Tải bản đầy đủ (.pdf) (155 trang)

Tư tưởng nhà nước và pháp luật trong bộ luật hồng đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 155 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP.HCM
  

VÕ THỊ XUÂN HƯƠNG

TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC VÀ PHÁT
LUẬT TRONG BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP.HCM
  

VÕ THỊ XUÂN HƯƠNG

TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC VÀ PHÁT
LUẬT TRONG BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS.TRỊNH DOÃN CHÍNH

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2014




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu độc lập của
bản thân, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Trịnh Dỗn Chính. Nội dung trong
luận văn này là trung thực, chưa từng công bố bởi tác giả nào khác.

Tác giả

Võ Thị Xuân Hương


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................. 1
Chương 1: ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG TIỀN
ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
CỦA BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC .................................................................. 10
1.1. Điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội phong kiến Việt
Nam thế kỷ XV cho quá trình hình thành tư tưởng về nhà nước và pháp
luật trong bộ luật Hồng Đức ................................................................... 10
1.1.1. Khái quát đặc điểm lich sử xã hội thời kỳ Lê sơ ..................... 11
1.1.2. Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội thời kỳ Lê sơ với sự hình
thành tư tưởng nhà nước và pháp luật trong bộ luật Hồng Đức................... 19
1.2. Tiền đề văn hóa, tư tưởng với việc hình thành tư tưởng nhà
nước và pháp luật trong bộ luật Hồng Đức ............................................ 43
1.2.1. Tiền đề văn hóa, tư tưởng thời kỳ Lê sơ với việc hình thành tư
tưởng nhà nước và pháp luật trong Bộ luật ................................................ 43
1.2.2. Kết cấu cơ bản của Bộ luật Hồng Đức .................................... 50

Kết luận chương 1 .......................................................................... 53
Chương 2: NỘI DUNG, GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA
LỊCH SỬ TRONG TƯ TƯỞNG VỀ NHÀ NƯỚC, PHÁP LUẬT CỦA
BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC ........................................................................... 55
2.1. Nội dung tư tưởng về nhà nước và pháp luật trong Bộ luật
Hồng Đức .................................................................................................. 55
2.1.1. Nội dung tư tưởng về nhà nước trong bộ luật Hồng Đức ....... 55
2.1.2. Nội dung tư tưởng về pháp luật trong Bộ luật Hồng Đức ........ 80


2.2. Giá trị, hạn chế và ý nghĩa lịch sử của tư tưởng nhà nước,
pháp luật trong bộ luật Hồng Đức ........................................................ 108
2.2.1. Giá trị và hạn chế của tư tưởng nhà nước và pháp luật trong bộ luật
Hồng Đức ....................................................................................................... 108
2.2.2. Ý nghĩa lịch sử của tư tưởng nhà nước và pháp luật trong bộ
luật Hồng Đức ......................................................................................... 124
Kết luận chương 2 ....................................................................... 133
PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................... 135
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 140


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Một quốc gia muốn phát triển bền vững và ổn định không chỉ cần phát
triển các mặt, các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa mà cần phải có một bộ
máy nhà nước và pháp luật vận hành tốt, để điều chỉnh vận hành các lĩnh vực
đó của xã hội. Vì chính nó là bộ não để xây dựng hệ thống nhà nước pháp luật

hồn thiện, nó phụ thuộc rất nhiều vào sự nhận thức của giai cấp thống trị. Do
vậy có thể nói quản lý nhà nước và điều hành pháp luật chiếm vị trí đặc biệt
về mặt lý luận cũng như thực tiễn tổ chức xã hội nói chung cũng như xã hội
Việt Nam hiện nay nói riêng.
Nhà nước và pháp luật là hai yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội,
chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau; nhà nước và pháp luật đều là
phương tiện của quyền lực chính trị, cùng phát sinh, tồn tại, phát triển và tiêu
vong theo sự vận động của xã hội. Nhà nước và pháp luật tồn tại phụ thuộc
lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau, khơng có nhà nước thì sẽ khơng có pháp luật,
và ngược lại khơng có pháp luật thì khơng vận hành tổ chức được bộ máy nhà
nước, không thiết lập được những mối liên hệ với các nước khác. Pháp luật là
tổng hợp các quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra, thể hiện ý chí của giai
cấp thống trị và mang tính bắt buộc chung để điều chỉnh các quan hệ xã hội
bằng quyền lực.
Mặc dù trong mấy chục năm qua, sau ngày Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành công, nhân dân ta đã cố gắng rất nhiều trong việc xây dựng
một nhà nước kiểu mới, nhà nước và pháp luật do dân vì dân phù hợp với hiến
pháp chế độ xã hội đã lựa chọn; nhưng giờ đây trong công cuộc cải cách hành


