Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

So sánh nhóm tính từ chỉ kích thước giữa tiếng việt và tiếng anh vận dụng vào việc giảng dạy tiếng việt cho người nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (964.67 KB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DƯƠNG THỊ HẠNH

ĐỀ TÀI:

SO SÁNH NHĨM TÍNH TỪ CHỈ KÍCH THƯỚC GIỮA
TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH - VẬN DỤNG VÀO VIỆC
GIẢNG DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH VIỆT NAM HỌC
MÃ SỐ: 603160

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DƯƠNG THỊ HẠNH

ĐỀ TÀI:

SO SÁNH NHĨM TÍNH TỪ CHỈ KÍCH THƯỚC GIỮA
TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH - VẬN DỤNG VÀO VIỆC
GIẢNG DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH VIỆT NAM HỌC


MÃ SỐ: 603160

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUỆ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: luận văn này là cơng trình nghiên cứu thực sự của riêng cá
nhân tơi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thầy PGS.TS.
NGUYỄN VĂN HUỆ.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công
bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tơi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên

DƯƠNG THỊ HẠNH


LỜI CÁM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cám ơn Thầy PGS.TS. Nguyễn Văn Huệ, người
đã trực tiếp hướng dẫn tơi hồn thành luận văn. Với những lời chỉ bảo ân cần, sự
tận tình hướng dẫn và những lời động viên khích lệ của Thầy đã giúp tơi vượt
qua mọi khó khăn tưởng chừng như bỏ cuộc trong suốt quá trình thực hiện luận
văn. Một lần nữa xin cám ơn Thầy!
Tôi cũng xin cám ơn quý thầy cô giảng dạy chương trình cao học “Việt Nam
học” khóa I đã truyền dạy những kiến thức quý báu giúp ích rất nhiều cho tôi khi
thực hiện nghiên cứu đề tài luận văn. Đặc biệt, tôi xin cám ơn NGND.GS.TS.
Bùi Khánh Thế về những góp ý có ý nghĩa rất lớn khi tôi thực hiện đề cương
nghiên cứu.

Xin cám ơn các Qúy thầy, cơ cơng tác tại khoa Việt Nam học, phịng Sau đại
học, phịng Hành chính và Ban Giám hiệu trường Đại học KHXH&NV – Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi trong suốt q
trình tơi tham gia khóa học.
Sau cùng, tơi xin cám gia đình, người thân, bạn bè đã ln động viên và ủng hộ
tinh thần cho tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Học viên

DƯƠNG THỊ HẠNH


MỤC LỤC
I. DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu

3

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

3

3.1. So sánh - đối chiếu tiếng Việt và tiếng Anh

3


3.2. Nghiên cứu về tính từ

6

4. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu

10

4.1. Đối tượng nghiên cứu

10

4.2. Giới hạn nghiên cứu

11

5. Phương pháp nghiên cứu

11

6. Bố cục luận văn

13

II. NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: Những vấn đề cơ bản của nghiên cứu so sánh-đối chiếu tính từ
Việt-Anh

15


1.1. So sánh-đối chiếu ngơn ngữ nhìn từ góc độ ngơn ngữ và tư duy

15

1.1.1. Thuật ngữ so sánh – đối chiếu ngôn ngữ

15

1.1.2. So sánh ngôn ngữ Việt - Anh

19

1.2.Từ loại tính từ và tính từ chỉ kích thước

22

1.2.1. Khái niệm tính từ

22

1.2.2. Tính từ trong tiếng Việt và tiếng Anh

24

1.2.3. Tính từ chỉ kích thước

34


Chương 2: Đặc trưng ngữ nghĩa của nhóm tính từ chỉ kích thước trong

tiếng Việt và tiếng Anh

40

2.1. Tính từ chỉ kích thước trong tiếng Việt

40

2.2. Tính từ chỉ kích thước trong tiếng Anh

50

Chương 3: So sánh tính từ chỉ kích thước trong tiếng Việt và tiếng Anh
Vận dụng vào việc giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài

80

3.1. So sánh tính từ chỉ kích thước trong tiếng Việt và tiếng Anh

80

3.1.1. Tính từ chỉ kích thước biểu thị ý niệm CAO, THẤP

81

3.1.2. Tính từ chỉ kích thước biểu thị ý niệm NƠNG, SÂU

84

3.1.3. Tính từ chỉ kích thước biểu thị ý niệm DÀY, MỎNG


87

3.1.4. Tính từ chỉ kích thước biểu thị ý niệm DÀI, NGẮN

89

3.1.5. Tính từ chỉ kích thước biểu thị ý niệm RỘNG, HẸP

89

3.1.6. Tính từ chỉ kích thước biểu thị ý niệm TO, NHỎ

91

3.2. Ứng dụng vào việc dạy tiếng Việt cho học viên nước ngoài.

