Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Phát triển kinh doanh hướng vào các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn hà nội của ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương việt nam techcombank (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.14 KB, 10 trang )

TÓM TẮT LUẬN VĂN
Ý tưởng đề tài luận văn thạc sỹ “Phát triển kinh doanh hướng vào các doanh
nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội của Ngân hàng thưong mại cổ phần kỹ thương
Việt Nam – Techcombank” được hình thành trên cơ sở thực tế về sự tăng trưởng mạnh
mẽ của thị trường du lịch trong những năm vừa qua, là một trong những phân khúc thị
trường mà Ngân hàng Techcombank hướng tới trong giai đoạn 2011-2015. Luận văn đã
đề cập tới một vấn đề khá được quan tâm, đó là sự phát triển của các doanh nghiệp du
lịch ngoài sự hỗ trợ từ các cơ quan thuộc các Bộ ban ngành liên quan tới du lịch còn cần
sự hỗ trợ về mặt nguồn vốn cũng như các dịch vụ khác từ phía các ngân hàng, đồng thời
ngược lại từ phía ngân hàng cũng đánh giá du lịch là một thị trường hấp dẫn nên cần có
những chính sách định hướng hợp lý khi kinh doanh trong mảng thị trường này. Đề tài
tập trung vào việc phân tích thực tế phát triển của ngành du lịch Hà Nội trong các năm
qua, thực trạng hiệu quả kinh doanh từ đối tượng khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực
du lịch tại Techcombank, qua đó đề xuất các giải pháp để góp phần phát triển kinh doanh
hướng tới đối tượng là các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội của Ngân hàng.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào 2 đối tượng chính trong
ngành du lịch: doanh nghiệp kinh doanh lữ hành và doanh nghiệp kinh doanh khách sạn.
Hà Nội – trung tâm của cả nước – với nhiều lợi thế về mặt vị trí giao thông, cảnh
quan thiên nhiên, nhân lực… là những điều kiện hết sức thuận lợi để trong các năm qua
du lịch phát triển mạnh mẽ. Từ năm 2000, tổng lượt khách du lịch tại Hà Nội trong vòng
10 năm 2000 – 2010 đã tăng trừ 2.6 triệu lên tới 12,3 triệu lượt khách. Mỗi năm ngành du
lịch của Hà Nội đóng góp khoảng 4-5% vào GDP của Hà Nội. Hiện nay, Hà Nội có trên
800 khách sạn, trong đó 229 khách sạn đủ tiêu chuẩn xếp sao với gần 10.000 phịng đạt
tiêu chuẩn quốc tế, trong đó có 11 khách sạn 5 sao, 10 khách sạn 4 sao, 26 khách sạn 3
sao, 107 khách sạn 2 sao và 75 khách sạn 1 sao, cơng suất sử dụng phịng trung bình tính
theo năm ln ở mức 60%. Số lượng các doanh nghiệp lữ hành cũng tăng mạnh, từ 200
doanh nghiệp năm 2005 lên tới hơn 400 doanh nghiệp năm 2010. Ngành Du lịch Hà Nội
đã chủ động xây dựng qui hoạch, kế hoạch và phương hướng phấn đấu đến năm 2010 -


2020 sẽ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Thủ đơ. Những kết quả tăng trưởng đó


