Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Từ hướng tiếp cận thi pháp, vận dụng vào việc giảng dạy tác phẩm Nguyễn Minh Châu trong chương trình trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐINH THỊ DOANH

TỪ HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP, VẬN DỤNG VÀO VIỆC
GIẢNG DẠY TÁC PHẨM NGUYỄN MINH CHÂU
TRONG CHƢƠNG TRÌNH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MƠN NGỮ VĂN)
Mã số
: 60 14 10

TĨM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2010


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ
của các thầy cô và những người thân. Nhân dịp này, em xin gửi lời cảm ơn chân
thành và lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo - PGS.TS Trần Khánh Thành, người
hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo, động viên, khích lệ em trong suốt q
trình nghiên cứu, thực hiện đề tài.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cơ trong trường Đại học GiáoDục, cảm
ơn phịng quản lý khoa học đã nhiệt tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện giúp đỡ
em trong quá trình học tập, thực hiện đề tài.
Xin gửi lời cảm ơn tới bạn bè, đồng nghiệp cùng những người thân yêu
trong gia đình đã giành cho tơi sự quan tâm, khích lệ và chia sẻ trong suốt thời gian
học tập và nghiên cứu.


Hà Nội, tháng 11.2010.
Tác giả luận văn

Đinh Thị Doanh.


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GS

Giáo sư

PGS.TS

Phó giáo sư- tiến sĩ

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

THPT

Trung học phổ thông

SGK


Sách giáo khoa

SGV

Sách giáo viên

CTNX

Chiếc thuyền ngoài xa

PPGDTPVC

Phương pháp giảng dạy tác phẩm văn chương

TPVC

Tác phẩm văn chương

TPVH

Tác phẩm văn học

TP

Tác phẩm


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………….

1

2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………...

3

3. Đối tượng nghiên cứu ………………………………………………..

7

4.Phạm vi nghiên cứu. ………………………………………………….

7

5. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………

8

6. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………..

8

7. Đóng góp của luận văn……………………………………………….

8

8. Cấu trúc của luận văn…………………………………………………


8

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ DẠY VĂN THEO HƢỚNG THI
PHÁP HỌC VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN
MINH CHÂU CÙNG SỰ BIẾN ĐỔI VỀ THI PHÁP……………….

9

1.1. Một số vấn đề dạy văn theo hướng Thi pháp học…………………..

9

1.2. Đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975- một nhà
văn “mở đường tinh anh” và “đi được xa nhất”…………………………

17

1.2.1. Đổi mới ở quan niệm nghệ thuật và tư duy nghệ thuật…………...

17

1.2.2. Những đổi mới trong thi pháp thể loại của Nguyễn Minh Châu…

19

1.3. Chiếc thuyền ngoài xa - một tác phẩm khẳng định tài năng và vị trí
của nhà văn Nguyễn Minh Châu………………………………………..

40


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY TÁC PHẨM NGUYỄN
MINH CHÂU Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG VÀ VIỆC VẬN DỤNG
THI PHÁP HỌC TRONG GIẢNG DẠY TÁC PHẨM NGUYỄN
MINH CHÂU………………………………………………

41

2.1. Tình hình giảng dạy tác phẩm Nguyễn Minh Châu trong nhà trường
phổ thơng………………………………………………………………..

41

2.1.1. Những thuận lợi và khó khăn khi giảng dạy tác phẩm Nguyễn
Minh Châu trong nhà trường phổ thông……….………………………..

41

2.1.2. Điều tra thực trạng dạy - học truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
ở lớp 12 THPT………………………………….……………………….
2.2. Đề xuất biện pháp vận dụng thi pháp học trong việc giảng dạy tác

44


phẩm Nguyễn Minh Châu nói riêng, thể loại truyện ngắn nói chung…...

52

2.2.1. Dạy học tác phẩm văn chương theo thi pháp thể loại ……………


52

2.2.2. Hiểu được phong cách sáng tác và tạng nghệ sỹ của nhà văn …...

57

2.3. Một số giải pháp thiết thực khi dạy học truyện ngắn Chiếc thuyền
ngồi xa………………………………………………………………………….

57

2.3.1. Đọc kết hợp khơi gợi hình ảnh và tâm trạng……………………..

57

2.3.2. Sử dụng linh hoạt các dạng câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực,
tự giác của học sinh……………………………………………………..

61

2.3.3. Hướng dẫn học sinh tiếp cận đồng bộ tác phẩm …………………

64

2.3.4. Hướng dẫn học sinh cắt nghĩa tác phẩm , so sánh để mở rộng và
khắc sâu ấn tượng của học sinh về tác phẩm …………………………...

66

2.3.5. Kết hợp các con đường để phân tích tác phẩm…………………...


72

2.3.6. Khơi gợi để học sinh bình giá…………………………………….

80

2.3.7. Tạo tình huống học tập đối thoại từ mở đầu đến kết thúc giờ dạy.

87

Chƣơng 3: THIẾT KẾ BÀI GIẢNG VỀ TÁC PHẨM CHIẾC THUYỀN
NGOÀI XA……………………………………………………………………..

91

3.1. Giáo án thể nghiệm ………………………………………………...

91

3.2. Thực nghiệm ……………………………………………………….

116

3.2.1. Mục đích thực nghiệm……………………………………………

116

3.2.2. Chọn địa bàn, lớp thực nghiệm…………………………………...


116

3.2.3. Thời gian thực nghiệm……………………………………………

116

3.2.4. Dạy thực nghiệm………………………………………………….

117

3.2.5. Tiến hành đưa câu hỏi khảo sát để kiểm tra kết quả thực nghiệm…...

117

3.2.6. Đánh giá…………………………………………………………..

117

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ……………………………………

119

1. Kết luận ………………………………………………………………

119

2. Khuyến nghị…………………………………….…………………….

119


TÀI LIỆU THAM KHẢO…………...…………….…………………..

121


MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng - nhà giáo dục Việt Nam đã khẳng định:
“Nghề dạy học là nghề sáng tạo bậc nhất vì nó sáng tạo ra những con người
sáng tạo” [14,1]. Bản chất của dạy học là sáng tạo thì mọi cái phục vụ cho q
trình đó cũng phải ln sáng tạo, mà con đường ngắn nhất dẫn chúng ta tiệm
cận với quan điểm đó là phương pháp.
Lựa chọn đề tài “Từ hướng tiếp cận thi pháp, vận dụng vào việc giảng
dạy tác phẩm Nguyễn Minh Châu trong chương trình trung học phổ thơng”
làm cơng trình nghiên cứu khoa học, chúng tơi dựa vào các lí do sau:
1.1. Do u cầu của xã hội đối với dạy học văn hiện nay
Thực tiễn giảng dạy đã chỉ ra rằng dạy học văn ở nhà trường phổ thông
Việt Nam hiện nay bên cạnh những thành cơng đáng kể vẫn cịn bộc lộ khơng
ít những hạn chế về nhiều mặt. Thực trạng giờ dạy văn cịn đơn điệu, tẻ nhạt
khiến học sinh khơng hứng thú học văn, điều đó dẫn đến chất lượng các giờ
dạy văn ngày càng giảm sút, các TPVH có giá trị chưa thực sự tìm được bến
đỗ xứng đáng trong lịng bạn đọc. Tất cả những điều đó khiến cho xã hội đang
đổ dồn mọi con mắt và dư luận vào dạy và học mơn văn, mạnh mẽ hơn, cịn
trở thành một làn sóng phản đối quyết liệt vào chương trình, SGK và PPDH
bộ mơn: dường như cả xã hội đang lên tiếng yêu cầu phải xem xét lại nội
dung chương trình, SGK và PPDHTPVC trong nhà trường hiện nay. Điều đó
khiến cho các nhà chun mơn, các nhà sư phạm, các nhà phương pháp và
nhất là những GV trực tiếp giảng dạy Ngữ văn khơng khỏi giật mình.
1.2. Do yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học văn nói riêng
Mục đích của việc đổi mới PPDH ở nhà trường phổ thông hiện nay là thay đổi

lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo những phương pháp tích
cực nhằm giúp HS phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn
luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, khả năng vận dụng kiến