92

3.2.1. Thực tiễn học tiếng Việt và tính từ chỉ kích thước của học viên

94

3.2.2. Những lỗi học viên thường phạm phải khi sử dụng tính từ chỉ kích thước 99
3.2.3. Nguyên nhân

103

3.2.4. Giải pháp khắc phục


106

III. KẾT LUẬN

112

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

116

V. PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bảng hỏi về tính từ chỉ kích thước (Bảng tiếng Việt)

1

Bảng hỏi về tính từ chỉ kích thước (Bảng tiếng Anh)

8


Phụ lục 2: Nghĩa và khả năng kết hợp của một số tính từ chỉ kích thước trong
tiếng Việt và tiếng Anh

15


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

STT


TÊN

TRANG

3.1

Trình độ học tiếng Việt của học viên

93

3.2

Mục đích học tiếng Việt của học viên

94

3.3

Nguyên do phân loại tính từ

95

3.4

Tiêu chí phân loại nghĩa của tính từ

95

3.5


Khả năng kết hợp của tính từ với các loại từ khác

96

3.6

Khó khăn khi học tính từ chỉ kích thước của học viên

97

3.7

Lỗi học viên thường gặp khi học tính từ chỉ kích thước

97

3.8

Nguyên nhân mắc lỗi của học viên

98


1

DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Vật chất tồn tại trong thế giới khách quan không chỉ vận động biến đổi
theo chu kỳ tuần hồn mà cịn ẩn chứa bên trong rất nhiều thuộc tính, như: màu
sắc, phẩm chất, hình dạng, kích thước… chẳng hạn. Trong đó, kích thước là một

trong những thuộc tính dễ dàng nhận thấy, tồn tại trong cả khơng gian lẫn thời
gian. Trong ngơn ngữ, tính từ được dùng để biểu thị đặc điểm, tính chất, hoạt
động, trạng thái của sự vật, hiện tượng đang diễn ra hằng ngày trong cuộc sống
của chúng ta. Tương tự, tính từ chỉ kích thước được dùng để diễn đạt thuộc tính
kích thước của sự vật, hiện tượng. Đây là “loại tính từ có tính chất đặc biệt, biểu
thị thuộc tính khơng gian của sự vật được con người tri nhận và phân chia, vừa
mang đặc điểm chung vừa thể hiện đặc điểm riêng biệt về tư duy, văn hóa và
ngôn ngữ của từng dân tộc”. [6, tr.1]
Thế giới vật chất là một bức tranh muôn màu muôn vẻ với những gam
màu sống động được con người nhận thức, tư duy và phản ánh thông qua ngôn
ngữ. Tuy nhiên, cách nhận thức của con người về thế giới lại không hồn tồn
giống nhau mà có phần tương đồng và dị biệt. Bởi lẽ, các dân tộc nói những
ngơn ngữ khác nhau sẽ có những cách nhìn khác biệt về “bức tranh thế giới”.
Chính sự khác biệt về tư duy và văn hóa đã gây ra khơng ít khó khăn cho những
người đang trong q trình tiếp cận một ngơn ngữ mới bên cạnh tiếng mẹ đẻ.
Ngày nay, nhu cầu dạy và học ngoại ngữ ngày càng phổ biến. Học viên
học ngoại ngữ đều xuất phát từ mong muốn sử dụng thành thạo và có thể giao
tiếp tốt ngơn ngữ thứ hai như tiếng mẹ đẻ. Để thụ đắc một ngôn ngữ thứ hai, học


2

viên không chỉ phải luyện phát âm, ngữ điệu thật tốt mà còn phải nắm vững các
quy phạm ngữ pháp cũng như lượng từ vựng nhất định của ngôn ngữ đó. Tuy
nhiên, việc học từ vựng là một trong những vấn đề nan giải đối với học viên.
Học viên không thể cùng một lúc tiếp thu và nằm lòng mấy ngàn từ cùng một
lúc, bởi lẽ trong ngôn ngữ bên cạnh lớp từ cơ bản cịn có lớp từ đồng nghĩa, từ
trái nghĩa, từ đơn, từ ghép... Một trong những cách để nắm bắt và sử dụng từ một
cách hợp lý, đúng chức năng, phù hợp với ngữ cảnh là học viên phải biết cách
sắp xếp từ theo các trường từ vựng, chẳng hạn như: trường từ vựng chỉ màu sắc

(xanh, đỏ, tím, vàng...), trường từ vựng chỉ phẩm chất (tốt, xấu, vị tha, hẹp
hịi...), trường từ vựng chỉ kích thước (cao, thấp, nông, sâu, dày, mỏng).v.v...
Phân chia từ theo các trường từ vựng sẽ giúp học viên tiếp thu dễ dàng và nhớ
lâu. Ngày nay, để phục vụ cho nhu cầu học tập và giảng dạy ngoại ngữ thì địi
hỏi phải có những nghiên cứu mang tính chun sâu và cặn kẽ về các trường từ
vựng, trong đó có tiểu trường từ vựng chỉ kích thước khơng gian – một trường từ
vựng có nội hàm ngữ nghĩa trừu tượng, không dễ dàng nắm bắt.
Với cách tiếp cận như trên, chúng tơi chọn đề tài “So sánh nhóm tính từ
chỉ kích thước giữa tiếng Việt và tiếng Anh – Vận dụng vào việc giảng dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài”; trong đó, chúng tơi sẽ tiến hành so sánh
những tính từ chỉ kích thước ở hai ngơn ngữ là tiếng Việt và tiếng Anh. Thông
qua đề tài luận văn, chúng tơi mong muốn góp một phần vào việc tìm hiểu sự
tương đồng và khác biệt về mặt ngữ nghĩa và phương thức thể hiện của nhóm
tính từ chỉ kích thước giữa hai ngơn ngữ Anh và Việt để có thể phục vụ cho nhu
cầu giảng dạy và học tập ngoại ngữ - một trong những bước cơ bản đầu tiên
trong quá trình phát triển và hội nhập vào thế giới đa phương như hiện nay.