thực sự hấp dẫn các ngân hàng trong giai đoạn hiện nay.
Khi định hướng phát triển kinh doanh hướng vào một thị trường cụ thể, bên cạnh
việc đánh giá sự hấp dẫn, cơ hội của thị trường đó, ngân hàng cịn phải nghiên cứu đánh
giá các rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong ngành, để
xem xét ngân hàng có thể chấp nhận rủi ro đó ở mức nào khi tài trợ cho các doanh
nghiệp trong ngành. Rủi ro của doanh nghiệp kinh doanh khách sạn và kinh doanh lữ
hành khác nhau, nhưng cùng được phân tích theo góc độ rủi ro của các yếu tố đầu vào,
rủi ro trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và rủi ro của các yếu tố đầu ra.
Rủi ro đầu vào chủ yếu đến từ các nhà cung cấp dịch vụ đầu vào cho các doanh
nghiệp. Đối với doanh nghiệp khách sạn, các rủi ro yếu tố đầu vào phụ thuộc từ các nhà
cung ứng cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn, các nhà cung ứng nguyên vật liệu thực
phẩm, hàng hóa vật tư khu vực buồng… hàng ngày. Sự lựa chọn các đối tác cung ứng
cũng như quy định phương thức thanh toán đối với nhà cung ứng phụ thuộc vào quy mô,
thứ hạng khách sạn. Đối với doanh nghiệp lữ hành thì các nhà cung cấp dịch vụ đa đạng
hơn, bao gồm các nhà cung cấp dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ tham quan
giải trí, dịch vụ hành chính, dịch vụ mang tính chất chung cho các hoạt động kinh tế xã
hội… Phương thức thanh toán cho nhà cung cấp, mức độ rủi ro từ các nhà cung cấp này
nhiều hay ít là phụ thuộc vào mối quan hệ của doanh nghiệp lữ hành với nhà cung cấp,
vào khả năng gây sức ép của nhà cung cấp đối với doanh nghiệp lữ hành. Do đó mà khi
tài trợ cho doanh nghiệp lữ hành thanh tốn chi phí cho các nhà cung cấp cần quan tâm
tới mối quan hệ này để có phương thức tài trợ phù hợp.
Rủi ro trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp khách sạn hay doanh nghiệp lữ
hành chủ yếu đều nằm ở yếu tố nhân lực. Đối với doanh nghiệp khách sạn thì thái độ,
cách ứng xử khả năng giao tiếp, hình thức bên ngồi của nhân viên, trình độ tay nghề,
trình độ học vấn, tình trạng tâm lý, trình trạng sức khỏe, độ tuổi, giới tính …của nhân
viên phục vụ đóng vai trị đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ và chính nó ảnh
hưởng trực tiếp đến hình ảnh của một khách sạn và quyết định đến chất lượng dịch vụ được


cảm nhận của khách sạn. Đối với doanh nghiệp lữ hành thì chất lượng các sản phẩm, dịch

vụ của bản thân doanh nghiệp lữ hành bao gồm: thiết kế chương trình, hướng dẫn, dịch vụ
bán và đăng ký đặt chỗ… đều do yếu tố con người quyết định, đó chính là những người
thiết kế xây dựng chương trình du lịch, là những người hướng dẫn viên, đó là những người
làm nên linh hồn của chương trình du lịch, quyết định tới chất lượng sản phẩm dịch vụ của
công ty lữ hành. Rủi ro này có thể được hạn chế bằng cách đưa ra tiêu chí số năm kinh
nghiệm của doanh nghiệp, quy mô cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, kinh nghiệm đội ngũ
nhân lực …
Rủi ro yếu tố đầu ra chủ yếu ở doanh nghiệp có bán được hàng hay khơng, có nhận
được tiền thanh tốn hay khơng. Đối với doanh nghiệp khách sạn thì kênh bán hàng khá
phong phú: từ đặt phòng trực tiếp, đặt qua hệ thống phân phối toàn cầu, qua hệ thống đại
lý doanh nghiệp lữ hành. Với các đại lý/doanh nghiệp lữ hành, các khách sạn thường
chấp nhận cho thanh toán chậm khoảng 15-45 ngày tính từ ngày nhận phịng hoặc sau khi
phát hành hóa đơn, tùy thuộc vào mối quan hệ giữa khách sạn và cơng ty lữ hành, hình
thức thanh tốn thường là chuyển khoản (đối với các khách sạn và công ty lữ hành quy
mô lớn), hoặc tiền mặt (đối với quy mô nhỏ). Hầu hết khách sạn hạng ba sao trở lên ở Hà
Nội đều phát triển kênh bán phòng trực tuyến, hình thức thanh tốn phổ biến hơn cả vẫn
là thơng qua thẻ ghi nợ quốc tế. Hình thức thanh tốn qua hệ thống phân phối tồn cầu rât
tiện lợi bằng hầu hết các loại thẻ tín dụng như: Visa, Master. Do đó mà các rủi ro khơng
bán được hàng cũng như khơng nhận được tiền thanh tốn hầu như đã được hạn chế rất
nhiều, dễ xảy ra với các doanh nghiệp quy mô nhỏ. Đối với các doanh nghiệp lữ hành thì
kênh phân phối chủ yếu qua các công ty lữ hành, chi nhánh, đại lý rất rộng rãi, mặc dù
phương thức thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản sau khoảng 15-45 ngày sau khi
tổ chức thực hiện chương trình, nhưng khả năng khơng nhận được tiền thanh toán bị phân
tán do một doanh nghiệp lữ hành có quan hệ với rất nhiều đối tác là doanh nghiệp/đại lý
lữ hành hơn nữa thường phải là các đối tác có quan hệ lâu năm uy tín.
Trong q trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch cũng như bất
kỳ một doanh nghiệp trong lĩnh vực nào đó thì nhu cầu về vốn là nhu cầu thường xuyên


