chỉ rõ:
“Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bƣớc đổi mới tổ chức
và phƣơng thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Khơng thể tiến hành cải cách hệ
thống chính trị một cách vội vã khi chƣa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ khơng có giới
hạn, khơng có mục tiêu cụ thể và khơng đi đơi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định
về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới” [11]. Một bƣớc đi cực kỳ đứng đắn và
thể hiện đƣợc bản lĩnh chính trị của Đảng ta biểu hiện bằng nghị quyết Hội nghị lần thứ 7
Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (Khóa VI), ngày 15/8/1989 bàn
về một số vấn đề cấp bách trong công tác tƣ tƣởng trƣớc tình hình trong nƣớc và quốc
tế hiện nay: “Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động
dƣới sự lãnh đạo của Đảng... Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa ngun chính trị,
khơng để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, khơng coi

việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trƣơng đa nguyên
về kinh tế” [12; tr.17].

|520


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

Chủ trƣơng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị
đƣợc tiếp tục nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII
(tháng 6/1991): “Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp
bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở
vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành
thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời, với đổi mới kinh tế, phải từng
bƣớc đổi mới tổ chức và phƣơng thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày
càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hố, xã hội” [13; tr.54]. Kinh nghiệm thành công của sự kết hợp đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị đƣợc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
(tháng 6-1996) khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bƣớc đổi mới chính trị”
[14; tr.14].
Đó là những quan điểm đúng đắn của Đảng ta phù hợp với nhu cầu và nguyện
vọng của nhân dân lao động, những quan điểm này tiếp tục đƣợc khẳng định trong các
kỳ Đại hội IX (4/2001), Đại hội X (4/2006) với mục tiêu: “đổi mới tồn diện, đồng bộ,
có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tƣ
duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nƣớc đến
hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị” [15; tr.70]. Đại hội XI của
Đảng (1/2011) đã đƣa ra quan điểm về đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị: “Đổi mới
chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn

thiện thể chế kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phƣơng thức lãnh đạo của
Đảng, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng
và trong xã hội gắn với tăng cƣờng kỷ luật, kỷ cƣơng…” [16; tr.99-100]. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (1/2016), xác định: Đổi mới mạnh mẽ, toàn diện
và đồng bộ, có bƣớc đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị;
Tăng cƣờng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn
dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới;
phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nƣớc, nhân dân và chế độ xã hội chủ
521

|


Phần IV. Nghiên cứu, dạy học và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng - Chủ nghĩa Mác - Lênin…

nghĩa. Giữ gìn hịa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển
đất nƣớc. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Nhƣ vậy, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết hợp đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bƣớc
đổi mới chính trị.
2.2.2. Phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt
Đại hội VI của Đảng, với đƣờng lối đổi mới toàn diện, Đảng coi phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Các đại hội sau, từ Đại
hội VII cho đến nay - Đại hội XII, vẫn kiên trì coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung
tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đảng Cộng sản Việt Nam đã có

nhiều chủ trƣơng, đƣờng lối kinh tế để tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế, nổi bật là:
Chủ trƣơng, đƣờng lối chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp, hành
chính sang cơ chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa; cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nƣớc; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,… xây dựng nƣớc Việt Nam
dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa. Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) chỉ rõ 4 nguy cơ: Tụt hậu xa hơn về
kinh tế; chệch hƣớng xã hội chủ nghĩa; diễn biến hịa bình; tệ quan liêu, tham nhũng.
Trong 4 nguy cơ đó, 3 nguy cơ sau có liên quan trực tiếp đến xây dựng, chỉnh đốn
Đảng. Đặc biệt nhất, các Nghị quyết Đại hội XI (2011) và XII (2016) của Đảng, đƣợc
cụ thể hóa bằng hai Nghị quyết Trung ƣơng 4 (khóa XI) và Trung ƣơng 4 (khóa XII),
đã nêu lên tình trạng suy thối về tƣ tƣởng chính trị, đạo đức lối sống, cùng với những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chƣa ngăn chặn, đẩy lùi đƣợc, là một nguy
cơ lớn làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nƣớc, đe dọa sự tồn vong
của Đảng và chế độ. Đảng ta luôn nhất quán khẳng định: Xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt, có ý nghĩa sống cịn trong tồn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đảng
phải thƣờng xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
về chính trị, tƣ tƣởng, tổ chức. Khơng ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu là quy luật tồn tại, phát triển của Đảng.
Nhƣ vậy, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ
trƣơng phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt.