3

2. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ ngữ nghĩa của những tính từ chỉ kích thước trong tiếng Việt và tiếng
Anh, tìm ra những nghĩa chưa được làm sáng tỏ, hay cịn mang tính khái qt
cần được miêu tả cụ thể hơn.
- Làm rõ cách thức tri nhận không gian nói chung và kích thước nói riêng trong
hai ngơn ngữ Việt và Anh.
- Lý giải sự khác biệt về từ vựng ngữ nghĩa nhằm hỗ trợ cho việc phục vụ vào
thực tiễn dạy và học tiếng Việt cho người nước ngoải: tìm ra nguyên nhân và
cách khắc phục những lỗi về nghĩa và cách dùng tính từ chỉ kích thước mà học
viên phạm phải.

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3.1. So sánh đối chiếu tiếng Việt và tiếng Anh
Hiện nay, vẫn còn nhiều người hay thắc mắc: học ngoại ngữ dễ hay khó?
Đây là một câu hỏi khó có thể giải đáp một cách tường tận. Bởi lẽ, trong quá
trình học ngoại ngữ, người học sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn về cách phát âm,
ngữ pháp, từ vựng… do sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ - tiếng mẹ đẻ và ngoại
ngữ - mà một trong những nguyên nhân chính là do hiện tượng giao thoa ngơn
ngữ gây ra. Vậy hiện tượng giao thoa ngơn ngữ là gì?
Bàn về hiện tượng giao thoa, theo Nguyễn Văn Chiến [9, tr.46-47), có ba
quan điểm nhìn nhận hiện tượng này như sau:


4

1. Quan điểm tâm lý học – ngôn ngữ: giao thoa là tác động tiêu cực của thói
quen này đối với một thói quen khác có thể xảy ra trong học tập ngoại
ngữ. Đây là sự ô nhiễm (contamination) hành vi, thái độ… có tính chất
tâm lý học.
2. Quan điểm ngôn ngữ học: giao thoa là sự vận dụng các yếu tố của một thứ
tiếng khi nói hoặc viết một thứ tiếng khác. Đây là tai nạn của tính song
ngữ do sự tiếp xúc giữa hai thứ tiếng với nhau. Có thể xảy ra hai trường
hợp tiếp xúc ngơn ngữ: thứ nhất, tiếp xúc ngôn ngữ giữa những người
thuộc các dân tộc cùng cộng cư trên một khu vực địa lý; thứ hai, tiếp xúc
ngơn ngữ trong q trình học tập ngoại ngữ.
3. Quan điểm sư phạm học – sinh ngữ: giao thoa là một loại lỗi đặc biệt mà
học sinh học ngoại ngữ mắc phải do thói quen hoặc do chịu ảnh hưởng tự
nhiên của những mơ hình cấu trúc tiếng mẹ đẻ. Người ta gọi nó là “cái
sai”, “hiện tượng trượt”, “hiện tượng kí sinh”, “chuyển di”. Đây là quá
trình áp đặt tự nhiên một yếu tố nào đó của tiếng mẹ đẻ vào ngoại ngữ,
làm cho những sự kiện ngoại ngữ đi lệch khỏi chuẩn mực ngôn ngữ của

nó.
Trong q trình theo dõi và phân tích cơ chế hoạt động của hiện tượng
giao thoa, người ta nhận thấy rằng: giao thoa ngôn ngữ không xuất hiện một cách
tự nhiên, tùy tiện mà chính yếu tố tương đương (yếu tố chung) nào đó giữa hai
ngơn ngữ đóng vai trò “gợi ý tối nghĩa” cho người học làm họ hiểu sai lệch đi và
đã dẫn đến hành vi áp đặt những yếu tố của tiếng mẹ đẻ vào ngoại ngữ.
Như vậy, có thể thấy tiếng mẹ đẻ đã gây tác động, ảnh hưởng tích cực lẫn
tiêu cực đối với người học ngoại ngữ. Ảnh hưởng tích cực gọi là chuyển di tích
cực - xảy ra khi giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ có sự giống nhau hồn tồn. Còn