phát sinh. Nhu cầu vốn của các doanh nghiệp du lịch tập trung chủ yếu vào nhu cầu đầu

tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hoặc các chi phí thanh tốn cho nhà cung cấp. Vốn tài trợ
có thể đến từ nhiều nguồn, nhưng trong đó thì nguồn vốn tín dụng từ các NHTM vẫn
chiếm một tỷ trọng đáng kể. Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ sở kéo theo việc sử dụng
các dịch vụ khác của ngân hàng: chuyển tiền, thanh toán …
Thực tế tài trợ cho các doanh nghiệp du lịch tại NHTM cổ phần Kỹ thương Việt
Nam trong 3 năm gần đây có những kết quả đáng kể. Trước hết phải kể đến số lượng
khách hàng kinh doanh trong ngành du lịch tại Techcombank, 2151 khách hàng (năm
2010), chiếm 4.7% số lượng khách hàng doanh nghiệp trên hệ thống, trong đó địa bàn Hà
Nội chiếm tới 55% về lượng khách hàng. Dư nợ ngành du lịch tại Techcombank đóng
góp 2.4% vào danh mục cho vay doanh nghiệp của Techcombank. Tính bình qn giai
đoan 2008-2010, tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay bình quân đối với ngành du lịch của
Techcombank là 54%. Đây là một trong những nguồn vốn quan trọng góp phần khơng
nhỏ thúc đẩy ngành du lịch phát triển. Chất lượng nợ của ngành du lịch tại Techcombank
chỉ có 0.45%, đặc biệt tại địa bàn Hà Nội thì chỉ có 0.16%. Năm 2010 thu nhập từ các
khách hàng ngành du lịch đóng góp 2.66% thu nhập của Khối khách hàng doanh nghiệp.
Riêng các khách hàng tại địa bàn Hà Nội đã đóng góp tới trên 50% thu nhập từ ngành du
lịch của Techcombank. Hiệu quả kinh doanh tại khu vực Hà Nội cũng cao hơn hẳn so với
mặt bằng chung của ngành.
Những con số trên thật sự là một đòn bẩy để tạo đà cho Techcombank đẩy mạnh
việc kinh doanh tại thị trường này hơn nữa. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn các hạn chế trong
việc cung cấp dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp du lịch, chủ yếu là các mặt như
sau:
Quy mơ khách hàng ngành du lịch thực sự có quan hệ tín dụng tại Techcombank,
đặc biệt trên địa bàn Hà Nội còn nhỏ bé so với tiềm năng thị trường, mới chỉ chiếm
khoảng 10% số lượng doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội. Đánh giá của khách
hàng về dịch vụ có một số điểm chưa hài lịng: sự dè dặt của ngân hàng khi cấp tín dụng
cho các doanh nghiệp du lịch. Cơ chế đảm bảo tiền vay cịn nhiều phức tạp và khơng sát


với thực tế, điển hình là việc tính tốn giá trị tài sản đảm bảo chưa sát với giá trị thực của

