Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

SKKN: Sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu trong dạy - học Ngữ Văn 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.33 KB, 11 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN HỒI ĐỨC

CỘNG HỒ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG THCS AN THƯỢNG

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐỀ TÀI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP SO SÁNH ĐỐI
CHIẾU TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN 7

Năm học: 2007 – 2008


A - NỘI DUNG ĐỀ TÀI.
Tên đề tài:
“Sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu trong
dạy - học Ngữ văn 7”
A.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.CƠ SỞ THỰC TIỄN
Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học đó trở thành
yêu cầu thiết yếu của mọi hoạt động giáo dục. Trên cơ sở tiếp thu những thành
tựu mới của lí luận dạy học hiện đại của thế giới, các nhà nghiên cứu lí luận dạy
học Việt Nam đó nghiên cứu và đưa ra các định hướng đổi mới về phương pháp
dạy học “thống nhất theo tư tưởng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh,
dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”. Học sinh tự giác, chủ động tìm tịi,
phát hiện kiến thức, tìm hiểu vấn đề và có ý thức vận dụng linh hoạt, sáng tạo các
kiến thức, kĩ năng đó thu nhận được.


Xuất phát từ nhận thức cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học ấy, là
giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy, tơi ln có những băn khoăn, trăn trở nên
sử dụng các hình thức dạy học như thế nào đặc biệt là những hình thức dạy học
mới cho phù hợp với phương pháp dạy học hiện đại và để có được những giờ dạy
đạt hiệu quả cao nhất.
2.CƠ SỞ KHOA HỌC
Thấy được những nhược điểm của phương pháp dạy học Ngữ văn theo cách
truyền thống, tôi nhận thấy phải nhanh chóng đổi mới phương pháp dạy học theo
xu thế chung và việc đổi mới đú đó được thực hiện tích cực trong những năm gần
đây.
Với đặc trưng của môn Ngữ văn việc áp dụng phương pháp dạy học mới
với các hình thức dạy học sáng tạo địi hỏi người giáo viên phải tâm huyết để có
được những tìm tịi, sáng tạo phù hợp với đặc trưng bộ môn và với từng phân
môn.
Dạy - học Ngữ văn được coi là môn học khó trong xã hội hiện đại. Trong
thực tế tâm lí học sinh rất ngại học Ngữ văn do các em có điều kiện tiếp xúc với
các phương tiện thơng tin hiện đại đem lại nguồn thơng tin nhanh chóng. Từ đú
các em nảy sinh tâm lí ngại đọc văn và học Ngữ văn. Tuy nhiên, các phương tiện


thông tin nhanh thường mang lại cho các em những kiến thức rất hời hợt và không
mang lại hiệu quả giáo dục cao. Vì thế việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường
vẫn giữ một vai trò rất quan trọng trong quá trình giáo dục và hình thành nhân
cách cho các em.
Từ thực tế đú tôi càng nhận thức được rõ hơn tầm quan trọng của yêu cầu đổi mới
phương pháp và hình thức dạy học Ngữ văn nhằm khắc phục những nhược điểm
của bộ môn và khơi dậy ở các em lịng u thích bộ mơn giàu tính nhân văn này.
Trong q trình dạy học ngữ văn tơi nhận thấy việc áp dụng phương pháp
dạy học mới với các hình thức dạy học của nó đó đem lại những hiệu quả rõ rệt
khiến các em tránh được tâm lí ngại học và u thích bộ mơn này hơn.

Tuy nhiên việc áp dụng các hình thức dạy học mới vào q trình giảng dạy vẫn
cịn nhiều khó khăn địi hỏi tơi phải tiếp tục tìm tịi vận dụng các phương pháp và
hình thức mới để việc dạy học có được những kết quả khả quan hơn.
B.QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I.KHẢO SÁT THỰC TẾ
Từ đầu năm học 2008 – 2009, trong các buổi họp bộ mơn Ngữ văn chúng
tơi đó họp và bàn luận về việc tiếp tục áp dụng các hình thức dạy học mới đối với
bộ mơn Ngữ văn. Riêng tôi nhận thấy để áp dụng được các hình thức dạy - học
mới đối với mơn Ngữ văn địi hỏi người giáo viên phải tích cực đầu tư thời gian
nghiên cứu, tìm hiểu bài dạy để vận dụng các hình thức dạy - học mới một cách
thích hợp. Như vậy thì mới có thể giúp học sinh có hứng thú với bộ môn đồng
thời giúp học sinh khắc sâu, nhớ lâu kiến thức và tránh được tâm lí ngại học Ngữ
văn.
Từ thực tế đú, trong năm học này tơi đó tích cực hơn trong việc sử dụng các
hình thức dạy - học mới đối với bộ môn của mình, đặc biệt chú ý đến việc “Sử
dụng phương pháp so sánh đối chiếu trong dạy học Ngữ văn 7”.
Tình hình thực tế khi thực hiện
Năm học 2008 – 2009 tôi được phân công đảm nhiệm giảng dạy môn Ngữ
văn ở hai lớp 7A và 7C
* Qua bài khảo sát đầu năm, tỉ lệ học sinh đạt kết quả nh− sau:
Loại