5

ảnh hưởng tiêu cực gọi là chuyển di tiêu cực, thường gây cản trở và làm chậm
quá trình học tập. Hiện tượng này xảy ra khi người học hiểu nhầm lẫn, cho rằng:
cấu trúc của ngoại ngữ cũng giống như cấu trúc của tiếng mẹ đẻ; trong khi đó,
các cấu trúc của hai thứ tiếng lại có sự khác biệt. Sự áp đặt cấu trúc tiếng mẹ đẻ
vào cấu trúc ngoại ngữ sẽ dẫn đến việc phạm lỗi. Những lỗi này nếu khơng được
sửa kịp thời thì sẽ được người học ghi nhớ, trở thành thói quen của người học và
rất khó sửa.
Để nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập ngoại ngữ, cần phải tìm cách
khắc phục hiện tượng chuyển di tiêu cực và lợi dụng những chuyển di tích cực,
nghĩa là phải tìm ra những điểm khác nhau và giống nhau giữa tiếng mẹ đẻ và
ngoại ngữ. Việc này có thể thực hiện được nhờ vào việc nghiên cứu đối chiếu hai
ngôn ngữ. Hiện nay, ở nước ta có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, luận văn, luận
án liên quan đến việc so sánh – đối chiếu giữa tiếng Việt và một ngơn ngữ khác
– trong đó có tiếng Anh. Nhìn chung, việc so sánh – đối chiếu được thực hiện ở
tất cả các bình diện của ngôn ngữ: ngữ âm, ngữ pháp, ngữ dụng, ngữ nghĩa, từ
vựng... nhằm chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa tiếng Việt và ngôn ngữ khác
để phục vụ cho nhu cầu giảng dạy và học tập ngoại ngữ cho học viên.

Trên thực tế, việc nghiên cứu so sánh – đối chiếu có một ý nghĩa thực tiễn
đáng kể trong lĩnh vực dạy và học ngoại ngữ. Việc đối chiếu tiếng mẹ đẻ - ở đây
là tiếng Việt – với tiếng Anh sẽ giúp chúng ta giải quyết hàng loạt những vấn đề
thuộc lĩnh vực giảng dạy ngoại ngữ. Một mặt, nó giúp hạn chế những sai sót về
mặt từ vựng, ngữ pháp để vận dụng trong giao tiếp; mặt khác, nó chỉ ra những
hướng tích cực trong việc tiếp thu một ngôn ngữ mới.


6

3.2. Nghiên cứu về tính từ
Về mặt thực tiễn, tính từ đóng vai trị là một thành tố quan trọng không
thể thiếu trong diễn ngôn hằng ngày. Con người sử dụng tính từ để miêu tả tính
chất, đặc trưng hay hình thái của sự vật, hiện tượng xảy ra trong cuộc sống sinh
hoạt đời thường. Điều này góp phần làm cho cách thức thể hiện lời ăn tiếng nói
của chúng ta trở nên sống động, gần gũi và mang tính chân thật hơn.
Về mặt lý luận, tính từ là một trong những từ loại cơ bản góp phần làm
phong phú thêm vốn từ vựng của một ngơn ngữ. Vì vậy, trong các cơng trình
nghiên cứu về từ vựng – ngữ pháp tiếng Việt đều có một phần bàn về tính từ.
Chúng tôi xin liệt kê một số tài liệu như sau:
+Ngữ pháp tiếng Việt của Đinh Văn Đức (1986), Nxb. Đại học và Trung học
Chuyên nghiệp Hà Nội;
+ Chu Bích Thu với “Thành phần đánh giá trong ngữ nghĩa một số tính từ”
(1989), Ngơn ngữ số 1, 2;
+ Một số chuyên luận cùa Hoàng Văn Hành trong Từ ngữ tiếng Việt trên đường
hiểu biết và khám phá, (1991), Nxb. Khoa học Xã hội Hà Nội;
+ Cú pháp tiếng Việt (quyển hai) của Hồ Lê, (1992), Nxb. Khoa học Xã hội Hà
Nội;
+ Ngữ pháp tiếng Việt của Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1999), tập 1,
Nxb. Giáo dục;



7

+ Từ loại tiếng Việt hiện đại của Lê Biên, ĐH Sư phạm Hà Nội.
Tất cả những cơng trình trên đều đạt được những thành tựu nhất định về
nghiên cứu từ loại tính từ. Các nhà ngơn ngữ học đã xem xét tính từ trên nhiều
bình diện khác nhau: ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ dụng và phong cách.
a.

Từ vựng ngữ nghĩa: khi bàn về tính từ, có một số quan điểm như sau:
- Đinh Văn Đức cho rằng: “Tính từ tiếng Việt là từ loại chỉ đặc trưng của tất
cả những khái niệm được biểu đạt bằng danh từ, động từ” [10, tr.157].
- Theo Hồ Lê, tính từ “biểu thị phạm trù đặc trưng của sự vật và cách thức
của hành động” [17, tr.83].
- Nhà nghiên cứu Diệp Quang Ban cho rằng: “Lớp từ chỉ ý nghĩa đặc trưng
(đặc trưng của thực thể hay đặc trưng của quá trình) là tính từ” [1, tr.101].
- Với Lê Biên, “tính từ là những thực từ gọi tên tính chất, đặc trưng của sự
vật, thực thể hoặc của vận động, quá trình hoạt động” [5, tr.104].
Có thể thấy, các nhà nghiên cứu ngơn ngữ đều đưa ra những tiêu chí nhất

định để nhận diện tính từ. Họ có chung một tiêu chí là đều dựa vào “đặc trưng”
để xác định từ loại tính từ. Và tính từ chỉ kích thước được liệt kê vào những loại
tính từ của từ loại tính từ. Hiện tại, chúng tơi vẫn chưa tìm được tài liệu viết
riêng về nhóm tính từ chỉ kích thước, chỉ có hai cơng trình nghiên cứu sau có
liên quan đến nhóm tính từ này như:
- Chu Bích Thu đã tiến hành phân tích ngữ nghĩa của một số tính từ dựa
trên thành phần đánh giá nghĩa của chúng qua “Thành phần đánh giá
trong ngữ nghĩa một số tính từ”. Khi phân tích ngữ nghĩa của một số tính