nó trên thị trường, tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo còn thấp, hồ sơ vay vốn nhiều giấy
tờ. Tín dụng ngân hàng đầu tư cho du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư của ngành
du lịch. Cơ cấu tín dụng chưa thực sự hợp lý, nguồn tài trợ trung, dài hạn chủ yếu mới
chỉ tài trợ mua sắm phương tiện vận tải. Chất lượng dịch vụ khơng được đồng đều trên
tồn hệ thống.
Những hạn chế trên đến từ các yếu tố bên trong và bên ngoài ngân hàng.
Yếu tố nguồn lực bên trong là Định hướng của ban lãnh đạo ngân hàng chưa chú
trọng tới các ngành dịch vụ, chưa có những chính sách riêng biệt hay chiến lược
đầu tư vào ngành dịch vụ du lịch. Ngoài ra việc cải cách các thủ tục trên tồn hệ
thống cần có lộ trình và thời gian, chất lượng nhân lực và ứng dụng kỹ thuật công
nghệ cũng chưa thật sự đồng đều. Ngân hàng cũng gặp phải nhiều ràng buộc về
mặt pháp lý đến từ phía Ngân hàng nhà nước như các quy định về bảo đảm tiền
vay chưa thực sự hợp lý; và sức ép cạnh tranh đến từ các ngân hàng cổ phần khác.
Đánh giá một cách tổng thể thì trong việc kinh doanh với đối tượng khách hàng là
các doanh nghiệp kinh doanh du lịch thì Techcombank có những điểm mạnh nổi trội: Thứ
nhất, lợi thế về mặt thương hiệu là một trong những NHTM cổ phần tốp đầu, đặc biệt tại
miền Bắc. Thứ hai, Khối Dịch vụ Ngân hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ đã xây dựng được
một cơ cấu hoàn chỉnh nhằm thực hiện chức năng tổ chức nghiên cứu và phát triển các
sản phẩm đặc thù cho các đối tượng khách hàng SME trong từng ngành cụ thể, là cơ sở
tốt cho việc triển khai nghiên cứu sản phẩm đặc thù cho ngành du lịch trước mắt tại địa
bàn Hà Nội. Thứ ba, lợi thế địa bàn Hà Nội sẽ được triển khai thử nghiệm quy trình tín
dụng cải tiến - quy trình nhanh, gọn mà vẫn đảm bảo cân bằng được giữa lợi nhuận và rủi
ro. Thứ tư, đã xây dựng được bộ tiêu chuẩn SLA (cam kết về chất lượng dịch vụ), trong
đó quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận và thời gian tối đa mà các bộ
phận cam kết xử lý với chất lượng công việc như thế nào, cơ chế phạt nếu vi phạm thời
gian cam kết. Thứ năm, với việc sử dụng hệ thống ngân hàng lõi (Core Banking) hiện đại
với duy nhất một chuẩn mực kế toán đảm bảo cho khách hàng thực hiện các giao dịch tức


thời, nhanh chóng, chính xác. Thứ sáu, đội ngũ nhân lực trẻ trung, năng động, sáng tạo là

điều kiện thuận lợi cho định hướng phát triển bền vững của Techcombank.
Tuy nhiên cũng cịn khơng ít những điểm yếu: quy mơ khách hàng du lịch cịn nhỏ
bé, chưa có định hướng đầu tư phát triển vào nhóm khách hàng trong ngành du lịch với
các chính sách cụ thể, chính sách quản trị rủi ro thận trọng dẫn tới quy trình cấp tín dụng
lâu, chất lượng nhân lực chưa đồng đều dẫn tới chưa có sự chuẩn hóa về chất lượng dịch
vụ.
Cơ hội cho Techcombank trong việc phát triển vào ngành du lịch khơng phải là
nhỏ. Với những thuận lợi sẵn có về tài nguyên du lịch cùng với định hướng của Đảng và
Nhà nước khẳng định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, hệ thống luật pháp ngày càng ổn
định tạo mơi trường thơng thống cho các doanh nghiệp du lịch, sự kiện Việt Nam gia
nhập WTO - cơ hội để các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam mở rộng hợp tác, đầu tư, học
hỏi kỹ năng, kinh nghiệm quản lý cũng như tận dụng sự đầu tư của các doanh nghiệp lữ
hành nước ngoài vào Việt Nam… tạo đà cho ngành du lịch phát triển mạnh mẽ, đặc biệt
là du lịch Hà Nội thủ đô của cả nước, sẽ là một cơ hội vô cùng lớn để ngân hàng tiếp tục
khai thác và mở rộng quy mô khách hàng tiềm năng trong ngành du lịch. Khách hàng
trong ngành du lịch chủ yếu là các khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ là đối tượng
khách hàng phù hợp với năng lực và định hướng của một NHTM cổ phần như
Techcombank. Q trình hội nhập quốc tế góp phần đẩy mạnh nhu cầu sử dụng các sản
phẩm dịch vụ ngân hàng tiện ích hiện đại của các doanh nghiệp du lịch: thanh tốn quốc
tế, thẻ tín dụng quốc tế doanh nghiệp, … Hơn nữa, đến nay vẫn chưa có một ngân hàng
nào xây dựng chiến lược định hướng vào nhóm khách hàng ngành du lịch một cách bài
bản, nên Techcombank sẽ có lợi thế của người đi trước.