2

chính nhà nước vẫn đang là một trong những mục tiêu và nhiệm vụ cấp bách
hàng đầu và cần thiết nhất. Để hồn thành nhiệm vụ đó chúng ta phải tiếp tục
đổi mới, cải cách bộ máy nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X
cũng đã xác định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về
nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối họp giữa

các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn
thiện hệ thống pháp luật tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản
pháp luật, xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát tính họp hiến, họp
pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”. [27,
tr.125 ]
Việc nghiên cứu về quản lý Nhà nước và cũng cố pháp luật thực sự là
một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng hàng đầu đối với nhà nước ta. Để
hồn thành nhiệm vụ đó một mặt chúng ta phải tiếp thu những giá trị kinh
nghiệm tổ chức quản lý nhà nước của dân tộc ta trong lịch sử để lại; mặt khác,
chúng ta cũng phải biết kế thừa những tinh hoa, giá trị về quản lý nhà nước và
pháp luật của nhân loại từ xưa đến nay, để từ đó rút ra nhửng bài học bổ ích
cho việc xây dựng tổ chức quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Đó cũng là
địi hỏi khách quan đối với mọi người chúng ta đang góp phần thực hiện công
cuộc đổi mới nhà nước và pháp luật Việt Nam. Trải qua dòng lịch sử của dân
tộc, từ thời các Vua Hùng dựng nước Văn Lang với loại hình nhà nước sơ
khai, chưa có pháp luật thành văn, kinh qua những nhà nước quân chủ trung
ương tập quyền của các đời Đinh, Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Nguyễn... rồi
đến thời đại Hồ Chí Minh, với nhà nước kiểu mới và nền pháp luật phục vụ


3

hướng lên chủ nghĩa xã hội. Bằng những thành tựu đạt được, ông cha ta đã
hun đúc và tạo nên biết bao nhiêu kinh nghiệm và truyền thống quý báu trong
lĩnh vực quản lý Nhà nước, xây dựng và cũng cố pháp quyền ...
Triều đại Lê sơ là một trong những triều đại đạt được những thành tựu
rự rỡ nhất về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, xã hội ... Trong đó
pháp luậ là một trong những thành tựu có giá trị đặc biệt trong dịng lịch sử
pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật thời Lê sơ nói riêng. Điều đó được
thể hiện tập trung trong Bộ Luật Hồng Đức, nó là nguồn sinh khí, là giá trị về

triết lý chính trị và pháp luật quý báu của dân tộc ta đất nước ta. Đây cũng
chính là đỉnh cao của hoạt động lập pháp thời kỳ phong kiến Việt Nam. Các
nhà nước và pháp luật là hai phạm trù luôn luôn cùng đi song song với nhau
trong một chiều dài phát triển của lịch sử dân tộc. V.I. Lê nin đã nói “nhà
nước là bộ máy dùng để giữ vững sự thống trị của một giai cấp này đối với
một giai cấp khác” [58, tr.84] nhưng để làm được điều đó cần phải có pháp
luật.
Theo chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, trong thời
kỳ trung đại đã trải qua biết bao nhiêu những biến động, thay đổi trong dòng
biến thiên của lịch sử xã hội. Để đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn trong
mỗi thời đại đã xuất hiện những nhà tư tưởng, những nhà chính trị lớn trong
lịch sử như: Ngô Quyền thời kỳ Tiền Lê, Lý Nhân Tông thời kỳ nhà Lý, Trần
Nhân Tông nhà Trần, Hồ Qúy Lý thời kỳ nhà Hồ. Tư tưởng của Hồ Qúy Ly
chịu ảnh hưởng rất nhiều hệ tư tưởng Nho giáo, tuy ơng là người có chính
kiến riêng, có bản lĩnh của một nhà lãnh đạo. Nhưng trong mọi hành động và
suy nghĩ ông là một nhà nho cấp tiến, ông tôn sùng tư tưởng Nho giáo và vận
dụng một cách tuyệt đối dẫn đến mù quáng, tuy nhiên cũng phải thừa nhận
rằng tư tưởng cải cách của ông rất toàn diện, táo bạo trên mọi lĩnh vực của đời


4

sống xã hội như kinh tế, chính trị, quân sự, giáo dục... Tư tưởng cải cách của
ơng đã góp phần tạo tiền đề cho sự phát triển mới của một nhà nước phong
kiến trung ương tập quyền là người đóng vai trò khai mở mới cho việc cải
cách mới trong lịch sử Việt Nam thời Hậu Lê. Trong đó, đặc biệt là nhà tư
tưởng chính trị Lê Thánh Tơng. Ơng là vị vua anh minh, có tố chất thơng
minh và là một nhà tư tưởng có nhiều ảnh hưởng Phật giáo và Nho giáo. Ông
đã kế thừa những tinh hoa giá trị tư tưởng đạo đức, chính trị được sáng tạo
nên trong các giai đoạn phát triển nước ta của lịch sử dân tộc và vận dụng nó,