1


thức vào thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập; làm cho
Học là một quá trình kiến tạo, HS tìm tịi, khám phá, phát hiện, luyện tập,
khai thác và xử lý thơng tin, tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất.
Có thể khẳng định, mục đích cao nhất của việc đổi mới phương pháp là giúp
HS có thể chủ động tự học dưới sự hướng dẫn của GV. Trong giờ học, HS
phải thực sự hoạt động, phải luôn luôn động não chứ không phải chỉ có hoạt
động bên ngồi, hoạt động hình thức.
Mơn văn trong nhà trường cũng nằm trong quỹ đạo chung của việc đổi
mới PPDH ấy. Vai trò của người dạy và người học văn trong nhà trường hiện
nay đã thay đổi. Người dạy khơng cịn là nguồn tri thức duy nhất, độc nhất
cung cấp kiến thức cho HS nữa mà trở thành người định hướng, người “bạn
lớn” đồng hành cùng HS trên con đường đi tìm chân lí khoa học và giải mã
nghệ thuật. Người học khơng cịn là cái “bình chứa”, là cái “phễu” để người
thầy “nhồi nhét” và “rót” kiến thức vào nữa, mà là “một cánh chim - biết tư
duy” luôn chứa đựng khát vọng khám phá và bay lên. Ở họ hội tụ đủ mọi
phẩm chất, năng lực như tính tích cực, lịng đam mê, tinh thần độc lập, tự chủ
trong hành động, có nhu cầu hợp tác với người khác và có xu thế phá vỡ mọi
giới hạn của tư duy. Như vậy, thật không ngần ngại khi nói rằng đây là vấn đề
tiên quyết làm thay đổi thực trạng dạy học văn hiện nay.
1.3. Do u cầu từ phía bản thân bộ mơn
Ngữ văn là một môn khoa học, nhưng là khoa học của nghệ thuật, khoa
học xã hội. Dạy văn là nhằm nâng cao nhân cách cho người học, học văn là để
làm đẹp thêm đời sống tâm hồn. Bản thân văn học là sản phẩm của trí tuệ và

tình cảm, của cảm xúc nội tâm bên trong chủ thể mỗi nhà văn, đó là kết quả
của những bộ óc thơng minh và đầy sáng tạo của người nghệ sĩ, nó chứa đựng
khơng cùng những nội dung và ý nghĩa. Bởi vậy việc khai thác các giá trị văn
học không chỉ thuộc về một người hay một lớp người nào đó, mà đó là công
việc của mọi độc giả, của nhiều thế hệ người đọc, của hôm nay và mai sau.

2


Cho nên, bản thân văn học yêu cầu người tiếp nhận nó cũng phải bằng trí
thơng minh, óc sáng tạo, khả năng liên tưởng và tưởng tượng, điều này,
phương pháp dạy học cũ đã “vơ tình bỏ qua”. Mặt khác vấn đề dạy theo loại
thể của TP cần được đặc biệt chú ý bởi đặc trưng thể loại TPVC sẽ chi phối
các cách tiếp nhận. Mỗi thể loại, mỗi TP thuộc các thể loại khác nhau đều địi
hỏi có cách dạy, cách học phù hợp.
1.4. Nguyễn Minh Châu - một nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại
nửa sau thế kỷ XX. Đặc biệt ông là người “mở đường tinh anh và tài năng”
người “đi được xa nhất”, đặt những viên gạch đầu tiên làm nền móng cho công
cuộc đổi mới văn học nước nhà. Truyện ngắn CTNX là TP mới được đưa vào
chương trình THPT nên chưa có sự thống nhất về cách hiểu, cách đánh giá,
cách giảng dạy.
Với tất cả những lí do như trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài nghiên
cứu khoa học “Từ hướng tiếp cận thi pháp, vận dụng vào việc dạy học tác phẩm
Nguyễn Minh Châu trong chương trình trung học phổ thông” như là một niềm
say mê và cũng là một thử thách, một hướng tìm tịi nhằm nâng cao hiệu quả
công tác trong thực tế giảng dạy của bản thân, đồng thời hi vọng góp một tiếng
nói nhỏ bé vào công cuộc đổi mới PPDH văn trong nhà trường hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Là một nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ, kể từ truyện
ngắn đầu tay được đăng lần đầu năm 1960, cho đến khi tạ thế năm 1989,

Nguyễn Minh Châu đã có 30 năm hoạt động trên các lĩnh vực báo chí và văn
học nghệ thuật. Với những đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà,
Nguyễn Minh Châu đã được nhận nhiều giải thưởng giá trị. Toàn bộ sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu được in trong Nguyễn Minh Châu
toàn tập (5 tập) do nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2001 là một sự trân
trọng đối với Nguyễn Minh Châu của hậu thế, đồng thời khẳng định vị trí của
ơng trong nền văn học dân tộc.

3


Các TP của Nguyễn Minh Châu luôn nhận được những tình cảm quý báu
của độc giả và giới phê bình văn học. Nhiều bài báo, nhiều cơng trình nghiên
cứu, nhiều chuyên luận dày công về tác giả và TP của Nguyễn Minh Châu đã
chứng minh điều đó. Chỉ trong khoảng 5 năm, từ Cửa sơng (1967) đến Dấu
chân người lính (1972) đã có hơn 17 bài phê bình đăng rải rác trên các báo và
tạp chí Trung Ương. Hầu hết các bài viết về con người và TP của ông được
tập hợp trong Nguyễn Minh Châu – con người và tác phẩm do hai tác giả Tôn
Phương Lan và Lại Nguyên Ân sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn, và Nguyễn
Minh Châu – kỉ yếu hội thảo 5 năm ngày mất của Hội văn học nghệ thuật
Nghệ An. Gần đây nhất, tác giả Nguyễn Trọng Hoàn cho ra mắt cuốn Nguyễn
Minh Châu - về tác gia và tác phẩm. Đây là một cơng trình tập hợp nhiều bài
viết, bài nghiên cứu về tác gia và TP Nguyễn Minh Châu trong một khoảng
thời gian dài ở cả hai giai đoạn sáng tác của nhà văn. Tìm hiểu sâu về phong
cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, tác giả Tơn Phương Lan có cơng trình
dày dặn và sâu sắc Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu. Ngồi ra cịn
có nhiều chun luận, bài báo, khoá luận tốt nghiệp của sinh viên, luận văn
thạc sĩ của học viên cao học và luận án tiến sĩ của nghiên cứu sinh về tác gia,
TP Nguyễn Minh Châu. Một số TP xuất sắc đã được chuyển thể thành kịch
bản phim như Mảnh trăng, Khách ở quê ra, Cỏ lau, Bức tranh….Tháng 6