Giỏi
Số

Khá
%

Số


Trung bình
%

Số

%

Yếu
Số

Kém
%

Số

%


Tổng số

lượng

lượng

lượng

lượng

lượng


7A

41

2

5

20

49

17

34

2

5

0

0

7C

34

0


0

5

15

18

59

9

26

2

6

II.NỘI DUNG ĐỀ TÀI
1.Phạm vi áp dụng.
Phương pháp so sánh đối chiếu có thể được sử dụng rộng rãi ở nhiều môn học.
Đối với riêng bộ môn Ngữ văn nó cũng có thể được áp dụng ở cả ba phân môn
Văn, Tiếng Việt và Tập làm văn nhưng việc áp dụng phải được nghiên cứu để vận
dụng vào những bài học thích hợp. Vậy loại bài học nào là phù hợp để áp dụng
phương pháp này? Qua kinh nghiệm giảng dạy chúng tơi nhận thấy phương pháp
này có thể áp dụng với những loại bài học sau:
- Phương pháp so sánh đối chiếu rất phù hợp áp dụng với những bài học có các
đơn vị kiến thức có nét tương đồng mà học sinh dễ nhầm lẫn. Hiện tượng thường
gặp ở những bài này khi giáo viên chưa giúp học sinh phân biệt rạch ròi được các
đơn vị kiến thức là học sinh không biết đâu là đúng, đâu là sai, không biết đặc

điểm nào thuộc nội dung nào. Vì thế dẫn đến sự lúng túng trong việc vận dụng
vào thực tế hoặc vận dụng sai.
- Tương tự như vậy, ta cũng có thể áp dụng phương pháp này trong các bài học
có những đơn vị kiến thức hồn tồn đối lập. Ở những bài học này nếu khơng áp
dụng cũng không đến nỗi đem lại hiệu quả không tích cực như ở trên nhưng có
thể thấy rõ là hiệu quả bài dạy không được cao.
2.Yêu cầu.
- Giáo viên phải nghiên cứu bài dạy kĩ càng trước khi áp dụng để việc thực
hiện đạt hiệu quả cao. Nếu giáo viên cứ chạy theo hình thức của việc áp dụng các
hình thức dạy học mới mà khơng quan tâm đến hiệu quả đích thực thì việc vận
dụng sẽ khơng đem lại hiệu quả như mong muốn, thậm chí cịn gây ảnh hưởng
xấu đến hiệu quả giờ học.
- Giáo viên phải nghiên cứu để tìm ra hệ thống câu hỏi phù hợp nhằm dẫn
dắt học sinh phát hiện kiến thức và đi đến kiến thức cần rút ra sau khi so sánh đối
chiếu.
- Đối với những tiết học mà phạm vi so sánh không ở cùng phạm vi bài
học, giáo viên cần yêu cầu các em xem lại hoặc chuẩn bị (những kiến thức mà
mình định sử dụng để so sánh) trước ở nhà thì việc vận dụng mới đạt hiệu quả


cao. Tránh tình trạng mất thời gian nhớ lại kiến thức cũ làm ảnh hưởng đến tiến
trình giờ dạy.
3.Ưu - nhược điểm
a.Ưu điểm:
- Qua kinh nghiệm thực tế chúng tôi nhận thấy rằng những bài học được áp
dụng phương pháp này một cách phù hợp đó đem lại những hiệu quả hết sức rõ
rệt. Với hệ thống câu hỏi phù hợp chúng tôi giúp học sinh nhận ra những đặc
điểm của từng đơn vị kiến thức khác nhau từ dễ đến khó. Từ đú phát huy được
tính tích cực của học sinh. Các em chủ động tìm tịi các đặc điểm của từng đơn vị
kiến thức sau đú rút ra kết luận nhờ sự gợi ý của giáo viên. Và nhờ đú mà học