Tuy nhiên thách thức đối với Techcombank cũng khơng ít. Sự dễ dàng sao chép
bắt chước sản phẩm của Techcombank. Lợi nhuận cận biên đối với khách hàng ngày
càng giảm do cạnh tranh. Các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn đầu gia nhập WTO
gặp rất nhiều thách thức do sự yếu kém về kinh nghiệm quản lý, thiếu thốn về cơ sở hạ
tầng… dẫn tới công tác thẩm định của ngân hàng gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng tới chất



lượng dịch vụ của ngân hàng.
Trong các điều kiện như vậy, các giải pháp đề xuất nhằm phát triển kinh doanh
hướng vào thị trường các khách hàng kinh doanh du lịch tại Techcombank trong giai
đoạn 2012-2015 như sau:
Trước tiên là việc lựa chọn thị trường mục tiêu. Trong giai đoạn đầu để phục vụ
tốt và đặc biệt để thu hút khách hàng giao dịch tín dụng thì nên tập trung vào 2 đoạn thị
trường: Đoạn thị trường doanh nghiệp khách sạn tập trung vào các doanh nghiệp khách
sạn có quy mơ từ 3 sao trở lên và có kinh nghiệm kinh doanh khách sạn tối thiểu 3 năm;
và Đoạn thị trường doanh nghiệp lữ hành tập trung đối với các doanh nghiệp lữ hành có
doanh thu năm gần nhất tối thiểu 100 tỷ, thành lập tối thiểu 3 năm. Trong mỗi đoạn thị
trường, sẽ phân nhóm các khách hàng để đưa ra những chính sách ưu đãi khác nhau đối
với mỗi nhóm và phân cơng các đơn vị kinh doanh có đủ năng lực để tiếp cận và phục vụ.
Nhóm giải pháp thứ hai là xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh, bao gồm
chiến lược sản phẩm và chiến lược đầu tư. Chiến lược sản phẩm cần chú trọng tới 2 vấn
đề chính: xây dựng sản phẩm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng mục tiêu, bao
gồm từ các sản phẩm tín dụng, sản phẩm tiền gửi, sản phẩm thanh toán và các sản phẩm
bán chéo đối với từng nhóm khách hàng kinh doanh lữ hành và doanh nghiệp kinh doanh
khách sạn; và nâng cao chất lượng dịch vụ. Xuât phát từ sự khác nhau về rủi ro trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của 2 loại hình doanh nghiệp này mà thiết kế gói sản
phẩm cho 2 loại hình doanh nghiệp với các điều kiện khác nhau. Như đặc thù của doanh
nghiệp lữ hành, cần vốn lưu động bằng tiền mặt để thanh toán cho nhà cung cấp, vì vậy
sản phẩm tài trợ vốn lưu động cho doanh nghiệp lữ hành cần được thiết kế với những đặc
điêm nhằm đáp ứng nhanh gọn nhu cầu vốn của doanh nghiệp lữ hành: cung cấp hạn mức
thấu chi mà khơng cần chứng minh mục đích sử dụng vốn, cam kết thời gian thơng báo
tín dụng nhanh nếu khách hàng thế chấp bất động sản vị trí tốt, cho vay tín chấp đối với
một số doanh nghiệp lữ hành uy tín tốt với điều kiện duy trì dòng tiền về. Trong khi đối
với doanh nghiệp khách sạn thì nhu cầu vốn lưu động lại khơng phải đặc thù nên sản
phẩm cho vay vốn lưu động đối với doanh nghiệp khách sạn chỉ cần theo quy định bình
thường, mà nhu cầu vốn đầu tư trung dài hạn mới thực sự cần thiết và lớn hơn rất nhiều,
do đó sản phẩm tín dụng trung dài hạn cần phải đáp ứng trọn gói cho các giai đoạn của

dự án đầu tư. Đối với sản phẩm tiền gửi có thể áp dụng chung chính sách cho cả 2 loại