|522


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

2.2.3. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, Đảng ta khẳng định: Phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của nhà nƣớc

theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hộị chủ nghĩa ở
nƣớc ta là tất yếu, khách quan vì: Nó phù hợp với tính quy luật phát triển khách quan;
do tính ƣu việt của kinh tế thị trƣờng trong thúc đẩy phát triển mơ hình kinh tế thị
trƣờng; phù hợp với nguyện vọng của nhân dân mong muốn dân giàu, nƣớc mạnh, dân
chủ, cơng bằng, văn rninh. Vì vậy, trong q trình đổi mới đất nƣớc, Đảng ta chủ
trƣơng phát triển kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Khi bắt đầu đổi mới (1986) Đảng ta quan niệm kinh, tế hàng hóa có những mặt
tích cực cần vận dụng cho xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận Đảng ta đã
nhận thức rõ hơn, kinh tế hàng hỏa, kinh tế thị trƣờng là phƣơng thức, điều kiện tẩt yếu
để xây dựng chủ nghĩa xã hội; từ áp dụng cơ chế thị trƣờng đến phát triển kinh tế thị
trƣờng; đƣa ra quan niệm và từng bƣớc cụ thể hóa mơ hình và thể chế kinh tế thị trƣờng
định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Tổng kết thực tiễn đổi mới kinh tể, Đại hội IX khẳng định “Kinh tế thị trƣờng
định hƣớng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nƣớc ta”.
Đại hội XI khẳng định: “Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở
nƣớc ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ' chế thị trƣờng, có
sự quản lý của nhà nƣớc, dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”.
Đại hội XII của Đảng, có sự phát triển mới bằng việc đƣa ra quan niệm: “Nền
kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy
đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trƣờng, đồng thời bảo đảm định hƣớng xã
hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn nhất triển của đất nƣớc. Đó là nền kinh tế thị
trƣờng hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nƣớc mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Để kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam phát triển, Đảng và nhà nƣớc ta đã có nhiều chủ
trƣơng, giải pháp: Từng bƣớc hồn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa; xóa bỏ cơ chế quan liêu, bao cấp, chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa,
nhiều thành phần; phát triển đồng bộ các yếu tố thị trƣờng; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,

523

|


Phần IV. Nghiên cứu, dạy học và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng - Chủ nghĩa Mác - Lênin…

hiện đại hóa đất nƣớc, chủ động hội nhập quốc tế… Để đảm bảo định hƣớng xã hộị chủ
nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam, Đảng và nhà nƣớc ta đã
xác định: Mục tiêu phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hộị chủ nghĩa là để phát
triển lực lƣợng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện “dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh”. Nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tƣ nhân là một động lực quan trọng, kinh
tế nhà nƣớc, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tƣ nhân là nòng cốt để phát triển một nền
kinh tế độc lập tự chủ. Thực hiện phân phối công bằng các yếu tổ sản xuất, tiếp cận và
sử dụng các cơ hội và điều kiện phát triển của mọi chủ thể kinh tể (phân phối đầu vào)
để tiến tới xây dựng xã hội mọi ngƣời đều giàu có, đồng thời phân phối kết quả làm ra
(đầu ra) chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng
các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Thực hiện
gắn tăng trƣởng kinh tế với công bằng xã hội; phát triển kinh tế đi đơi với phát triển
văn hóa - xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách,
chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát triển của kinh tế thị trƣờng.
Nhƣ vậy, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ
trƣơng phát triển kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa - coi đó là mơ
hình kinh tế tổng qt của nƣớc ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
III. KẾT LUẬN
Bài viết khái quát những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị. Trên cơ sở đó làm rõ sự vận dụng những quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thực tiễn cách mạng
Việt Nam của Đảng ta, thể hiện trên các phƣơng diện chủ yếu sau: Kết hợp đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bƣớc
đổi mới chính trị; phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt; phát triển
kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Nhờ những sự vận dụng trên đây,
công cuộc đổi mới đất nƣớc nói chung, đổi mới kinh tế, chính trị, mối quan hệ đổi mới
kinh tế và chính trị của nƣớc ta thu đƣợc thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, mang tầm
vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, tồn diện, triệt để, là sự nghiệp
cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và tồn qn vì mục tiêu "dân giàu, nƣớc
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh".

|524


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 29, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Tồn tập, tập 30, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 31, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 32, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. C. Mác và Ph. Ăngghen (1997), Tồn tập, tập 33, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
7. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương, khóa VI.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành
Trung ương, khóa VI.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
18. />525

|



×