năm 1985, Tuần báo Văn nghệ đã tổ chức một cuộc thảo luận lớn với nội
dung Trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu
với sự tham gia của nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình văn học lớn, đặc
biệt có sự góp mặt của chính tác giả Nguyễn Minh Châu. Đây là một cuộc
trao đổi đầy ý nghĩa và cởi mở với nhiều ý kiến khác nhau về TP Nguyễn
Minh Châu, có khen, có chê, có đồng tình, có phản đối. Điều đáng lưu ý là
hầu hết mọi người đều công nhận những đổi mới không chỉ so với các nhà
văn cùng thời, mà quan trọng hơn là so với chính ơng thời kì trước đó.

4


Có thể nói, Nguyễn Minh Châu là nhà văn mà “cái đa giọng điệu, cái đa
thanh của cuộc đời đã đi vào TP” và do nhận thức “cái quyết định không phải
là đề tài” nên Nguyễn Minh Châu đã “dần dần tạo ra thế giới nghệ thuật của
riêng mình” [31]. Sau khi qua đời, những đổi mới nghệ thuật của Nguyễn
Minh Châu dần được nhận diện, Nguyễn Tri Nguyên tìm đến Những đổi mới
về thi pháp trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975, Nguyễn Văn
Hạnh với Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con
người, Lã Nguyên tìm hiểu Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi
mới tư duy nghệ thuật. Đặc biệt, tác giả Tôn Phương Lan đề cập đến nhiều
phương diện cách tân nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu khi tìm hiểu phong
cách nghệ thuật của ơng v.v…Ngồi ra cịn nhiều bài báo, bài viết, nhận xét,
nhận định khác nữa về vấn đề này, mà theo chúng tơi có thể lấy làm dữ kiện
để phát huy, phát triển tư duy, trí thơng minh, óc sáng tạo của HS.
2.2. Tác giả Nguyễn Minh Châu trở nên quen thuộc với GV và HS THPT từ
lâu, với truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng – một TP viết về đề tài chiến tranh
mà đẹp như một áng thơ trữ tình. Vấn đề giảng dạy TP này cũng đã được đề
cập đến ở nhiều công trình, bài viết. Riêng chuyên ngành phương pháp cũng
đã nghiên cứu TP hoặc từng khía cạnh của TP để giúp việc giảng dạy đạt hiệu

quả. Có thể kể đến Cái hay, cái đẹp của Mảnh trăng cuối rừng, (Nguyễn
Thanh Hùng); Vẻ đẹp của Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Văn Long); Vẻ đẹp
của nhân vật Nguyệt và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Minh Châu
(Nguyễn Văn Bính); Cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy (Nguyễn Hịa); Nghệ thuật
kể chuyện trong Mảnh trăng cuối rừng (Thanh Tú)... Nhưng trong chương
trình Ngữ văn 12 mới, truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng được thay bằng
truyện ngắn CTNX. Một vấn đề lại được đặt ra là việc dạy học TP mới này
như thế nào? Trong các chuyên luận, bài viết CTNX đã được đề cập đến ở khá
nhiều góc độ. Ở phương diện quan niệm nghệ thuật, tư duy nghệ thuật Trần
Đình Sử trong bài viết “Bến quê”- một phong cách nghệ thuật giàu chất triết

5


lý đã đánh giá “CTNX là truyện về nghịch lý của đời thường. Và từ TP ta thấy
toát lên những suy nghĩ da diết về chân lý nghệ thuật và đời sống”. Nhà
nghiên cứu đã kết luận khái quát: “Rõ ràng cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn
Minh Châu đang mang lại những hiện tượng mới, chủ đề mới có ý nghĩa bức
thiết với đời sống hôm nay” [47]. Nguyễn Trọng Hồn trong Tiếp tục hành
trình đọc Nguyễn Minh Châu đã viết “CTNX phê phán cái nhìn lãng mạn một
chiều về cuộc sống, đồng thời đặt ra trách nhiệm của nghệ thuật là phải đào
sâu khám phá để tìm ra bản chất của hiện thực” [23,9].
Còn ở phương diện thi pháp thể loại của CTNX cũng được nhiều tác giả
đi sâu tìm hiểu. Dương Thị Thanh Hiên trong Truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu đã khẳng định: “Biểu tượng trong CTNX là biểu tượng hữu hình hóa
những chiêm nghiệm mang tính tổng kết sâu sắc về chân lý nghệ thuật... nhà
văn đã phát hiện ra những tình thế nghịch lý của cuộc đời... sự thật ẩn đằng
sau làn sương lãng mạn khiến người nghệ sỹ phải sững sờ trước tình cảnh bất
ngờ và bất nhẫn, hiện hình của cái đẹp là sự xấu xa, độc ác, là sự cam chịu,
nhẫn nhục, khốn cùng... Sử dụng những biểu tượng trong các dạng tình huống

này, Nguyễn Minh Châu đã tạo nên những cái cớ để lật xới những vấn đề vốn
thao thức trong ông và tạo nên những ám ảnh sâu sắc trong nhận thức người
đọc” [14,9].
Trịnh Thu Tiết khi bàn về Một số cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu đã cho rằng: “CTNX có cốt truyện xây dựng trên những nguyên
tắc luận đề. Từ một xung đột đầy nghịch lý, Nguyễn Minh Châu nêu ra một
vấn đề nhận thức cần suy nghĩ. Cốt truyện dựa trên hai phát hiện của người
nghệ sỹ nhiếp ảnh... để từ đó đưa ra đề nghị: nhận thức bản chất của hiện thực
phải có cái nhìn đa diện và tỉnh táo” [14,9].
Tác giả Tôn Phương Lan trong bài viết Phong cách nghệ thuật Nguyễn
Minh Châu đã nhận xét “lối ví von so sánh của Nguyễn Minh Châu bao giờ
cũng phù hợp với đề tài của truyện. Ông sử dụng những hình ảnh, sự vật ngay

6


trong môi trường cảnh quan mà nhân vậy sống. Trong CTNX, ông miêu tả
“tấm lưng rộng và cong như chiếc thuyền”, “những món tóc vàng hoe như mớ
lưới to đã bợt bạt”...[24].
Nhìn chung là truyện ngắn CTNX mới chỉ được tiếp nhận trên góc độ nghiên
cứu, cịn về góc độ PPDH thì mới có một vài luận văn thực hiện bên trường Đại
Học Sư Phạm 1 như Định hướng dạy học truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
của Nguyễn Minh Châu (Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục của Nguyễn Thị Lan
Hương, 2004); Vận dụng quan điểm dạy học phát triển trí thơng minh của học sinh
vào dạy học “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu (Luận văn thạc sỹ
khoa học giáo dục của Đinh Văn Đoàn, 2008); Định hướng hoạt động học sáng tạo
cho học sinh lớp 12 khi dạy học “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu
(Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục của Hoàng Văn Vĩnh, 2008), nhưng chưa có
cơng trình, bài viết, đề tài nào đi sâu vào vấn đề giảng dạy truyện ngắn này từ
hướng tiếp cận thi pháp một cách đầy đặn.

