Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

SKKN: Một vài kinh nghiệm sử dụng đồ dùng thí nghiệm có hiệu quả trong giảng dạy Vật lý lớp 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.07 KB, 14 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT VÀI KINH NGHIỆM SỬ
DỤNG ĐỒ DÙNG THÍ NGHIỆM
CĨ HIỆU QUẢ TRONG GIẢNG
DẠY VẬT LÝ LỚP 7


A. ĐẶT VẤN ĐỀ

Như chúng ta biết thế giới đã bước sang thế kỷ 21 cùng với sự phát triển
sâu rộng của khoa học kĩ thuật và công nghệ. Trước bối cảnh thế giới đang
tiến gần đến một nền kinh tế trong phạm vi toàn cầu, sự phát triển bùng nổ
của công nghệ thông tin. Việt Nam cũng trên đà phát triển và xem giáo dục
là công cụ mạnh nhất để theo kịp với các nước phát triển trên thế giới.
Trong những năm gần đây, nghị quyết của Đại hội Đảng và nhiều văn
kiện khác của nhà nước, của Bộ Giáo dục- Đào tạo đều nhấn manh việc đổi
mới phương pháp là một nhiệm vụ quan trọng của tất cả các cấp học và bậc
học ở nước ta, nhằm đào tạo những con người tích cực, tự giác, năng động
sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề, vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 của ban chấp hành trung ương khóa VIII về
những giải pháp chủ yếu trong giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: “ Đổi mới
mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp
dụng những phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình
dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh ,
....”.
Năm học 2009 – 2010 là năm thứ tám thực hiện chủ trương của ngành
Giáo dục Đào tạo là: Phải thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy từ
phương pháp dạy học "cũ – thụ động ” thầy đọc – trị chép” sang phương
pháp giảng dạy tích cực – chủ động, sáng tạo theo hướng “Phát huy trí lực


của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm”. Cũng như các thầy cô giáo khác
trong 7 năm học qua nhóm giáo viên dạy Vật lý trường THCS Tuân Đao
chúng tơi tơi cũng đã trăn trở, tìm tịi, từng bước thực hiện việc đổi mới
phương pháp giảng dạy theo yêu cầu của ngành giáo dục đề ra bởi chúng ta
đều bết phương pháp giảng dạy là một trong những yếu tố cơ bản và quan
trọng nhằm truyền đạt kiến thức tới học sinh đạt hiệu quả tốt nhất. Phương


pháp giảng dạy phù hợp, khoa học sẽ là con đường giúp học sinh tiếp thu
kiến thức một cách hiệu quả, phát huy trí lực của người học. Mỗi cấp học,
mỗi bộ mơn đều phải có một phương pháp giảng dạy phù hợp và phải khơng
ngừng đổi mới, hồn thiện và đây cũng chính là một trong những yếu tố,
động lực nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho
học sinh hiện nay.
Trước yêu cầu cấp bách đó, giáo viên bậc trung học cơ sở nói riêng và
đội ngũ nhà giáo viên nói chung, ln học hỏi tìm ra các biện pháp giảng
dạy tốt nhất giúp học sinh tham gia một cách tích cực chủ động vào học tập
phát huy tính năng động, sáng tạo của học sinh. Từ đó học sinh thấy thích
được học mơn học nói chung cũng như bộ mơn Vật lý nói riêng và ham
muốn khám phá tri thức nhân loại.
Từ những suy nghĩ trên, tôi đã nghiên cứu trao đổi với các nhóm bộ mơn
cũng như với giáo viên dạy bộ mơn Vật lý về vấn đề khai thác các thí
nghiệm trong các giờ học vật lý, nhất là thí nghiệm vật lý 7. Đây là khối lớp
mà bước đầu các em đã được làm quen với phương pháp đổi mới trong dạy
học, đó là điều kiện rất thuận lợi để có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả trong
việc tiếp thu kiến thức của học sinh. Trong chuyên đề này tôi muốn đề cập
đến một vài kinh nghiệm sử dụng thí nghiệm như thế nào trong giảng dạy
Vật lý để giờ học có hiệu quả hơn?