8

từ như cao, thấp, đẹp, xấu, tác giả đã chỉ ra hai thành tố của chúng: thứ
nhất là thành tố ngữ nghĩa biểu thị thuộc tính của đối tượng, sự vật; thứ hai
là thành tố ngữ nghĩa biểu thị mối quan hệ đánh giá của con người đối với
sự vật đó [35, tr.59]. Ở đây tác giả đã đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu tính
từ ở góc độ cấu trúc, chức năng.
- Hoàng Văn Hành trong “Về cấu trúc nghĩa của tính từ tiếng Việt (trong sự
so sánh với tiếng Nga)” đi sâu vào nghiên cứu nghĩa của tính từ tiếng Việt
qua việc phân chia tính từ chỉ phẩm chất thành hai nhóm: trong đó, nhóm
một bao gồm những tính từ chỉ phẩm chất thang độ, ví dụ như to, nhỏ,
rộng, hẹp; cịn nhóm hai gồm những tính từ chỉ phẩm chất không thang
độ, chẳng hạn như công, tư. Cách nghiên cứu này nhằm làm rõ các thành
phần ngữ nghĩa của từ [13].
b. Ngữ pháp: khi phân loại từ loại tính từ tiếng Việt, trong giới Việt ngữ học
vẫn cịn đang gây tranh cãi về vấn đề: có hay khơng có tính từ trong tiếng
Việt? Điều này đã làm xuất hiện hai khuynh hướng sau:
- Khuynh hướng thứ nhất cho rằng tiếng Việt có tính từ. Nguyễn Tài Cẩn,
Đinh Văn Đức, Hồ Lê…là những người đại diện cho quan điểm này. Đinh
Văn Đức chia tiếng Việt thành thực từ và hư từ, trong đó “thực từ bao gồm
ba loại chủ yếu: danh từ, động từ, tính từ” [10, tr.43]. Còn giáo sư Nguyễn
Tài Cẩn cho rằng động từ và tính từ là hai loại từ rất gần nhau và khó phân
biệt nhưng trong tiếng Việt vẫn có “động từ điển hình” và “tính từ điển
hình” [7, tr.334 - 335].
- Khuynh hướng thứ hai cho rằng trong tiếng Việt không có tính từ. Đại
diện cho quan điểm này chính là Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thị Quy. Cao


9


Xuân Hạo cho rằng: “Các tính từ của tiếng Việt hồn tồn giống các động
từ ở chức năng tự mình làm vị ngữ hay làm trung tâm vị ngữ. Chỉ điều đó
thơi cũng đủ để bác bỏ quan điểm coi động từ và tính từ như hai loại từ
riêng biệt” [14, tr.225]. Ơng cịn khuyến khích nên dùng thuật ngữ “vị từ”
để thay cho cái được gọi là “động từ” và “tính từ”. Bởi lẽ theo ơng khơng
có sự phân biệt giữa tính từ và động từ. Tuy nhiên, quan điểm của tác giả
Cao Xuân Hạo vẫn chưa được nhiều người trong giới Việt ngữ học chấp
nhận.
c.

Phong cách: khi nghiên cứu về các phương tiện tu từ từ vựng, các nhà
phong cách học chú ý đến sự đối lập về sắc thái, biểu cảm, màu sắc, phong
cách giữa hai lớp từ của hai ngôn ngữ.Trong “Phong cách học và đặc điểm tu
từ tiếng Việt”, nhà nghiên cứu Cù Đình Tú gọi các lớp từ chỉ màu sắc, mùi
vị, kích thước, hình dáng, quy mơ, đánh giá… “là lớp từ vựng đa phong cách
biểu thị tính chất” [39, tr.129].
Về việc so sánh tính từ trong tiếng Việt với một ngơn ngữ khác, có thể kể

đến một số cơng trình sau:
- Nguyễn Ái Trà My với luận văn “Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của tính
từ tiếng Việt (so sánh với tiếng Hán hiện đại)” (2007) đã đi sâu vào nghiên
cứu tính từ tiếng Việt ở bình diện cấu tạo và ngữ nghĩa một cách có hệ
thống trong sự so sánh với tiếng Hán.
- Dựa trên sự phân chia tính từ của Diệp Quang Ban, Bùi Đức Tấn với luận
văn “So sánh tính từ đồng nghĩa giữa tiếng Việt và tiếng Anh (2008)” đã đi