Song những cơng trình nghiên cứu về nhà văn Nguyễn Minh Châu và
truyện ngắn CTNX là những tài liệu vô cùng quý báu giúp chúng tôi thực hiện
đề tài nghiên cứu khoa học này.
3. Đối tượng nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đổi mới tư duy nghệ thuật
của Nguyễn Minh Châu sau 1975.
+ Truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng, CTNX.
+ Việc giảng dạy TP Nguyễn Minh Châu cho HS lớp 12 từ hướng tiếp
cận thi pháp.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là đặc trưng thi pháp thể loại, thi pháp
tác giả, hành trình sáng tạo nghệ thuật Nguyễn Minh Châu và sự biến đổi về
thi pháp; và từ hướng tiếp cận thi pháp soạn giáo án thể nghiệm với truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu (qua tác phẩm CTNX).

7


5. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng lý thuyết về thi pháp thể loại, thi pháp tác giả vào việc dạy học
TP Nguyễn Minh Châu trong nhà trường trung học phổ thơng nhằm góp phần
đổi mới PPDH Ngữ văn và thực hiện những nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu
dài mà ngành giáo dục đã đặt ra: không dạy đọc - chép; khơng tiêu cực trong
thi cử...qua đó nhằm giải quyết một số khó khăn mà chương trình, SGK, và
PPDH mới đề ra, giúp cho việc giảng dạy những TP mới được đưa vào nhà
trường được hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn văn
trong nhà trường hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp
nghiên cứu chính sau đây:

- Phương pháp nghiên cứu tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học.
- Phương pháp khảo sát, thực nghiệm, thống kê, phân tích.
7. Đóng góp của luận văn
- Về lý luận: khẳng định hướng đổi mới đúng đắn, khả thi của PPDH
TPVC từ hướng tiếp cận thi pháp.
- Về thực hành: khảo sát và đánh giá thực trạng dạy học TP Nguyễn
Minh Châu ở lớp 12 nhằm hồn thiện mơ hình dạy TPVC từ hướng tiếp cận
thi pháp, giúp đồng nghiệp có thêm tư liệu soạn giảng, nâng cao chất lượng
dạy học truyện ngắn Nguyễn Minh Châu nói riêng, thể truyện ngắn nói riêng.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngồi phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề dạy học văn theo hướng Thi pháp học và hành
trình sáng tạo của Nguyễn Minh Châu cùng sự biến đổi về thi pháp.
Chương 2. Thực trạng giảng dạy tác phẩm Nguyễn Minh Châu ở nhà
trường phổ thông và việc vận dụng thi pháp học trong việc giảng dạy tác
phẩm Nguyễn Minh Châu.
Chương 3. Thiết kế bài giảng về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.

8


Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ DẠY HỌC VĂN THEO HƯỚNG THI
PHÁP HỌC VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN MINH
CHÂU CÙNG SỰ BIẾN ĐỔI VỀ THI PHÁP
1.1. Một số vấ n đề da ̣y ho ̣c văn theo hướng Thi pháp ho ̣c
Thi pháp học đang thu hút sự quan tâm của giới học đường. Nó xuất
hiện ở Hy Lạp từ thời cổ đại với Nghệ thuật thi ca của Aristote và nó chỉ trở
thành một bộ mơn khoa học vào đầu thế kỷ XX ở Nga rồi dịch chuyển sang

Âu - Mỹ và phổ biến khắp thế giới. Ở Việt Nam trước 1975, Thi pháp học đã
thâm nhập vào miền Nam nhưng chưa có điều kiện phổ biến ở miền Bắc, mãi
đến sau Đổi mới, nó mới được chú ý và nhanh chóng trở thành “mốt” thời
thượng được nhiều người vận dụng. Thi pháp học được dạy ở bậc Cao học,
Đại học và có trong sách bồi dưỡng thường xuyên GV trung học. Tinh thần
Thi pháp học đang thấm dần trong SGK, trong giờ dạy - học văn và trong bài
làm văn HS.
Hiện nay, có nhiều cách hiểu về Thi pháp học. Trong nhà trường, thi pháp
học là cách thức phân tích TP bám vào văn bản là chính, khơng chú trọng đến
những vấn đề nằm ngồi văn bản như: tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh sáng tác,
nguyên mẫu nhân vật, giá trị hiện thực, tác dụng xã hội… Thi pháp học chỉ chú
ý đến những yếu tố hình thức TP như: hình tượng nhân vật - khơng gian - thời
gian, kết cấu - cốt truyện - điểm nhìn, ngơn ngữ, thể loại… Nội dung trong TP
phải được suy ra từ hình thức, đó là “hình thức mang tính quan niệm” (Trần
Đình Sử). Phương pháp chủ yếu của Thi pháp học là phương pháp hình thức.
Phương pháp hình thức là phương pháp phân tích các khía cạnh hình thức của
TPVH nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của nó. Dạy Văn theo hướng Thi
pháp học nghĩa là nghiêng về phân tích hình thức nghệ thuật TP.
Một trong những phạm trù quan trọng hàng đầu của Thi pháp học là thể
loại, nó chi phối tất cả các yếu tố cịn lại của hình thức TP. Khơng phải ngẫu
nhiên mà SGK thường sắp xếp TP theo thể loại. Chẳng hạn, trong sách Ngữ

9


văn 11, nâng cao, tập 1, HS được học và đọc thêm liền mạch các TP truyện
như: Hai đứa trẻ, Cha con nghĩa nặng, Chữ người tử tù, Vi hành, Số đỏ, Việc
làng, Chí Phèo, Tinh thần thể dục, Đời thừa đi kèm với bài Đọc tiểu thuyết và
truyện ngắn. Mỗi thể loại có một đặc điểm riêng và yêu cầu phân tích theo
một phương pháp riêng. Mỗi khi dạy tới một thể loại, SGK thường nêu chú