B - NỘI DUNG

I . Cơ sở lý luận
Quy luật của quá trình dạy học là từ trực quan sinh động đến tư duy
trìu tượng, song q trình nhận thức đó đạt hiệu quả cao hay khơng cịn phụ
thuộc vào phương pháp giảng dạy của thầy và q trình tiếp thu kiến thức
của trị.
Vật lý là một trong những mơn học có ưu thế trong việc phát huy tính
tích cực chủ động sáng tạo của học sinh, trong đó sách giáo khoa là một


trong những phương tiện thể hiện phương pháp dạy học tích cực. Trong
chương trình vật lý 6, học sinh đã nhiều lần tập đưa ra “Dự đoán” và được
giáo viên hướng dẫn làm thí nghiệm để kiểm tra tính đúng đắn của dự đoán.
Đến lớp 7 phương pháp nghiên cứu đó cần được phát triển và nâng cao hơn
cần hướng dẫn học sinh thường xuyên đưa ra nhiều dự đoán khác nhau về
cùng một hiện tượng và tự lực đề xuất các phương án làm thí nghiệm để
kiểm tra dự đốn. Đặc biệt trong chương trình vật lý 7 có sử dụng nhiều đến
phương pháp thực nghiệm, tiếp tục rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm thí
nghiệm và từ thí nghiệm rút ra kiến thức của bài học. Bên cạnh việc áp
dụng phương pháp thực nghiệm cần phải sử dụng phương pháp suy luận
lơgic mới có thể rút ra kết luận khoa học. Chẳng hạn như căn cứ vào quan
sát thí nghiệm, rút ra được các dạng giống nhau cho nhiều trường hợp, dạng
đặc biệt của một trường hợp , xác định mối quan hệ định lượng giữa các
hiện tượng, xử lí sự chênh lệch giữa các số liệu áp dụng luận 3 đoạn để suy
ra hệ quả
II . Cơ sở thực tiễn
Trước đây trong khi giảng dạy các môn học giáo viên chỉ chú trọng đến
khối lượng kiến thức cần truyền đạt mà coi nhẹ phương pháp học tập và
nghiên cứu mang tính đặc thù của từng mơn . Vật lý là môn khoa học thực
nghiệm thế nhưng tình trạng phổ biến hiện nay vẫn là :
- Hầu hết các bài dạy chưa có đủ dụng cụ thí nghiệm cần thiết cho

học sinh .
- Kĩ năng làm thí nghiệm của học sinh vẫn còn hạn chế .
- Dụng cụ thí nghiệm cịn thiếu hoặc khơng đồng bộ, chất lượng
kém .
- Hầu hết các trường đều chưa có cán bộ phụ trách phịng thí nghiệm
được đào tạo có chun môn.


Về cơ bản việc sử dụng thí nghiệm Vật lí ở trường trung học cơ sở
vẫn còn hạn chế , chưa phát huy hết được tính độc lập sáng tạo của học sinh
. Trong khi đó lượng kiến thức trong sách giáo khoa ln được bổ sung
chỉnh lí cho kịp với sự phát triển của thời đại .
Từ những nguyên nhân trên đẫn đến chất lượng của bộ môn chưa
được tốt. Do đó trong 4 giải pháp đổi mới phương pháp dạy học vật lí ở
trường trung học cơ sở thì giải pháp “ Phấn đấu làm đầy đủ, có chất lượng
các thí nghiệm trên lớp là giải pháp được đặt lên hàng đầu” (Theo tài liệu
“Đổi mới phương phát dạy học” của tác giả Trần Kiều )
Chú trọng việc sử dụng đồ dùng dạy học và dụng cụ thí nghiệm ở tất
cả các môn học trong các tiết dạy của giáo viên. Các tiết vật lý cũng như các
tiết học khác nhất là các mơn KHTN, thí nghiệm Thầy cần tạo điều kiện để
các em học sinh được tự tay làm thí nghiệm, tự mình quan sát, đo đạc và rút
ra nhận xét, kết luận (tức là được trải nghiệm trong thực tế) các em học sinh
học tập hứng thú hơn phát huy được tính năng động sáng tạo của các em,
kết quả học tập đạt cao hơn rất nhiều.
Trong chương trình Vật lí 7 với những nội dung như Quang học Âm học - Điện học, các phần này hầu như bài nào cũng có thí nghiệm. Từ
các thí nghiệm học sinh hình thành khái niệm. Ví dụ : nguồn sáng, sự phản
xạ ánh sáng.... Cũng từ các thí nghiệm học sinh nhận biết được sự dao động
của một số nguồn âm, phát hiện sự truyền âm trong chất rắn, chất lỏng, chất
khí ...
Trong các phần này, chủ yếu là các thí nghiệm biểu diễn hình thành

tri thức mới và một vài thí nghiệm chứng minh. Thí nghiệm kiểm tra đóng
vai trị khai thác sâu kiến thức biến kiến thức thành kỹ năng kỹ xảo vận
dụng vào giải bài tập.
Để khai thác các thí nghiệm làm phát huy tính tích cực chủ động sáng
tạo của học sinh một cách cao nhất cần có một số biện pháp sau:


III. Những biện pháp thực hiện.
Vật lí là mơn khoa học thực nghiệm, các tri thức vật lí hố là sự khái
quát hoá các kết quả nghiên cứu thực nghiệm và các hiện tượng diễn ra
trong đời sống. Dựa trên các thí nghiệm học sinh thực hiện được các thao
tác tư duy để tiếp thu tri thức mới. Bài học có thí nghiệm kích thích óc tị mị
khám phá khoa học, ham hiểu biết, rèn luyện óc độc lập suy nghĩ và tư duy
sáng tạo cho học sinh.
Sau đây tôi xin được chia sẻ một số kinh nghiệm cũng như được trao
đổi với các đồng nghiệp về biện pháp tổ chức học sinh tiếp thu kiến thức và
đặc biệt là việc làm thí nghiệm để để đạt hiệu quả trong bài học:
1. Chuẩn bị thí nghiệm
Nói chung thí nghiệm phải kích thích được hứng thú óc sáng tạo của
học sinh. Muốn đạt được điều đó giáo viên phải tìm hiểu thật kỹ nội dung
bài dạy, các thí nghiệm sẽ làm.
Ví dụ: Khi nghiên cứu ảnh của một vật tạo bởi gương phẳng tức là phải trả
lời được câu hỏi: ảnh của một vật tạo bởi gương phẳng có hứng được trên
màn chắn khơng? Từ đó giáo viên xác định rõ mục đích thí nghiệm, lựa
chọn các dụng cụ thí nghiệm cần thiết cho phù hợp. Các dụng cụ thí nghiệm
phải đơn giản dễ làm và chất lượng tốt đảm bảo độ chính xác cao.
Trong q trình giáo dục rất cần có óc sáng tạo của giáo viên để có
được các dụng cụ thí nghiệm phù hợp, vì khơng phải dụng cụ thí nghiệm
nào cũng có và cũng hoạt động tốt, nhiều khi giáo viên phải tự tạo ra các
dụng cụ thí nghiệm phục phụ cho giảng dạy.

Để kích thích thị giác giáo viên cũng cần phải chọn các thí nghiệm có
đồ dùng màu sắc tương phản “bắt mắt” giúp học sinh quan sát tốt hơn.
Thí nghiệm thành cơng tức là phải được chuẩn bị kỹ, làm đi làm lại
nhiều lần nếu thất bại sẽ phá vỡ tiến trình bài học gây tâm lí hoang mang


thất vọng đối với học sinh. Điều không thể thiếu được là giáo viên phải
chuẩn bị hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh quan sát hiện tượng, phân tích
kết quả thí nghiệm vận dụng các kiến thức có liên quan để đi đến tri thức
mới một cách logic.
2. Tiến hành thí nghiệm.
*Bước 1: Thu thập thơng tin
Giáo viên hướng cho học sinh quan sát các sự kiện, hiện tượng, thí
nghiệm, tìm được những thơng tin cần thiết từ thực tế, sách giáo khoa,
báo....
Lập kế hoạch khám phá thiết kế thí nghiệm, lựa chọn dụng cụ thiết bị thí
nghiệm, chỉ ra đại lượng cần đo, những điều cần xác định trong thí nghiệm,
chỉ ra những yếu tố cần giữ nguyên, khơng thay đổi khi làm thí nghiệm.
Tiến hành thí nghiệm: Bố trí lắp đặt dụng cụ thiết bị thí nghiệm; thực hiện
thí nghiệm theo hướng dẫn, thay đổi phương án thí nghiệm nếu kết quả
khơng phù hợp với vấn đề đặt ra
Ghi kết quả khám phá. Đọc số chỉ của các dụng cụ thí nghiệm ở mức
độ cẩn thận và chính xác cần thiết, lập bảng kết quả, biểu diễn kết quả bằng
đồ thị , sơ đồ ......
*Bước 2: Xử lí thơng tin
Ví dụ như : lập bảng, biểu, vẽ đồ thị theo những cách khác nhau, từ đó
phân tích dữ liệu, kết quả thí nghiệm và nêu ý nghĩa của chúng. Tìm quy
luật từ kết quả thí nghiệm từ biểu bảng đồ thị. Phân loại dấu hiệu giống
nhau, khác nhau, nhận biết những dấu hiệu bản chất của những nhóm đối
tượng đã quan sát......, so sánh, phân tích, tổng hợp dữ liệu và rút ra kết luận