sinh nắm bắt kiến thức nhanh và nhớ được lâu hơn, kiến thức được đào sâu hơn.
- Sau khi áp dụng kiến thức này vào một số bài học và kiểm tra lại, kết quả cho
thấy kiến thức hình thành từ phương pháp này được học sinh ghi nhớ là rõ ràng,
tránh được những nhầm lẫn giữa đơn vị kiến thức này với đơn vị kiến thức khác
tương tự và tránh được nhầm lẫn khi vận dụng vào thực tế.
b.Nhược điểm:
- Do đặc điểm của từng bài dạy, hình thức này khơng được áp dụng thường
xun dẫn đến kĩ năng thực hành của học sinh đôi khi cịn lúng túng.
- Học sinh yếu thấy khó hay nản dẫn đến không hiểu bài
4.Vận dụng vào thực tế dạy học
a. Đối với phần văn bản Văn học.
Ví dụ 1: Trong văn bản “Cổng trường mở ra” để làm nổi bật tâm
trạng của người mẹ vào đêm trước ngày khai trường của con tơi đã cho học sinh
tìm trong văn bản những chi tiết cho thấy tâm trạng của mẹ và con vào đêm trước
ngày khai trường.Từ đó, giúp học sinh cm nhn đựơc tỡnh cm sõu sc ca
ngi m.
a con

Người mẹ

- Giấc ngủ đến dễ dàng

- Mẹ không ngủ được

- Có niềm háo hức

- Mẹ khơng tập trung được vào việc

- Trong lịng khơng có bận tâm gì


gì cả.
- Trằn trọc, băn khoăn

=> Là một em bé ngây thơ, trong sáng.

- Thao thức, lo lắng
=> Là một người mẹ sâu sắc, yêu
thương con hết mực.


Ví dụ 2:
Khi dạy chêm bài thơ Trung đại học sinh được làm quen với khá nhiều thể
loại thơ (thất ngôn, ngũ ngôn, song thất lục bát, ... đặc biệt là các thể thơ Đường).
Các thể thơ này đều có những qui định nghiêm ngặt về vần, luật. Để học sinh nắm
chắc được đặc điểm các thể loại đó thì trước hết giáo viên phải cho học sinh đối
chiếu yêu cầu của mỗi thể loại với các bài thơ cụ thể, từ đó giúp học sinh nhận ra
được mỗi bài thơ đó có đáp ứng được yêu cầu thể loại hay không. Tương tự nh−
vậy, giáo viên cho học sinh đối chiếu giữa bản phiên âm với bản dịch thơ để học
sinh thấy được tài năng của người dịch, đồng thời nhận ra những điểm chưa đúng
với bản phiên âm.
Ví dụ: ở bài “Sông núi nước Nam” đối chiếu giữa bản phiên âm với bản
dịch học sinh sẽ nhận ra ở bản dịch phần vần gồm các từ “ở, sở, vì” là thanh trắc
chưa đáp ứng được với ba vần bằng ở bản phiên âm “cư, thư, hư”
Hay ở hai bài thơ của Bác “Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng” cũng được làm
theo những thể loại trên. Giáo viên cũng cần cho học sinh đối chiếu để xác định
thể thơ, từ đó nhận ra rằng đó là hai bài thơ hiện đại được làm theo thể thơ
Đường. Đặc biệt ở bài “Rằm tháng giêng” giáo viên cần cho học sinh đối chiếu
giữa bản dịch thơ và bản phiên âm để học sinh nhận ra cái hay, cái đẹp của từ ngữ
trong bản phiên âm mà bản dịch thơ không chuyển tải hết được như các từ : kim
dạ, chính viên, xuân thủ, yên ba thâm xứ.