thích về đặc trưng của thể loại đó. Có một số thể loại có thể nói lướt qua
nhưng cũng có thể loại cần phải học kỹ lưỡng tại lớp. Chương trình Ngữ văn
có các phần dạy luật thơ để HS vận dụng sáng tác văn học như: Tập làm thơ
bốn chữ (lớp 6), Làm thơ lục bát (lớp 7), Làm thơ bảy chữ (lớp 8), Tập làm
thơ tám chữ (lớp 9), Luật thơ Đường (lớp 10), Luật thơ (lớp 12)... SGK Lớp
10 (nâng cao) có một số câu hỏi về thể loại như: Anh (chị) hiểu thế nào là thể
truyền kỳ qua TP Chuyện chức phán sự đền Tản Viên? Anh (chị) hiểu thế nào
là văn biền ngẫu?... Dạy bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, cần chỉ ra vẻ đẹp hình
thức của thể văn biền ngẫu như: các vế phải đối nhau về số tiếng, thanh điệu,
nhịp, nội dung, tất cả các câu đều gieo theo một vần, sử dụng nhiều điển cố và
từ ngữ giàu hình ảnh…Có như vậy HS mới thấy được kỳ cơng của Nguyễn
Đình Chiểu và ngưỡng mộ tài năng nghệ thuật của ơng. Dạy thể loại cịn phải
chú ý tới “tính nội dung của thể loại”. Như thơ thất ngơn bát cú mang tính cổ
kính, trang trọng, thơ lục bát đậm đà tính dân tộc, thơ tự do cho thấy tâm hồn
phóng khống của tác giả… Nhiều nhà văn thích sử dụng một thể loại nhất
định và chính điều này góp phần làm nên phong cách của nhà văn đó.
Nhân vật là hình tượng trung tâm của TP. Thi pháp học xem xét nhân
vật ở ba khía cạnh: tính cách nhân vật, quan niệm nghệ thuật về con người,
nghệ thuật miêu tả nhân vật. Khi phân tích tính cách nhân vật, cần lưu ý đến
kiểu nhân vật để có cách phân tích cho phù hợp. Chẳng hạn, phân tích truyện
ngắn hiện đại thì cần chú ý đến kiểu nhân vật tính cách, cịn phân tích truyện
cổ tích thì nên chú ý loại hình nhân vật chức năng. Phần quan niệm nghệ thuật
về con người thường ít được đặt thành mục riêng mà chỉ nói lướt qua ở phần

10


tiểu dẫn, chủ đề hoặc ghi nhớ. Vì trong thực tế, không phải TP nào cũng thể
hiện rõ nét nội dung này. Nhưng đối với những TP thể hiện khá rõ quan niệm
nghệ thuật về con người thì cần phải đặt nó thành mục riêng, như: Số phận

con người, A.Q chính truyện, Đơi mắt, Một người Hà Nội, Bến q, CTNX…
Nên lưu ý rằng, quan niệm về con người ở đây tốt ra từ văn bản nghệ thuật
chứ khơng phải áp đặt từ bên ngoài. Mặc dù biết rằng, quan niệm của tác giả
về con người trong TP và ở ngồi đời có thể khơng thống nhất nhau nhưng
tơn trọng tính nghệ thuật khách quan, chúng ta vẫn căn cứ vào văn bản là
chính. Muốn biết được tính cách nhân vật và quan niệm về con người, cần
phải phân tích nghệ thuật thể hiện nhân vật. Đó là căn cứ vào lai lịch, nghề
nghiệp, hình dáng, hành động, nội tâm, ngôn ngữ nhân vật, cách xưng hô và
đánh giá của tác giả và các nhân vật khác về nhân vật đó, mối quan hệ của
nhân vật với mọi người và môi trường xung quanh, đồ vật mà nhân vật
thường sử dụng, sở thích của nhân vật… Căn cứ vào các yếu tố này mà suy ra
tính cách nhân vật và triết lý nhân sinh cũng như tài nghệ tác giả.
“Hình tượng thế giới” khơng chỉ có nhân vật mà cịn có khơng gian,
thời gian. Thi pháp học chỉ chú ý những chi tiết khơng gian, thời gian nào có
ý nghĩa, góp phần thể hiện cuộc sống con người, chúng vừa mang tính quan
niệm lại vừa như một thủ pháp nghệ thuật (lấy cảnh tả tình). Khơng gian và
thời gian thường gắn liền với nhau, chi phối, cộng hưởng lẫn nhau tạo ra một
“thế giới mang tính quan niệm”. Cần chú ý đặc điểm của chúng trong mỗi thể
loại, mỗi giai đoạn văn học, mỗi tác giả, TP. Nó có thể được phân tích ở tầm
bao qt nhưng cũng có thể được phân tích ở các chi tiết nhỏ như lối mở đầu
quen thuộc trong văn học dân gian: “Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ…”,
“Chiều chiều…”, hình tượng con đường rộng mở trong thơ Tố Hữu hay cổng
nhà luôn khép kín của Hồng (Đơi mắt). Khơng gian nghệ thuật gồm có:
khơng gian sự kiện, khơng gian bối cảnh, khơng gian tâm lý, không gian kể
chuyện. Thời gian nghệ thuật gồm có: thời gian được trần thuật (hình tượng

11


thời gian) và thời gian trần thuật (thời gian kể chuyện). Tìm hiểu hình tượng

thời gian, cần quan tâm ý nghĩa của các thời: quá khứ, hiện tại, tương lai, độ
đo thời gian của các nhân vật…Tìm hiểu thời gian trần thuật, cần lưu ý các
cấp độ thời gian như: trật tự kể với trật tự thời gian sự kiện, thời lưu (độ dài
các sự kiện được tính bằng câu), tần xuất (số lần lặp lại). Và các thủ pháp thời
gian như: trì hỗn, gián cách, đảo tuyến, chêm xen, hốn vị, đồng hiện, bỏ
lửng, che giấu, đón trước… Có nhiều TP thể hiện yếu tố không gian, thời gian
nghệ thuật khá rõ nét và nên đầu tư phân tích thích đáng. Như: Hồng Hạc
lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Thuốc, Ông già và biển cả, Chiếc
lá cuối cùng, Vội vàng, Đây mùa thu tới, Tràng giang, Hai đứa trẻ, Đi đường,
Chiều tối, Người lái đị sơng Đà, Tiếng hát con tàu, Sang thu… SGK cũng có
nhiều câu hỏi u cầu HS phân tích hình tượng khơng gian - thời gian như:
“Phân tích sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ về những biến chuyển của không
gian lúc sang thu” (Bài Sang thu, lớp 9, tập 2), “Hãy tìm hiểu hai chiều của
khơng gian và thời gian và mối quan hệ giữa chúng trong bài thơ Tràng
giang” (lớp 11, tập 2, nâng cao); “Không gian nghệ thuật của truyện là tù
hãm, ẩm mốc, bế tắc, nhưng thời gian nghệ thuật thì có tiến triển. Từ mùa thu
“trảm quyết” đến mùa xuân Thanh minh đã thể hiện mạch suy tư lạc quan của
tác giả. Tìm hiểu ý nghĩa của hình ảnh vịng hoa (Bài Thuốc, lớp 12, tập 2)…
Trong văn học có nhiều loại kết cấu: khơng gian - thời gian - điểm
nhìn - nhân vật - chi tiết - ngôn từ… nhưng quan trọng hơn cả là kết cấu cốt
truyện. Lâu nay, trong giờ dạy – học văn, GV và HS thường có thao tác tìm
hiểu bố cục TP để dễ phân tích. Bố cục TP có khi đã nằm ngay trong kết cấu
thể loại, như các phần đề - thực - luận – kết trong thơ Đường. Kết cấu của thể
loại hịch, cáo mang tính nghệ thuật cao, bản thân của bố cục đã mang tính
hùng biện. Đó là tính nội dung của hình thức nghệ thuật. Những TP kể chuyện
theo trật tự tuyến tính thì tìm bố cục rất dễ. Nhưng nhiều truyện hiện đại
thường theo lối trần thuật phi tuyến tính, đa tuyến nên chia bố cục không dễ