*Bước 3:Thông báo kết quả làm việc
Mơ tả lại những thí nghiệm đã làm, trình bày, giải thích những việc đã làm
bằng lời, bằng hình vẽ hoặc bằng đồ thị...nêu kết luận đã tìm thấy được.


*Bước 4: Vận dụng ghi nhớ kiến thức
Vận dụng giải các bài tập( định tính, định lượng, thực nghiệm) làm đồ chơi,
dụng cụ học tập....,học thuộc lòng.
Trong mỗi tiết dạy có thí nghiệm, giáo viên có thể phát huy tính tích cực học
tập của học sinh ở những mức độ khác nhau(có thể giáo viên thực hiện, có
thể giáo viên điều khiển học sinh thực hiện một vài phần, có thể để học sinh
tự thực hiện hồn tồn.....)
Ví dụ : Ở bài “Sự truyền ánh sáng”
Khi nghiên cứu về đường truyền ánh sáng đầu tiên giáo viên phải yêu
cầu học sinh đọc sách giáo khoa để thu thập thông tin để tìm hiểu mục đích
của thí nghiệm, dụng cụ thí nghiệm và cách tiến hành thí nghiệm. Giáo viên
yêu cầu học sinh bố trí thí nghiệm như hình 2.1 trong SGK và quan sát ánh
sáng phát ra từ dây tóc đèn pin bằng ống thẳng và ống cong sau đó yêu cầu
học sinh trả lời câu hỏi: ánh sáng từ dâytóc đèn pin truyền trực tiếp đến mắt
ta theo ống thẳng hay ống cong?
Để trả lời được câu hỏi này học sinh phải tự làm thí nghiệm, quan sát
tìm tịi được những thông tin cần thiết cho quan niệm đường truyền của ánh
sáng. Tiếp theo yêu cầu học sinh xử lí thơng tin bằng thí nghiệm kỉêm tra
(bố trí thí nghiệm như hình 2.2 SGK) với thí nghiệm này học sinh kiểm tra
xem khi khơng dùng ống ánh sáng có truyền đi theo đường thẳng khơng?
Việc xử lí thơng tin này địi hỏi học sinh phải suy nghĩ tìm tịi, tiến hành thí
nghiệm, lựa chọn thơng tin đã thu thập ở thí nghiệm hình 2.1 để tìm ra lời
giải đáp đúng về đường truyền của ánh sáng. Từ đó học sinh phải hoàn
thành được phần kết luận trong SGK(Đường truyền của ánh sáng trong
khơng khí là đường thẳng)

Để phát huy hiệu quả các thí nghiệm học sinh tự tìm tịi kiến thức một
cách chủ động sáng tạo. Điều vô cùng quan trọng là giáo viên phải biết kết
hợp thí nghiệm với hệ thống câu hỏi dẫn dắt. Ở chương II phần Âm học hầu


hết các thí nghiệm biểu diễn và thí nghiệm kiểm chứng để xây dựng và mở
rộng kiến thức. Ví dụ bài “Nguồn âm” ngoài các dụng cụ như dây cao su,
trống, âm thoa....giáo viên có thể tạo thêm một thí nghiệm nhạc cụ (đàn ống
nghịêm) và hướng cho học sinh tự làm và kiểm tra được kết luận. Với thí
nghiệm củng cố này học sinh sẽ rất hứng thú và nắm vững được đặc điểm
của nguồn âm đó là “Vật dao động phát ra âm”. Có làm được như vậy theo
tơi đã đạt được mục đích đặt ra.
3. Trao đổi ở tổ nhóm
Ngồi sự nỗ lực của bản thân mỗi giáo viên cần tích cực học hỏi, trao
đổi dự giờ bạn nhất là giao lưu chuyên môn, các giờ dạy tốt dạy giỏi ở
trường bạn. Đặc biệt trong trường hàng tuần tổ chức một buổi sinh họat
chun mơn của nhóm, tổ như đăng ký dạy tốt, thảo luận về việc vận dụng
đổi mới phương pháp giảng dạy vào từng tiết học. Bàn bạc trong tổ về cách
thức sáng tạo các thí nghiệm trong từng bài dạy. Nhờ đó mà kỹ năng thí
nghiệm và chất lượng giảng dạy được nâng nên rõ rệt.
IV. Áp dụng vào một trường hợp cụ thể.