Việc so sánh đối chiếu đó đã đem lại hiệu quả là học sinh nắm vững đặc
điểm của mỗi thể loại, nhận ra đặc điểm đó trong các bài thơ Đường và chỉ ra
được những bài thơ khơng đáp ứng được những u cầu trên.
Ví dụ 3:
Tương tự nh− vậy tôi đã áp dụng phương pháp này vào việc dạy văn bản tự
sự.
Trong văn bản “Sống chết mặc bay” tôi đã tận dụng triệt để phương pháp so
sánh đối chiếu để giúp học sinh nhận ra hai hình thức nghệ thuật được tác giả sử
dụng thành công trong văn bản là nghệ thuật tương phản đối lập và nghệ thuật
tăng cấp.
Đối với biện pháp tương phản, tôi yêu cầu học sinh chỉ ra hai mặt tương
phản trong tác phẩm sau đó yêu cầu các em tìm hiểu những nét tương đồng giữa
mặt tương phản thứ nhất với mặt tương phản thứ hai, từ đó nhận ra biện pháp
tương phản được tác giả sử dụng thành công trong tác phẩm.


Cảnh nhân dân
Không gian,
thời gian

Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm
tã, nø¬c sơng Nhị Hà lên to

Cảnh quan phí
Gần một giờ đêm. Trời mưa
tầm tã, nø¬c sơng Nhị Hà
lên to.

Khúc đê làng X ... xem chừng Trong đình vững chãi, đê vì
Địa điểm


núng thế, hai ba đoạn đã thÈm cũng khơng sao.
lậu.

Đồ dùng

kẻ thì thuổng, người thì cuốc

Kẻ đội đất, kẻ vác tre,... -ít l-ít
Hình ảnh

th-ít nh− chuột lét.

Trống đánh liên thanh, ốc thổi
âm thanh

Khơng khí,
quang cảnh

vơ hồi, tiếng người xao xác gọi
nhau sang hộ.
trăm họ gội gió, tắm mưa nh−
đàn sâu, lò kiến.
Nhân dân đang vật lộn căng
thẳng với nguy cơ đê vì trong

Kết luận

khi thiên tai đang từng lúc giáng
xuống.


Dao chuôi ngà, ống vôi
chạm, quản bút, tăm bông...

Nào quan ngồi trên, nào nha
ngồi dưới, ... nghi vƠ tơn
nghiêm, nh− thần nh− thánh.

Trị quan phụ mẫu ra, mọi
người không ai dám to tiếng.
Nghiêm trang, tĩnh mịch,
nhàn nhã, đường bệ, nguy
nga.
Quan phí cùng nha lại lao
vào cuộc tổ tơm trong khi đi
hộ đê.

Sự so sánh đó cùng với sự dẫn dắt của giáo viên đã giúp học sinh nhận ra
một cách dễ dàng bản chất vơ nhân tính, “lịng lang dạ thú” của bọn quan lại đi hộ
đê.
Tương tự nh− vậy học sinh cũng thấy rõ hơn tính cách phi nhân tính của tên quan
phí thơng qua nghệ thuật tăng cấp của tác giả.
Trong văn bản “Những trò lè hay là Va-ren và Phan Bội Châu” của Nguyễn
ái Quốc tôi cũng cho học sinh tìm hiểu văn bản bằng phương pháp này thơng qua
hai hình ảnh đối lập là Va-ren và Phan Bội Châu. Việc tìm hiểu song song, có so


sánh đối chiếu giữa hai nhân vật này đã giúp học sinh nhận ra bản chất và đặc
điểm tính cách của mỗi nhân vật.
Ví dụ 4:

Tơi cũng áp dụng phương pháp này khi dạy học sinh về sân khấu kịch qua
đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” trích vở chèo “Quan Âm Thị Kính”. Ví dụ khi tìm
hiểu về ngơn ngữ của nhân vật Sùng bà. Tôi yêu cầu học sinh tìm song song
những lời nói của Sùng bà khi nói về nhà mình và khi nói về nhà Thị Kính. Học
sinh sẽ tìm được:
* Khi nói về nhà mình

* Khi nói về nhà Thị Kính

- Giống nhà bà đây giống phượng - Tụng bay mèo mả gà đồng lẳng lơ.
giống cơng.

- Liu điu lại nở ra dịng liu điu.

- Trứng rồng lại nở ra rồng.

- Mày là con nhà cua ốc.

- Nhà bà đây cao môn lệnh tộc.

- Đồng nát thì về Cầu Nơm.
Con gái nỏ mồm về ở với cha.