12



dàng. Chẳng hạn, truyện Chí Phèo khơng thể chia đoạn theo thời gian trần
thuật được mà phải chia theo hình tượng nhân vật: Chí Phèo – Bá Kiến, rồi
trong Chí Phèo lại chia theo thời gian sự kiện: lúc còn lương thiện – lúc bị lưu
manh hóa – lúc ý thức phục thiện. Ngoài ra, cần phải cho thấy dụng ý của tác
giả khi đảo lộn thứ tự sự kiện. Chú ý khai thác các chi tiết đắt có vai trị quan
trọng trong việc tạo tình huống truyện như chi tiết bát cháo hành. Trong Vợ
nhặt, chi tiết nhặt vợ là ngẫu nhiên mà làm thành chủ đề TP. Bởi vậy, cần chú
ý các chi tiết ngẫu nhiên và tất nhiên, bình thường và bất thường, những biến
cố, tình huống... Có những cốt truyện độc đáo do nhà văn sáng tạo ra nhưng
cũng có những cốt truyện mang tính phổ biến, lặp lại một số mơ típ nhất định,
ta cũng cần chỉ ra ý nghĩa phổ quát của nó. Phân tích cốt truyện ngụ ngơn, có
thể chia ra nội dung hiển ngôn và nội dung hàm ngôn. Nhiều nhà Thi pháp
học phân chia cốt truyện cổ tích thành nhiều bước, ứng với mỗi chức năng
khác nhau. Truyện Cây khế có thể chia ra 11 chức năng, bước cuối cùng có
chức năng trừng phạt kẻ ác. Kết thúc có hậu là đặc trưng của thể loại truyện
cổ tích.
Ngơn ngữ là yếu tố quan trọng của Thi pháp học. Không phải ngẫu
nhiên mà những người khởi xướng Thi pháp học là những nhà ngơn ngữ học.
Ngơn ngữ văn học có tính tổ chức cao, giàu hình ảnh, đa nghĩa và mang dấu
ấn riêng của tác giả. Khi phân tích ngơn ngữ thơ, cần lưu ý nhạc điệu, các
phương tiện và biện pháp tu từ, cách dùng từ, giọng thơ, tứ thơ… Mỗi thể loại
thơ có những quy định riêng về bút pháp thể hiện. Thơ Đường luật quy định
chặt chẽ về tiết tấu, bố cục, câu hay, từ “đắt” thường nằm ở cuối bài. Ngơn
ngữ thơ hiện đại mang tính tự do, khơng bị gị bó vào khn khổ nào, lời nhân
vật trữ tình cũng tự nhiên và mang dấu ấn cá nhân rất rõ. Tác giả coi trọng
cách diễn đạt mới mẻ nên thường có nhiều cách kết hợp ngữ nghĩa lạ thường
(Thơ duyên, Đây mùa thu tới, Vội vàng, Tràng giang, Tống biệt hành, Tây
Tiến, Tiếng hát con tàu…). Khi phân tích ngơn ngữ văn xi cần chú ý cách


13


sử dụng các kiểu câu, chủ thể phát ngôn, cách xưng hơ, giọng điệu kể, sự cá
thể hóa ngơn ngữ của nhân vật và tác giả… Có thể chia ngơn ngữ văn xi
thành hai tính chất trái ngược nhau. Một là giọng điệu tiểu thuyết, thể hiện
đậm đặc trong văn xi hiện thực phê phán. Vũ Trọng Phụng có giọng trào
phúng, Nam Cao có giọng lạnh lùng, Nguyễn Cơng Hoan có giọng hóm
hỉnh… Ngược lại là giọng điệu sử thi thể hiện đậm đặc trong văn xi cách
mạng. Ta có thể thấy giọng văn tin yêu, trữ tình trong Vợ chồng A Phủ, Chiếc
lược ngà, giọng văn sôi nổi bừng bừng khí thế trong Rừng xà nu, Những đứa
con trong gia đình.. Hoặc giọng văn cổ kính trang trọng trong các tiểu thuyết
chương hồi trung đại. Mỗi thể loại, giai đoạn văn học, tác giả lớn có một văn
phong riêng, góp phần làm đa dạng ngơn ngữ văn học.
Điểm nhìn cịn được gọi là điểm quan sát, vị trí người kể chuyện, nhãn
quan, cách nhìn đời… Điểm nhìn nghệ thuật có quan hệ với mọi yếu tố trong
TP nên ta có các loại điểm nhìn sau: 1. Điểm nhìn tác giả: được thể hiện ở
ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba vô nhân xưng và ở cách tác giả xưng hơ nữa;
2. Điểm nhìn nhân vật: là cách mà nhân vật nhìn nhận, đánh giá sự việc, có
khi, nhân vật được trao điểm nhìn trần thuật; 3. Điểm nhìn tâm lý: tức là nói
đến điểm nhìn bên trong hay bên ngồi, chủ quan hay khách quan; 4. Điểm
nhìn tư tưởng: là thái độ, lập trường, cách nhìn đời của tác giả hay nhân vật;
5. Điểm nhìn khơng gian: gồm có vị trí nhìn, khoảng cách nhìn, trường nhìn,
cách nhìn…; 6. Điểm nhìn thời gian: nhìn liền mạch hay đứt quãng, nhìn kỹ
hay nhìn lướt, cách sắp xếp các thời quá khứ - hiện tại – tương lai…; 7. Điểm
nhìn tu từ: là cách nhìn độc đáo mang tính phát hiện của tác giả về sự vật hiện
tượng. Ví dụ: “Tháng giêng ngon như một cặp mơi gần”, “Con gió xinh thì
thào trong lá biếc”… (Vội vàng). Ranh giới các loại điểm nhìn trên chỉ mang
tính tương đối và trong một TP có thể có nhiều điểm nhìn khác nhau. SGK
Ngữ văn 12, tập 2, có câu hỏi: “Đoạn trích Những đứa con trong gia đình

được trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của nhân vật nào?”. Trong TP này có

14


hai điểm nhìn của tác giả và nhân vật, nhiều khi đan xen, khó tách biệt rạch
rịi. Điểm nhìn có thể làm thành kết cấu và chủ đề của TP như truyện ngắn
Đôi mắt của Nam Cao.
Thi pháp học cũng nghiên cứu cả hình tượng tác giả. Người xưa nói:
“Văn như kỳ nhân”, xem văn là biết được người, đọc TP là biết ngay tác giả.
Nhà văn có thể xuất hiện trong TP qua cách xưng “tơi” hoặc có thể ẩn mình.
Để biết phong cách của nhà văn, có thể căn cứ vào ngôn ngữ trần thuật, cách
xưng hô, giọng điệu, cảm hứng đề tài, không gian - thời gian sự kiện, cách bố
cục và cách sử dụng các chi tiết trong TP… Nhà văn trong TP có thể khơng
đồng nhất với nhà văn ở ngoài đời. Để khách quan, ta cần bám vào văn bản là
chính. Ta có thể nghiên cứu phong cách của từng nhà văn lớn, có đặc điểm
riêng rõ nét như: Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công
Hoan, Chế Lan Viên, Xuân Diệu… Hoặc có thể phân tích phong cách chung
của một nhóm nhà văn có cùng đặc điểm như: tác giả truyện cổ tích, nhà thơ
Việt Nam trung đại… Đối với những tác giả lớn được học thành bài riêng thì
dựng lên chân dung tương đối dễ dàng. Nhưng đối với những nhà văn khác
thì phần hình tượng tác giả thường được nhắc đến ở mục tiểu dẫn, hoặc được
lồng ghép vào phần phân tích. SGK Ngữ văn Nâng cao có nhiều mục nói về
hình tượng tác giả như: Cách biểu hiện chủ thể trữ tình trong thơ trung đại
(lớp 10, tập 1); yêu cầu phân biệt cái “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ
trong Bài ca ngất ngưởng với cái “ngông” của Tản Đà qua bài Hầu trời;
“Phân tích bức chân dung tự họa của Hồ Chí Minh trong Nhật ký trong tù”
(lớp 11, tập 2), “Theo anh (chị), qua đoạn trích này, Sơ-lơ-khốp nghĩ gì về số
phận con người?” (lớp 12, tập 2)…
Trên đây là các thành tố tạo nên cấu trúc TPVH. Tuy nhiên, khơng