10


vào tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt về mặt ngữ nghĩa, mặt ứng dụng
và về sắc thái ý nghĩa của tính từ đồng nghĩa giữa tiếng Việt và tiếng Anh.
- Tóm tắt luận án tiến sĩ ngữ văn “Đặc trưng ngữ nghĩa của nhóm tính từ
chỉ kích thước (trên ngữ liệu tiếng Nga – tiếng Việt) - (2009)” của Nguyễn
Xuân Bình (thuộc trường Đại học Vinh): tác giả luận án đã đi sâu vào tìm
hiểu những nét sắc thái riêng vể mặt ngữ nghĩa của nhóm tính từ chỉ kích
thước giữa hai ngơn ngữ là tiếng Nga và tiếng Việt.
Tóm lại, việc sử dụng tính từ khơng những thể hiện nét độc đáo trong giao
tiếp hằng ngày mà cịn góp phần tạo nên sự phong phú trong cách diễn đạt bằng
ngơn ngữ, qua đó thể hiện cách nhìn, cách nghĩ của từng dân tộc đối với hiện
thực khách quan. Cùng chỉ một khái niệm, một hiện tượng, sự vật như nhau
nhưng mỗi dân tộc lại sử dụng những ngơn từ khác nhau để diễn đạt. Hiện nay,
tính từ chưa được nghiên cứu sâu rộng và riêng biệt, vẫn cịn khoảng trống để
chúng tơi khảo sát thêm về loại thực từ này. Đặc biệt, việc nghiên cứu so sánh
tính từ trong tiếng Việt với ngơn ngữ khác vẫn cịn nhiều bỏ ngỏ.
Luận văn “So sánh nhóm tính từ chỉ kích thước giữa tiếng Việt và tiếng
Anh – Vận dụng vào việc giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài” của
chúng tôi kế thừa và phát triển những thành tựu nghiên cứu có liên quan đến tính
từ của những người đi trước và xem đó là chỗ dựa về mặt lý thuyết cho những
miêu tả, phân tích, lí giải và nhận định trong cơng trình nghiên cứu này.
4. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:


11

- Luận văn nghiên cứu những tính từ chỉ kích thước trong tiếng Việt biểu thị các
ý niệm như cao - thấp, sâu - nông, mỏng - dày, dài - ngắn, rộng - hẹp, to - nhỏ;
bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến hành so sánh với tiếng Anh để tìm hiểu thêm
những nét đặc trưng của nhóm từ này. Đây là những đơn vị tính từ chỉ kích

thước cơ bản bộc lộ nhiều thuộc tính quan trọng của khơng gian ngôn ngữ: theo
phương thẳng đứng (vertical dimension), phương nằm ngang (horizonal
dimension) và ba chiều là: chiều dài (length), chiều rộng (width) và chiều cao
(height).
- Trong luận văn, chúng tôi chủ yếu tập trung vào việc so sánh vấn đề ngữ nghĩa
và cách sử dụng nhóm từ chỉ kích thước trong việc mô tả người, sự vật, hiện
tượng, cách tri nhận về không gian của con người nhằm vận dụng những kết quả
đạt được vào việc dạy và học tiếng Việt cho học viên nước ngoài.
4.2. Giới hạn nghiên cứu
- Do khn khổ có hạn nên chúng tơi chỉ nghiên cứu về đặc trưng ngữ nghĩa và
phương thức biểu hiện của những tính từ chỉ kích thước trong tiếng Việt, có so
sánh đối chiếu với tiếng Anh.
- Đồng thời, chúng tơi cũng đi sâu vào tìm hiểu ngun nhân và lỗi mà học viên
phạm phải đồng thời tìm cách khắc phục những lỗi đó để áp dụng vào việc dạy
và học tính từ chỉ kích thước cho học viên nước ngoài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng những phương pháp sau:


12

- Phương pháp quy nạp: trên cơ sở phân tích các tư liệu bằng tiếng Việt và tiếng
Anh có những phương tiện biểu thị ý nghĩa của nhóm tính từ chỉ kích thước,
chúng tơi tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt trong cách tri nhận về không gian
của người Anh và người Việt.
- Phương pháp miêu tả, phân tích: để so sánh đối chiếu hai hay nhiều ngôn ngữ
khác nhau về mặt loại hình, trước hết, chúng tơi phải miêu tả sơ bộ các ngôn ngữ
được dùng để đối sánh với nhau (ở đây là tiếng Anh và tiếng Việt) dựa trên
những nguyên tắc giống nhau, bằng những thuật ngữ giống nhau. Việc miêu tả sẽ
giúp chúng tôi thấy được những đặc trưng giống và khác nhau của mỗi loại hình

ngơn ngữ cụ thể.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: dựa vào hai mặt
a. Cơ sở đối chiếu: chính là những đặc điểm giống và khác nhau của đối tượng
được khảo sát. Dựa trên sự so sánh- đối chiếu nhóm tính từ chỉ kích thước trong
hai ngơn ngữ Việt – Anh, chúng tơi có thể xác lập được cách thức diễn đạt và
phương thức biểu hiện của nhóm từ này.
b. Phạm vi đối chiếu: ở đây chúng tôi tiến hành đối chiếu về phạm trù ngữ pháp
với mục đích làm sáng tỏ những đặc điểm về mặt hình thức và ý nghĩa. Trong
quá trình so sánh- đối chiếu hai ngôn ngữ là tiếng Anh và tiếng Việt, chúng tôi
lấy tiếng Việt là ngôn ngữ nguồn (ngôn ngữ gốc) làm cơ sở chủ đạo cần được
phân tích và miêu tả, là căn cứ để đối chiếu với tiếng Anh – là ngơn ngữ đích,
được dùng làm phương tiện để so sánh.