hinh doanh nghiệp này, áp dụng mức lãi suất lũy tiến đối với các mức số dư tăng dần trên
tài khoản tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp. Khi tiền gửi trên tài khoản thanh toán của
Doanh nghiệp vượt quá các mức số dư nhất định mà ngân hàng đã quy định, phần số dư
vượt quá sẽ được hưởng mức lãi suất tương ứng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
nhàn rỗi ngắn hạn của doanh nghiệp. Sản phẩm bán chéo, ngân hàng có thể Liên kết với
các doanh nghiệp lữ hành hoặc khách sạn về việc cho khách hàng đi du lịch vay thông
qua việc phát hành thẻ tín dụng, thơng qua nghiệp vụ thấu chi. Ưu đãi giảm phí thường
niên thẻ tín dụng đối với các khách hàng đi du lịch là khách hàng thường xuyên của
doanh nghiệp du lịch trong danh sách khách hàng VIP của Techcombank. Ý tưởng này sẽ
giúp ngân hàng mở rộng quy mô khách hàng thông qua sự hỗ trợ của các doanh nghiệp
du lịch, đồng thời thể hiện được những ưu đãi nhất định đối với các khách hàng doanh
nghiệp hiện tại. Ngồi ra có thể cho vay khách hàng gửi tiền dưới hình thức “Tích lũy du
lịch”: Trước đó hàng tháng, quý (hoặc tuỳ vào khả năng tiết kiệm của khách hàng) khách
hàng gửi một số tiền nhất định vào ngân hàng, đến một thời điểm nhất định nếu khách
hàng cịn thiếu tiền để thực hiện cho chuyến đi thì số tiền thiếu này sẽ được ngân hàng tài
trợ cho vay; Thực hiện việc lắp đặt hệ thống ATM, POS,… tại các khách sạn, nhà hàng
các điểm tham quan du có khối lượng du khách tham quan, mua sắm lớn.
Nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua việc đơn giản hóa các hồ sơ giấy tờ; rút
ngắn quy trình xét duyệt vay vốn bằng cách mạnh dạn phân cấp mức phán quyết cho từng
cấp cán bộ, xây dựng bộ cam kết chất lượng dịch vụ của các bộ phận một cách rõ ràng
minh bạch, đánh giá xếp hạng khách hàng trên mức độ phức tạp của hồ sơ; cơ chế, kỹ
thuật nghiệp vụ tín dụng cần linh hoạt, khoa học và hợp lý: không cứng nhắc quá về điều
kiện vay vốn, xây dựng phương pháp xác định mức cho vay hợp lý, ưu đãi về lãi suất cho
doanh nghiệp du lịch; định giá tài sản theo giá thị trường để khách hàng được vay với số
tiền hợp lý; cơ chế bảo đảm tiền vay linh hoạt hơn: áp dụng hình thức thế chấp quyền
khai thác tài sản, Kết hợp thực hiện cơ chế đảm bảo tiền vay giữa tài sản thế chấp, cầm cố
với tài sản hình thành từ vốn vay, Lựa chọn khách hàng cho vay khơng có tài sản đảm

bảo; Tăng cường cho vay trung dài hạn thực hiện dự án đầu tư. Ngoài ra cũng cần chú
trọng tới các công tác đào tạo nhân lực cũng như các chính sách đãi ngộ cho nhân viên.
Về chiến lược đầu tư, phân bổ các khách hàng theo quy mô khác nhau cho các chi
nhánh có quy mơ và năng lực phù hợp nhằm giúp cho ngân hàng sử dụng nguồn lực một