phải lúc nào ta cũng phân tích đầy đủ các yếu tố trên mà chỉ chú trọng những
yếu tố nào quan trọng, đặc sắc, thể hiện rõ ý đồ nghệ thuật của tác giả. Ta có
thể thiết kế một bài dạy – học văn theo mơ hình Thi pháp học. Như phân tích

15


bài Qua Đèo Ngang theo kết cấu thể loại thơ thất ngôn bát cú (đề, thực, luận,
kết; Hai đứa trẻ có thể được chia theo các bước đi của hình tượng thời gian –
không gian: 1. Cảnh chợ huyện lúc chiều tối, 2. Cảnh phố huyện ban đêm, 3.
Cảnh đoàn tàu lúc đêm khuya. Chúng ta cũng có thể kết hợp nhiều yếu tố thi
pháp trong một giáo án; chẳng hạn trong Thuốc, nên chia ra các phần sau: 1.
Hình ảnh Hạ Du qua điểm nhìn của các nhân vật khác, 2. Không gian nghệ
thuật, 3. Thời gian nghệ thuật, 4. Chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du, 5. Ý nghĩa
nhan đề TP.
Giờ dạy - học văn kết hợp nhiều phương pháp khác nhau nhưng quan
trọng nhất là hai phương pháp hình thức và xã hội học. Tùy vào đặc điểm của
bài học mà chú trọng phương pháp nào. Phân tích văn học dân gian hoặc thể
loại ký thì phương pháp xã hội học được sử dụng nhiều hơn. Phân tích Thơ
Mới thì phương pháp hình thức là chủ đạo. Phương pháp xã hội học thường
được sử dụng ở phần tiểu dẫn của bài học hoặc phần đặt vấn đề, kết thúc vấn
đề trong bài làm văn. Còn trong phần đọc - hiểu chi tiết, phương pháp này
cũng thỉnh thoảng xuất hiện để giải thích rõ thêm các chi tiết. Ví dụ, mục đích
của việc dạy - học Vội vàng là giáo dục nhân sinh quan tiến bộ cho HS, nếu
thiếu đi phần liên hệ thực tế thì chưa đạt yêu cầu. Bởi vậy, trong việc dạy- học
văn, cần kết hợp cả phương pháp hình thức và xã hội học thì mới đạt tới mục
tiêu Chân -Thiện - Mỹ.
Tóm lại, việc dạy - học văn theo tinh thần Thi pháp học là xu hướng
chung của thế giới. Ở Việt Nam hiện nay đã có nhiều điều kiện tốt để thực
hiện điều này: chúng ta đã có một đội ngũ các nhà Thi pháp học tương đối

hùng hậu; việc phổ biến quan điểm Thi pháp học trong nhà trường đã có bề
dày khoảng 20 năm; SGK Ngữ văn hiện hành chứa đựng rất nhiều tri thức về
Thi pháp học; các đề thi và đáp án môn Ngữ Văn gần đây đã u cầu HS chú
trọng phân tích hình thức nghệ thuật. Nhưng Thi pháp học có biến thành thực

16


tiễn sinh động hay khơng cịn phụ thuộc rất nhiều vào sự vận dụng tích cực
của GV và HS trong giờ dạy - học văn.
1.2. Đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 - một nhà
văn “mở đường tinh anh” và “đi được xa nhất”
1.2.1. Đổi mới ở quan niệm nghệ thuật và tư duy nghệ thuật
Nhà văn đã tự ý thức sâu sắc: “Khơng có một thứ nghề nào mà kết quả
cơng việc lại có thể cắt nghĩa rõ rệt chân giá trị của người làm ra nó như nghề
viết văn” ”[20,36] và cả cuộc đời cầm bút của ơng là một hành trình âm thầm,
lặng lẽ, dũng cảm để khẳng định giả trị của một người nghệ sĩ chân chính,
một nhân cách lớn, một tài năng lớn.
Thuộc lớp nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, Nguyễn Minh Châu đến với văn học vào một thời điểm lịch sử đặc biệt:
cả nước lên đường đánh Mỹ. Người con của vùng biển Nghệ An - nhà vănchiến sỹ Nguyễn Minh Châu đã thành tâm hòa vào dòng người “Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước” để sống và sáng tác trong niềm đam mê cháy bỏng.
Hàng loạt TP của Nguyễn Minh Châu như tiểu thuyết Cửa sơng, Dấu chân
người lính, và tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau đã khẳng định vị
trí vững vàng của một cây bút đầy tài năng, dồi dào sức sáng tạo. Trong các
sáng tác của mình Nguyễn Minh Châu hầu như chỉ xây dựng một loại nhân
vật: những con người tốt đẹp, nhân cách cao thượng, anh hùng với chất thơ
cao quý trong tâm hồn. Là nhà văn quân đội nên ơng chủ yếu viết về đề tài
người lính, và chủ đích của nhà văn là sự kiếm tìm cái đẹp, phát hiện biểu
dương cái đẹp, mà như ông nói: “gắng đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu

tâm hồn con người Việt Nam”. Với định hướng đó, nhà văn sáng tác với cảm
hứng lãng mạn - sử thi đậm chất anh hùng ca. Qua tập truyện ngắn Những
vùng trời khác nhau, người đọc nhận thấy tác giả đã cảm nhận, đánh giá về
cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc từ những con người bình dị, khơng
đầy mình thương tích, đầy ngực huy chương nhưng đã biết sống như những