Sau đó học sinh sẽ so sánh và nhận xét được về ngơn ngữ của Sùng bà: Khi
nói về nhà mình thì vênh váo, khoe khoang, hãnh diện; cịn khi nói về nhà Thị
Kính thì dè bỉu, coi thường. Từ đó, học sinh thấy được sự phân biệt đối xử của
Sùng bà đối với Thị Kính.
Qua việc áp dụng phương pháp này trong việc dạy văn bản văn học tôi thấy
phương pháp này có thể sử dụng rộng rãi ở các thể loại văn bản (văn bản nhật
dụng, thơ, văn bản tự sự, kịch). Về phía học sinh, khi áp dụng phương pháp này

học sinh dễ dàng tìm ra chất liệu văn học đồng thời phát hiện kiến thức cơ bản
một cách nhanh chóng, sâu sắc và ghi nhớ dễ dàng.
b. Đối với phân môn Tiếng Việt.
Dạy Tiếng Việt là để giúp cho học sinh có năng lực sử dụng ngơn ngữ của
mình như một cơng cụ để tư duy và giao tiếp hiệu quả. Vì vậy trong năm học vừa
qua tôi cũng chú ý sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu trong giờ dạy - học
Tiếng Việt để giúp học sinh nâng cao được những năng lực trên sau mỗi giờ học.
Ví dụ 1:
Dạy bài Từ ghép , khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu Các loại từ ghép, ở ví
dụ 1(tìm hiểu về từ ghép chính phụ) để học sinh nhận ra được tiếng chính và tiếng
phụ trong các từ “bà ngoại, thơm phức”tôi yêu cầu các em so sánh từ “bà ngoại”
với từ “bà nội”; từ “thơm phức” với các từ “thơm lừng, thơm ngát”. Qua so sánh


đó học sinh dễ dàng nhận ra đâu là tiếng chính, đâu là tiếng phụ, tơi cịn cho các
em lấy ví dụ thêm để khắc sâu kiến thức. Học sinh cũng tìm hiểu về nghĩa của từ
ghép tương tự nh− vậy.
Ví dụ 2:
Dạy bài Rút gọn câu, khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu thế nào là câu rút
gọn, ở ví dụ 1 qua việc so sánh giữa hai mẫu câu:
a. Học ăn, học nói, học gói, học mở.
b. Chúng ta học ăn, học gói, học nói, học mở.
Học sinh sẽ nhận ra ở câu a) thiếu chủ ngữ và có thể thêm một số từ làm
chủ ngữ vào đó và hiểu được dụng ý của việc lược bỏ chủ ngữ trong câu tục ngữ
trên.
ở ví dụ 2, tơi u cầu học sinh khơi phục lại hồn chỉnh những câu đã bị
lược bỏ rồi so sánh với những câu đã cho học sinh sẽ dễ dàng nhận ra các thành
phần bị lược bỏ và nhận ra được dụng ý của việc lược bỏ các thành phần đó.
Ví dụ 3:
Dạy bài Thêm trạng ngữ cho câu trong trường hợp tách trạng ngữ thành

câu riêng tôi cũng cho học sinh so sánh trạng ngữ ở câu thứ nhất với trạng ngữ ở
câu hai:
“Người Việt Nam ngày nay có lÝ do đầy đủ và vững chắc để tự hào với
tiếng nói của mình. Và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó.”
Việc so sánh này giúp học sinh rót ra nhận xét về sự giống và khác nhau
của hai trạng ngữ từ đó thấy được tác dụng của việc tách trạng ngữ thành câu
riêng.
Qua việc sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu trong giảng dạy phân
môn Tiếng Việt tôi thấy học sinh hiểu sâu sắc hơn các tình huống ngơn ngữ , giúp
học sinh nắm bắt nhanh các đơn vị kiến thức cần lĩnh hội, và thực hành vận dụng
tốt hơn.
c. Đối với phân môn Tập làm văn
Tập làm văn bao giờ cũng là một phân mơn khó đối với các em. Vì thế
trong quá trình dạy – học càng đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng các phương
pháp dạy – học mới nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh và giúp các
em tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng. Việc sử dụng phương pháp so sánh đối
chiếu vào dạy – học Tập làm văn cũng đem lại một số hiệu quả.
Ví dụ 1:


Khi dạy nội dung Tính liên kết của văn bản (Trong bài Liên kết trong văn
bản), sau khi yêu cầu học sinh nhận xét về nội dung của ví dụ (sgk:17), tơi u
cầu học sinh đối chiếu đoạn văn đó với đoạn văn trong văn bản mà các em đã học
để tìm ra nguyên nhân vì sao với những câu văn trong ví dụ thì Enric« chưa thể
hiểu điều bố muốn nói. Học sinh sẽ nhận ra các câu văn trong ví dụ bị lược đi một
số từ ngữ có tác dụng liên kết vì thỊ khiến đoạn văn khó hiểu.
Tương tự như vậy với nội dung Phương tiện liên kết trong văn bản ở ví dụ
b) (sgk:18) bằng việc so sánh với đoạn văn gốc trong văn bản “Cổng trường mở
ra” học sinh cũng nhận ra nguyên nhân khiến cho đoạn văn trở nên rời rạc, thiếu
sự liên kết là do bị thiếu cụm từ “Còn bây giờ” và viết nhầm từ “con” thành từ

“đứa trẻ”. Từ đó, học sinh nhận ra vai trị của các từ ngữ có tác dụng liên kết
trong văn bản.
Ví dụ 2:
Khi dạy nội dung những yêu cầu về bố cục trong văn bản (Tiết 7: Bố cục
trong văn bản) bằng hình thức so sánh đối chiếu với các văn bản các em đã được
học ở Ngữ văn 6 sẽ giúp các em nhận ra những điểm chưa đạt yêu cầu về bố cục
của hai văn bản trong ví dụ (sgk: 29):
- Văn bản 1: Các chi tiết sắp xếp lộn xộn, không rõ ràng, rành mạch khiến
người đọc khó hiểu.
- Văn bản 2: Các ý phân biệt với nhau tương đối rõ ràng, rành mạch nhưng
các chi tiết lại trình bày chưa hợp lÝ vì thế làm mất đi hiệu quả gây cười
của văn bản.
Việc so sánh nh− vậy giúp học sinh đi đến việc nắm những yêu cầu về bố
cục trong văn bản nhanh hơn và rõ ràng hơn.
Ví dụ 3:
Khi dạy bài Các yếu tố tự sự, miêu tả trong văn biểu cảm, để giúp học sinh
thấy rõ vai trò của các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn biểu cảm ở ví dụ 2 (sgk:
137) tơi cho học sinh so sánh giữa đoạn văn có yếu tố miêu tả, tự sự và đoạn văn
khơng có yếu tố miêu tả, tự sự. Từ đó học sinh thấy được nếu khơng có yếu tố
miêu tả, tự sự thì tính biểu cảm của đoạn văn không cao.


III. Kết quả thực hiện có so sánh đối chứng
Qua một năm áp dụng đề tài vào quá trình giảng dạy ở 2 lớp 7A và 7C, tối
thấy tình hình học Ngữ văn của các em có những chuyển biến rõ rệt.
* Kết quả cụ thể sau khi áp dụng đề tài:

Loại

Giỏi


T số

Số
lượng

Trung
bình

Khá
%

Số
lượng

%

Số
lượng

%

Yếu
Số
lượng

Kém
%

Số

lượng

%

7A

41

4

12

24

58

13

32

0

0

0

0

7C


34

1

3

7

21

20

59

6

17

0

0

iv. Những ý kiến và đề nghị sau quá trình thực hiện đề tài
1. ý kiến
- Vì thời gian thực hiện đề tài ngắn, nên tơi chưa có điều kiện kiểm chứng.
Bởi vậy, kết quả của nó có khả quan hay khơng, tơi chưa thể nói điều gì hơn ngồi
nội dung đã trình bày.
- Đây là một đề tài mang tính chủ quan, cá nhân nhất định sẽ khơng thể
tránh khỏi những phiến diện thiếu khách quan. Vì vậy, rất mong được sự đóng
góp ý kiến chỉ đạo của cấp trên.

2. Đề nghị
Làm cho học sinh không sợ mà u thích mơn học của mình là một việc
làm quan trọng thuộc về người thầy. Nhưng để thực hiện được sứ mệnh thiêng
liêng và nặng nề đó, chúng tơi cần có sự hỗ trợ đắc lực và kịp thời hơn nữa của
các cấp lãnh đạo:
- Đầu tư trang bị cho thầy trị chúng tơi đồ dùng dạy học, đặc biệt là các
tranh ảnh tư liệu.
- Cung cấp thêm tài liệu tham khảo để hỗ trợ cho việc dạy và học.
- Tổ chức nhiều chuyên đề mang tính chuyên sâu để chúng tôi được học hỏi.
An Thượng, ngày 12 tháng 5 năm 2009
Người viết



×