13

- Bên cạnh đó, chúng tơi cịn sử dụng phương pháp liên ngành: sử dụng các tri
thức về ngôn ngữ học, văn hóa học, dân tộc học, lịch sử học …và hệ thống hóa
ngữ liệu để tìm ra những nét biểu trưng văn hóa thơng qua việc so sánh đối chiếu
ngơn ngữ.
- Để có thể áp dụng vào việc dạy và học tiếng Việt cho học viên nước ngồi,
chúng tơi tiến hành phỏng vấn kết hợp điều tra bảng hỏi: tìm ra ngun nhân
mắc lỗi của học viên, sau đó tìm cách khắc phục.
Trong những phương pháp kể trên, phương pháp so sánh đối chiếu được
xem là phương pháp cơ bản và được vận dụng nhất quán xuyên suốt luận văn.
Bởi lẽ, qua việc so sánh đối chiếu này, chúng tơi có thể tìm ra được những nét
tương đồng và dị biệt về ngôn ngữ giữa các dân tộc.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục và các cơng trình
nghiên cứu liên quan, luận văn có ba chương với nội dung chính như sau:

Chương 1: Những vấn đề cơ bản của nghiên cứu so sánh - đối chiếu
tính từ Việt-Anh
 Trong nội dung chính của chương một, chúng tơi sẽ trình bày những khái
niệm cơ bản liên quan đến luận văn: so sánh đối chiếu ngơn ngữ, khái
niệm tính từ, so sánh tính từ trong tiếng Việt và tiếng Anh, tính từ chỉ kích
thước. Đây là những khái niệm tiền đề cơ bản giúp chúng tôi định hướng
trong việc nghiên cứu so sánh-đối chiếu tính từ chỉ kích thước Việt – Anh.


14

Chương 2: Đặc trưng ngữ nghĩa của nhóm tính từ chỉ kích thước trong
tiếng Việt và tiếng Anh.
 Dựa trên ngữ liệu từ điển Tiếng Việt của nhà nghiên cứu Hoàng Phê
(Hoàng Phê (2010), Từ điển Tiếng Việt, in lần thứ ba có sữa chữa, Nxb.
Đà Nẵng.) và từ điển tiếng Anh – Oxford Advanced Learner’s Dictionary
(Oxford Advanced Learner’s Dictionary (2010), Oxford University Press),
chúng tôi sẽ lần lượt đi sâu vào trình bày những đặc trưng về ngữ nghĩa và
phương thức thể hiện của nhóm tính từ chỉ kích thước trong hai ngôn ngữ
tiếng Việt và tiếng Anh qua việc mô tả người, sự vật, hiện tượng.
Chương 3: So sánh tính từ chỉ kích thước trong tiếng Việt và tiếng Anh –
Vận dụng vào việc giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài.
 Dựa trên những đặc trưng về ngữ nghĩa và phương thức thể hiện của nhóm
tính từ chỉ kích thước được trình bày ở chương hai, chúng tơi sẽ so sánh
các tính từ theo từng cặp có biểu thị ý niệm chung về nghĩa để tìm ra sự
tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ. Đồng thời, chúng tơi cũng tiến
hành nghiên cứu tìm hiểu những lỗi sai mà học viên nước ngồi phạm phải
và qua đó tìm ra những cách khắc phục nhằm phục vụ cho nhu cầu dạy và
học tiếng Việt.



15

Chương 1
Những vấn đề cơ bản của nghiên cứu so sánh-đối chiếu tính từ Việt-Anh
Tiểu dẫn
Nội dung chính của chương này là đề cập đến các khái niệm cơ bản liên
quan đến luận văn như: so sánh-đối chiếu ngôn ngữ nhìn từ góc độ ngơn ngữ,
văn hố và tư duy, sự tri nhận về không gian trong ngôn ngữ thông qua nhóm
tính từ chỉ kích thước trong tiếng Việt và tiếng Anh.
1.1. So sánh-đối chiếu ngơn ngữ nhìn từ góc độ ngôn ngữ và tư duy
1.1.1. Thuật ngữ so sánh-đối chiếu ngôn ngữ
Một trong những điều kiện giúp người học nắm bắt ngoại ngữ một cách
nhanh chóng và hiệu quả chính là việc họ có thể nhận biết và phân biệt được
những nét tương đồng và dị biệt giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ. Việc này được
thực hiện thông qua sự so sánh đối chiếu giữa hai ngôn ngữ.
So sánh là thao tác tư duy giúp con người nhận thức hiện thực khách quan,
nhìn vào cái này mà xem xét cái kia để thấy được sự giống nhau, khác nhau hoặc
sự hơn kém. Quá trình so sánh là quá trình vạch ra những thuộc tính về lượng và
chất của đối tượng nhận thức, phân loại sắp xếp và đánh giá nội dung các sự kiện
nhận thức. Hoạt động so sánh là hoạt động đối chiếu “một cái này” với “một cái
khác”, nhằm vạch ra mồi quan hệ và liên hệ giữa chúng. Cuối cùng, nhờ vào so
sánh mà thế giới hiện ra như một bức tranh đa dạng của những sự kiện, hiện
tượng gắn bó chặt chẽ với nhau [9, tr.11]. Trong ngôn ngữ học, so sánh là một
thủ pháp phân tích, một phương pháp nghiên cứu các tài liệu ngơn ngữ. Những
kinh nghiệm tích lũy được từ sự so sánh - phân tích các sự kiện ngơn ngữ, các tài
liệu ngơn ngữ là cơ sở cho việc hình thành một ngành học lớn: ngôn ngữ học so
sánh. Trên lý thuyết so sánh chung, các phân ngành nhỏ của ngôn ngữ học so