17


“nhân cách đích thực”. Nhân vật Nguyệt trong truyện ngắn Mảnh trăng cuối
rừng mãi mãi là một mảnh trăng, một mảnh trăng sáng vút lên trên chiến
trường Trường Sơn “nhòa trời lửa”, như một biểu tượng bất tử về vẻ đẹp
lương tri, phẩm giá Việt Nam.
Sau 1975, đặc biệt từ những năm 80, truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu đã khác hẳn. Từ cảm hứng anh hùng cách mạng chuyển sang cảm hứng
về thế sự với “nỗi lo âu sao mà lớn lao và đầy khắc khoải về con người”. Xuất
phát từ quan niệm mới mẻ “cuộc đời khơng có những thánh nhân”, vẫn là
Nguyễn Minh Châu tài hoa, tinh tế trong những phát hiện và phân tích, miêu
tả hiện thực và tâm lý nhân vật , nhưng hiện thực cuộc sống sau chiến tranh
đã khiến sự tài hoa, tinh tế ấy khơng cịn bay bổng trên đơi cách lãng mạn,
hùng tráng chất sử thi nữa mà trầm tĩnh, lặng lẽ đề cập đến những góc cạnh
xù xì, phức tạp của cuộc sống. Từ nhà văn chiến sỹ ông trở thành nhà văn viết
về đời thường. Nếu trước đây truyện của Nguyễn Minh Châu chỉ tập trung
vào phía tốt, vào mặt sáng của hiện thực, của lịng người và ơng tin vào những
điều chân thật ông mô tả sẽ quyết định sự thuyết phục của nghệ thuật thì nay,
truyện của Nguyễn Minh Châu lại chú ý vào cả mặt tốt, mặt xấu, cả phía sáng,
phía tối của cuộc sống con người. Đó là sự tương tranh dữ dội giữa cái thiện
và cái ác, giữa vẻ đẹp nhân bản và sự tha hóa xuống cấp về đạo đức, lối sống
trong thời bình (Mùa cóc Miền Nam…), giữa cái cao thượng với cái thấp hèn
trong nhân cách và trong lương tâm con người (Bức tranh, Mẹ con chị

Hằng…), giữa bản năng và lý trí, giữa tham vọng, dục vọng tầm thường với
bao khát vọng, ước mơ đẹp đẽ (Một lần đối chứng, Phiên chợ Giát…), giữa
quá khứ với hiện tại, giữa những giá trị đã định hình và những giá trị mới
đang khẳng định (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Sống mãi
với cây xanh…); để từ đó nhà văn gửi tới người đọc bức thông điệp khẩn
thiết: “Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen
lấn để tự suy ngẫm về chính mình”. Đó cũng là âm hưởng chủ đạo chi phối

18


tồn bộ giai đoạn “chuyển mình” có tính chất “bước ngoặt”của nhà văn trước
khát vọng đổi mới cả đối tượng lẫn phương thức thể hiện TP.
Thông thường, tư duy nghệ thuật của một nhà văn bao gồm những yếu tố
ổn định nhưng không phải là bất di bất dịch, là nhất thành bất biến, mà theo
thời gian, với những trải nghiệm cuộc sống và sự trưởng thành trong nghệ
thuật, tư duy nghệ thuật của một nhà văn vận động và phát triển, thậm chí có
những thay đổi bước ngoặt rất rõ nét. Nguyễn Minh Châu là một trong số
những tác giả như thế. Ông đã đọc “lời ai điếu” cho chính các TP trước 1975
của mình, và ngịi bút của ông đã thực sự đổi mới từ đầu những năm 80 của
thế kỉ trước.
1.2.2. Những đổi mới trong thi pháp thể loại của Nguyễn Minh Châu
1.2.2.1. Đổi mới về đề tài và phạm vi phản ánh
Truyện ngắn sau 75 của Nguyễn Minh Châu tập trung vào đề tài thế sự,
đời thường như: cuộc sống thường nhật của một gia đình ngư dân (CTNX);
quan hệ mẹ con (Mẹ con chị Hằng); chặt một cái cây khi mở rộng đô thị
(Sống mãi với cây xanh), một ông chồng chiều vợ đến nỗi đánh mất cả mình
(Sắm vai); những chuyện thường ngày ở một dãy nhà tập thể (Đứa ăn cắp);
một đám cưới do bọn trẻ sắp đặt (Hương và Phai); một người đàn ông sắp
chết với cái bến quê (Bến quê)... nghĩa là ba cái vụn vặn, không đâu của cuộc

sống muôn mặt đời thường, thậm chí là cả những cái hàng ngày vẫn diễn ra
mà ta không để ý: cuộc gặp gỡ giữa con mèo hoang với con mèo nhà (Một lần
đối chứng), một ông nông dân ra tỉnh chơi (Khách ở q), ơng nơng dân đi
bán con bị già (Phiên chợ Giát)... Đúng là Nguyễn Minh Châu "nhìn đâu
cũng ra truyện ngắn".
Trang văn của Nguyễn Minh Châu những năm 80 đầy ắp hiện thực đời
sống vặt vãnh, bé nhỏ, tạo nên một không gian đời thường dung dị mà đầy ý
nghĩa. Đọc Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời và trang sách liền
nhau, chặng đường đời hôm nay cũng như từng đoạn sáng tạo trên trang giấy

19


của người viết tài năng. Những cái tưởng như bình thường, lặt vặt trong cuộc
sống hàng ngày dưới ngòi bút và con mắt Nguyễn Minh Châu đều trở thành
những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý. Nhà văn hướng ngịi bút của mình
vào số phận nhỏ nhoi đang âm thầm, lặng lẽ sống trong một góc khuất tối nào đó
của cuộc đời, với bao cảnh ngộ éo le, không ai giống ai. Lấy số phận cá nhân
làm khởi điểm, làm mục tiêu hướng tới mà cũng là trung tâm của lăng kính nghệ
thuật đã làm cho trang viết của Nguyễn Minh Châu xác thực, đa dạng và cận
nhân tình hơn. Khi đi sâu vào số phận con người, ông cố gắng khám phá chiều
sâu của tâm lý, tình cảnh và tầm khái qt xã hội của nó.
Hiện thực khốc liệt và nghiệt ngã của chiến tranh được nhà văn quay lại
khai thác một cách nghiêm túc hơn, sâu sắc hơn và nhân bản hơn. Qua một
loạt TP Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền
Nam cho thấy Nguyễn Minh Châu đã thể hiện được những di chứng của chiến
tranh, những mất mát éo le, những bi kịch khủng khiếp hằn sâu trong từng số
phận một cách da diết, đau đớn. Nỗi đau như trĩu nặng, khắc khoải trên từng
trang viết của nhà văn. Người đọc nhói lịng trước "những giọt nước mắt lã
chã của lão Khúng khi nghe tin con trai hi sinh (Phiên chợ Giát); trước hàng

ba lô lặng câm của những đồng đội đã hi sinh của Quỳ (Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành); trước hình tượng đầy day dứt ám ảnh của những hòn
Vọng Phu nhan nhản, thật đủ hình, đa dạng, đủ thế của một thế giới đàn bà đã
sống trải qua bao thời can qua, chinh chiến (Cỏ lau). Nỗi đau sau chiến tranh
đã được nhà văn nói lên bằng sự yêu thương, đồng cảm của người trong cuộc.
"Nhà văn ấy đã hoà nhập vào đồng loại, lấy những đầy vơi của lịng mình mà
lắng nghe, cảm thấu đầy vơi của đồng loại, neo giữ lòng tin yêu và cứu đỡ con
người" [13].
Mặt khác, trở lại mảng hiện thực chiến tranh và người lính, ngòi bút
Nguyễn Minh Châu cũng nghiêm nghị, thẳng thắn, phê phán, cảnh tỉnh sự tha
hoá, xuống cấp về nhân cách, đạo đức, những tội ác nảy sinh trong những con

20


×