Tiết 11: Bài 10- Nguồn âm
I/ Mục tiêu:
1.Kiến thức.
- Nêu được đặc điểm chung của các nguồn âm
- Nhận biết được một số nguồn âm trong đời sống.
2. Kỹ năng.
Quan sát thí nghiệm kiểm chứng để rút ra đặc điểm của nguồn âm là
dao động.

3. Thái độ.
u thích mơn học


II/ Chuẩn bị:
* Đối với mỗi nhóm học sinh.
- Một sợi dâycao su mảnh
- Một thìa và một cốc thuỷ tinh mỏng
- Một âm thoa và một búa cao su
* Đối với giáo viên.
- Ống nghiệm hoặc lọ nhỏ
- Vài ba dải lá chuối
- “Bộ đàn ống nghiệm” gồm 7 ống nghiệm đã được các tổ đổ nước với các
mực khác nhau.
III. Tổ chức hoạt động dạy và học.
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

NỘI DUNG

*Hoạt động 1: (5ph) Tổ chức tình huống học
tập
GV: Yêu cầu học sinh tìm hiểu mục tiêu của
chương II.
GV: Chương âm học nghiên cứu các hiện
tượng gì?
HS: Đọc mở bài và nêu mục đích của bài
GV: Vậy âm thanh được tạo ra như thế nào ta
nghiên cứu bài hôm nay.
*Hoạt động 2: Nhận biết nguồn âm (10ph)
GV: Yêu cầu học sinh đọc thông tin C1 và giữ

yên lặng 1phút để trả lời câu hỏi C1.
GV: Thông báo (vật phát ra âm gọi là nguồn

I. Nhận biết nguồn âm
Vật phát ra âm gọi là


âm)

nguồn âm

HS: Lấy ví dụ về nguồn âm(3 em)

Ví dụ: Trống, dây cao su

HS: Trả lời câu hỏi C2

II. Các nguồn âm có

*Hoạt động 3: Tìm hiểu đặc điểm chung của chung đặc điểm gì?
nguồn âm(20 ph)
Thí nghiệm 1:
Thí nghiệm 1:

H10.1(SGK)

GV: Yêu cầu học sinh nghiên cứu thí nghiệm
H10.1 SGK và yêu cầu học sinh cho biết mục
đích thí nghiệm và đọc C3.
HS: Nêu dụng cụ thí nghiệm và cách tiến hành

thí nghiệm.
GV: Tổ chức hoạt động nhóm và u cầu các
nhóm làm thí nghiệm(vừa lắng nghe vừa quan
sát)
GV: Theo dõi giúp đỡ những nhóm yếu.

Thí nghiệm 2: H10.2 SGK

Thí nghiệm 2: H10.2 SGK. Thay cốc bằng
trống
GV: Yêu cầu học sinh đọc thơng tin trong SGK
và làm thí nghiệm như H10.2 SGK
GV: Yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi sau:
Phải kiểm tra như thế nào để biết mặt trống có
rung động khơng?
HS: Trả lời câu hỏi C4 SGK
GV: Thơng báo: Sự rung động qua lại vị trí cân
bằng của vật gọi là dao động.

Thí nghiệm 3: H10.3 SGK


Thí nghiệm 3:
GV: Yêu cầu học sinh quan sát H10.3 SGK và
tiến hành làm thí nghiệm.
HS: Làm thí nghiệm. Gõ vào một nhánh của
âm thoa, lắng nghe, quan sát và trả lời câu hỏi
C5 SGK
GV: Yêu cầu học sinh tìm phương án kiểm tra
sự dao động của âm thoa.

HS: Đưa ra phương án kiểm tra, sờ nhẹ tay vào
một nhánh của âm thoa.
GV: Qua các thí nghiệm trên em hãy cho biết
làm thế nào để vật phát ra âm?
GV: Bằng cách nào để kiểm tra vật đó có dao
động khơng?