16

sánh được xác lập: ngôn ngữ học miêu tả, ngôn ngữ học so sánh lịch sử, ngôn
ngữ học so sánh loại hình, và cả ngơn ngữ học so sánh đối chiếu.
Dựa trên cơ sở của nguyên lý so sánh, ngôn ngữ học so sánh-đối chiếu là
một bộ môn ngôn ngữ học độc lập, hồn tồn khác với ngơn ngữ học so sánh lịch
sử, ngơn ngữ học so sánh loại hình cả về nhiệm vụ, mục đích, phương pháp, và
những nguyên tắc nghiên cứu so sánh. Ngôn ngữ học so sánh-đối chiếu chủ yếu
hướng tới việc so sánh hai hay nhiều ngơn ngữ mà trong đó giữa các ngơn ngữ
này khơng có mối quan hệ họ hàng, quan hệ loại hình hay khu vực địa lý…
chẳng hạn như: tiếng Đức với tiếng Pháp, tiếng Anh với tiếng Việt… Và việc so
sánh như vậy được thực hiện chủ yếu ở bình diện đồng đại [9, tr.17]. Đây cũng
chính là nguyên do lý giải vì sao mà chúng tơi lại sử dụng thuật ngữ so sánh - đối
chiếu trong luận văn nhằm nêu rõ cách thức chúng tơi tiến hành trong q trình
phân tích đề tài.
Sự phát triển của tri thức khoa học là một q trình liên tục và mang tính
kế thừa, có chọn lọc. Các thuật ngữ khoa học lần lượt ra đời để miêu tả và gọi
tên các hiện tượng thay đổi trong mối quan hệ biện chứng lịch sử đó, trong đó có
thuật ngữ về nghiên cứu so sánh đối chiếu ngôn ngữ. Thuật ngữ "đối chiếu" được
dùng để chỉ phương pháp hoặc phân ngành nghiên cứu mà đối tượng chủ yếu là
hai hay nhiều ngơn ngữ. Mục đích của nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ là làm
sáng tỏ những nét tương đồng và dị biệt hoặc chỉ làm sáng tỏ những nét không
tương đồng của hai hay nhiều ngơn ngữ. Để có được tên gọi chính xác và đúng
với ý nghĩa và chức năng biểu thị ngôn ngữ, thuật ngữ “đối chiếu”cũng phải trải
qua một quá trình hình thành, khơng ngừng thay đổi để hồn thiện và được dùng
phổ biến như ngày nay.


17


Trong tiếng Nga, thuật ngữ "đối chiếu ngôn ngữ" (phương pháp đối chiếu,
ngôn ngữ học đối chiếu) được đưa vào sử dụng khá sớm bởi các nhà ngôn ngữ
học như E.D.Polivanov (1933), V.D.Arakin (1946), V.H.Jaxeva (1960),
V.G.Gak (1961), N.P.Fedorov (1961), O.C.Akanova (1966) và v.v. Từ 1970 đến
nay, trong ngôn ngữ học hiện đại, thuật ngữ được sử dụng nhiều hơn cả là "ngôn
ngữ học đối chiếu" (contrastive linguistics).
Trong tiếng Anh, lúc đầu thuật ngữ "so sánh" (comparative) với nội dung
đối chiếu được phổ biến. Từ năm 1960 trở về sau, thuật ngữ "ngôn ngữ học đối
chiếu" (contrastive linguistics) bắt đầu được sử dụng rộng rãi, dần dần thay thế
cho thuật ngữ "so sánh" (comparative). Tuy nhiên, trong ngôn ngữ học Anh, các
thuật ngữ truyền thống được dùng tương đối lâu dài. Ví dụ, trong các cơng trình
của Haliday, Mackintơn, Tơrevưn và một số tác giả khác, thuật ngữ "so sánh"
(comparative) vẫn được sử dụng đến năm 1961, còn Elie đã dùng thuật ngữ
"comparative" với nghĩa đối chiếu cho đến năm 1966. Theo từ điển nhiều tập
Oxford (1933), tính từ "comparative" được định nghĩa căn cứ vào cách dùng của
từ này khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Nội dung nghĩa thường nhấn
mạnh đối chiếu những điểm khác nhau giữa hai hoặc hơn hai đối tượng được
khảo sát, theo thời gian, thuật ngữ "đối chiếu" được sử dụng với nghĩa mở rộng
để chỉ đúng hiện thực nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ.
Trong tiếng Pháp, việc sử dụng thuật ngữ "đối chiếu" cũng diễn ra tương
tự: thời kì đầu sử dụng thuật ngữ "comparée" và các từ phái sinh của nó. Sau đó,
thuật ngữ "contrastive" được thay thế cho "comparative" mang nghĩa đối chiếu
và ngày càng được sử dụng rộng rãi (Potie 1971, Duboa 1973, Gato 1974, Pioro
1977 và v.v.). Hiện nay, trong các tài liệu bằng tiếng Pháp thường sử dụng phổ


×