cách có hiệu quả nhất.
Nhóm giải pháp thứ ba, là kế hoạch và tổ chức thực hiện phát triển kinh doanh.
Trước tiên đưa ra các mục tiêu định tính và định lượng đối với khách hàng trong ngành
du lịch Hà Nội đến năm 2013. Sau đó lên kế hoạch triển khai theo các giai đoạn với
những nội dung cụ thể như thế nào, do bộ phận nào thực hiện…
Luận văn cũng đưa ra những kiến nghị đối với các cơ quan Chính phủ, Bộ ban
ngành liên quan. Trước tiên cần Cải thiện môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh
thông thống, hấp dẫn: Có chính sách hợp lý và ưu đãi về giá thuê đất, thời gian thuê đất
đối với các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư phát triển du lịch; Đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ
tầng kỹ thuật trên địa bàn thành phố Hà Nội; Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong
việc cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp, giấy phép đầu tư, thủ tục thanh kiểm tra đối
với hoạt động du lịch sao cho thật nhanh chóng, đảm bảo văn minh, lịch sự, song phải
thực sự cơng bằng, chống được tiêu cực…; Có chính sách miễn, giảm thuế đối với các
nhà đầu tư hoạt động kinh doanh du lịch và nên miễn thuế đối với các nhà đầu tư dùng lợi
nhuận để tái đầu tư cho vào các lĩnh vực du lịch ở trong địa bàn tỉnh. Thành lập quỹ cho
vay và hỗ trợ lãi suất đối với các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch: để ngành du lịch
Hà Nội có thể phát huy hết tiềm năng thế mạnh của mình, trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn của thành phố và là trung tâm du lịch của cả nước. Chỉnh sửa, bổ sung các văn bản
có liên quan đến đảm bảo tiền vay. Chỉnh sửa một số điều qui định tại Luật đất đai, Luật
dân sự và các văn bản dưới luật. Cải cách thủ tục hành chính, chính sách thuế, đất đai.
Đối với Bộ Văn hóa – Thể thao – Thơng tin và Du lịch, cần tiếp tục hồn thiện và
đổi mới công tác quản lý Nhà nước về du lịch, để quản lý chuyên sâu về lĩnh vực du
lịch trên địa bàn thành phố. Cổ phần hoá các doanh nghiệp kinh doanh du lịch hiện nay
đang trực thuộc Sở du lịch ra thành đơn vị cổ phần hoá và nhà nước không nắm cổ

phần chi phối. Sắp xếp cơ quan quản lý ngành du lịch theo hướng tinh gọn, chất lượng,
hiệu quả. Phối hợp tốt giữa các ngành, các cấp trong việc quản lý nhà nước về du lịch,
sao cho khách du lịch đến với Hà Nội cảm thấy được thoải mái, an tồn và ln mong
muốn được trở lại với Hà Nội sớm nhất. Kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm minh
các tổ chức, cá nhân cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực du lịch.
Đối với Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch, cần chú trọng đầu tư, nâng cấp các
điểm đến, xây dựng sản phẩm, nâng cấp các cơ sở lưu trú, đào tạo nâng cao trình độ nhân


lực, xúc tiến đầu tư và quảng bá du lịch bằng nhiều hình thức và huy động từ nhiều nguồn
vốn, tạo việc làm, tăng doanh thu xã hội từ lượng du khách trong nước và quốc tế. Hoàn
thiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch thành phố. Lập quy hoạch mạng lưới tuyến,
điểm du lịch; chỉ đạo, hướng dẫn các chủ đầu tư khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, vui
chơi, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành quy hoạch. Thúc đẩy triển khai các dự án khu du lịch,
các chương trình dự án phát triển làng nghề, làng cổ và các điểm du lịch sinh thái, nghỉ
cuối tuần; tiến hành hỗ trợ kinh phí bảo tồn các loại hình văn hoá dân gian của Hà Nội:
tuồng cổ, ca trù, chèo tại một số làng quê vùng nông thôn để phục vụ du lịch. Chỉ đạo các
doanh nghiệp lữ hành tiến tới thu hút khách du lịch bằng cách nâng cao chất lượng dịch
vụ, tăng cường công tác xúc tiến du lịch. Tăng cường các biện pháp để quảng bá du lịch
của đất nước Việt Nam và Thủ đô Hà Nội nhằm thu hút khách du lịch: Thành lập một số
văn phòng đại diện du lịch của thành phố tại các điểm du lịch chính, thường xuyên tổ
chức các lễ hội truyền thống, làng nghề, hội chợ triển lãm…Tăng cường cơng tác xã hội
hóa du lịch, phát huy mọi thành phần kinh tế tham gia vào phát triển du lịch.
Tuy đã có nhiều nỗ lực trong nghiên cứu thực hiện luận văn, song do tính mới mẻ
của đề tài khó tránh khỏi những hạn chế nhất định, tác giả rất mong muốn nhận được
sự đóng góp của những người quan tâm.




×