Kết luận: Khi phát ra âm

HS: Trả lời câu hỏi và hoàn thành kết luận các vật đều dao động (rung
trong SGK

động)

* Hoạt động 4: Vận dụng củng cố hướng dẫn III. Vận dụng
C6 , C7, C8
về nhà.
1/ Vận dụng.
GV: Yêu cầu họcc sinh thảo luận và trả lời C6,
C7, C8.
HS: Nhận xét.
GV: Gọi học sinh làm thí nghiệm củng cố sau
đó trả lời câu hỏi C9 SGK
2/ Củng cố


GV:Các vật phát ra âm có chung đặc điểm gì?
HS: đọc phần có thể em chưa biết
GV: Bộ phận nào trong cổ phát ra âm( cổ họng
phát ra âm do dây âm thanh trong cổ dao động)

HS: Nêu phương án kiểm tra (Đặt tay vào sát
ngoài cổ họng)
3/ Hướng dẫn về nhà.
Học bài và làm bài tập 10.1 đến 10.5 SBT.
Làm lại các thí nghiệm trong điều kiện cụ thể
(ở gia đình), quan sát sự các vật khi phát ra âm.
Đọc trước bài học sau, chú ý đến các thí
nghiệm, liên hệ với thực tiễn cuộc sống
Qua việc áp dụng đề tài trên vào giảng dạy, tôi đã theo dõi và tiến
hành khảo sát chất lượng học sinh học môn Vật lý và thu được kết quả
tương đối khả quan, cụ thể như:
Khảo sát đầu năm

Khảo sát giữa kì I

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Khá - Giỏi

T.bình


Yếu-Kém

Khá - Giỏi

T.bình

Yếu-Kém

7A

32%

40%

28%

42%

52%

0

7B

31%

42%

27%


43.5%

46.5%

0

Lớp

Như vậy , so với đầu năm thì tỷ lệ % học sinh tiếp thu và hiểu bài
ngay tại lớp tăng lên rõ rệt, tỷ lệ khá giỏi tăng, giảm tỷ lệ học sinh trung
bình và khơng có học sinh yếu kém, điều đáng kể hơn cả là tính năng động
và khả năng tự lập của các em thể hiện khá roc rệt, quan hệ thầy trò trở lên
gần gũi hơn. Trong giờ học khoảng cách giữa thầy và trò được thu hẹp. Học
sinh mạnh dạn hỏi thầy, trình bày quan điểm và lập trường của mình, mở
rộng giao tiếp và tư duy của các em.


Qua việc áp dụng phương pháp đổi mới trên, chúng tôi đã rút ra một
số bài học sau:

C. BÀI HỌC RÚT RA.

Việc đổi mới phương pháp giảng dạy là vấn đề cấp bách góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên cũng giống như các hoạt động
khác trong nhà trường nhân tố quyết định vẫn là đội ngũ giáo viên. Theo tơi
người thầy phải có nhận thức đúng, u nghề, chăm chỉ có sự chuẩn bị kĩ (
sau khi đã nghiên cứu kĩ bài dạy) các thí nghiệm phải được thầy chủ động
tiến hành trước nhiều lần, với các phương thức khác nhau để chọn ra
phương pháp hay nhất, học sinh dễ áp dụng khai thác được tốt kiến thức từ

các thí nghiệm này, học sinh phải tự mình được làm các thí nghiệm, ngơn
ngữ của thầy phải trong sáng, chính xác, trình bày ngắn gọn xúc tích để học
sinh tiếp thu bài nhanh. Bên cạnh đó giáo viên phải ln tìm tịi, sáng tạo,
học tập, lắng nghe ý kiến góp ý của đồng nghiệp, rút ra kiến thức mang tính
tinh chắc thực tiễn và vận dụng phương pháp tốt nhất cho mỗi bài dạy.
Mơn Vật lí là mơn khoa học thực nghiệm rất gần với cuộc sống đó là
thuận lợi nhưng để khai thác hết hiệu quả của từng tiết học theo tơi là vơ
cùng khó cho nên chắc chắn trên đây cũng chỉ là những kinh nghiệm nhỏ
của tơi trong năm học này.
Rất mong được sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp
Tuân Đạo, ngày 21 tháng 05 năm 2010
Người trình bày

Nguyễn Thị Minh



×