cải cách nó theo chiều hướng uyển chuyển, mềm mại để giải đáp nhiệm vụ
lịch sử xã hội Đại Việt đặt ra ở thế kỷ XV, giữ vững độc lập, thống nhất của
chủ quyền quốc gia, dân tộc; và ông đã dùng bộ máy nhà nước để “an dân”
dùng hệ thống pháp luật để “ trị nước ”, đưa đất nước vào sự phát triển ổn
định.
Để xây dựng hệ thống nhà nước, pháp luật có hiệu lực và hiệu quả Lê
Thánh Tơng đã tiếp thu những giá trị tinh hoa của thời đại, đồng thời ông đã
kế thừa những tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm và tư tưởng đạo đức chính
trị của Nho giáo. Ông đã chọn lọc, kế thừa để cải cách nó cho phù hợp với
thực tiễn và nhu cầu của nhà nước Đại Việt ở thế kỷ XIV – XV. Đó chính là
triết lý của sự phát triển xã hội hài hịa và bền vững, bởi vì ơng dung hợp các
nguồn tư tưởng từ quá khứ của dân tộc với những triết lý phong phú, sâu sắc
của Phật giáo và những thâm trầm của Nho giáo, tính nghiêm khắc, cứng nhắc
của Pháp trị; ông đã kế thừa và so sánh chọn lọc, tổng hợp lại để sáng tạo nên
hệ thống pháp luật đáp ứng được yêu cầu của lịch sử. Tư tưởng nhà nước và
pháp luật trong Bộ Luật Hồng Đức của ông tạo nên những nét độc đáo và đặc
sắc riêng ghi dấu ấn đậm trong lịch sử tư tưởng pháp luật Việt Nam, là nguồn
lực nội sinh để chúng ta kế thừa, tiếp nối và phát huy sức mạnh truyền thống


5

đó trong cơng cuộc đổi mới, hồn thiện hệ thống nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
Đề tài “Tư tưởng Nhà nước và pháp luật trong Bộ Luật Hồng Đức’’
góp phần cung cấp một cách nhìn khái quát nội dung về nhà nước và pháp
luật của bộ luật này. Từ đó chúng ta có thể rút ra bài học có ý nghĩa, có giá trị
lịch sử cho chúng ta thời đại mới .
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Chính từ những ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng nhà

nước và pháp luật trong Bộ Luật Hồng Đức của Lê Thánh Tông cho nên từ
trước đến nay đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu trong nước và
ngoài nước tiếp cận dưới nhiều gốc độ khác nhau về vấn đề này, như:
Hướng thứ nhất là, nghiên cứu Bộ Luật Hồng Đức của Lê Thánh Tông
trong dong chảy lịch sử của dân tộc, tiêu biêu cho hướng này trước hết phải
kể đến các tác phẩm Hồng Đức thiện chính thư, do Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Giác
phiên dịch và Giáo sư Vũ Văn Mẫu, Luật khoa thạc sĩ đề tựa, Trường Luật
khoa Đại học Sài Gòn, Nxb. Nam Hà ấn quán, Sài Gòn, năm 1959. Một số
văn bản pháp luật Việt Nam thế kỷ XV – XVIII, do Giáo sư Tiến sĩ Đào Trí
Úc chủ nhiệm đề án. Hay tác phẩm Đại việt sử ký toàn thư, tập 1, tập 2. Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1998; Lịch sử Việt Nam cổ trung đại,
do Huỳnh Cơng Bá chủ biên, Nxb.Thuận hóa, Huế , xuất bản năm 2011; Giáo
trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Trường Đại học luật Hà Nội,
Nxb Cơng an nhân dân, năm 2004; Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Trường
Đại học luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, năm 2003, đề cập rất nhiều lĩnh
vực trong xã hội, nhưng trong đó nhà nước và pháp luật là cơ sở tiền đề, nền
tảng xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp luật phong kiến thịnh trị của Bộ luật
Hồng Đức thời Lê sơ


6

Để làm rõ tư tưởng pháp luật trong Bộ luật Hồng Đức, theo hướng
nghiên cứu này, cịn có tác phẩm như: Lịch triều hiến chương loại chí, tập 3,
của Phan Huy Chú , Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1961; tác phẩm, Tư
tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, của Dỗn Chính, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, năm 2011. Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà
nước phong kiến Việt Nam, của Phan Hữu Dật và Lâm Bá Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội; năm 2011. Những kế sách xây dựng đất nước của cha
ơng ta Bùi Xn Đính, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2004; tác phẩm Đại Việt

thông sử ký Ngơ Hồng Hậu, của Lê Qúy Đơn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, năm 1978; Đại cương lịch tư tưởng Triết học Việt Nam, tập 1, Nxb. Đại
học quốc gia, Hà Nội, năm 2002, Nguyễn Hùng Hậu, Dỗn Chính, Vũ Văn
Gầu. Lịch sử tư tưởng chính trị, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chính Minh; tác phẩm Pháp luật các triều đại Việt Nam
và các nước của Cao Văn Liên, Nxb. Thanh niên, năm 2004. Lịch sử các chế
định chính trị và pháp quyền Việt Nam, tập 1, Phan Đăng Thanh – Trương Thị
Hịa, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 1993. Giáo trình Lịch sử Nhà nước và
pháp luật Việt Nam, Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân,
năm 2004. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Trường Đại học luật Hà nội,
Nxb. Công an nhân dân, năm 2003. Các tác phẩm trên nhấn mạnh và khẳng
định giá trị nổi bật trong bộ luật Hồng Đức nói chung và tư tưởng nhà nước
pháp luật trong bộ luật Hồng Đức nói riêng, đó chính là quyền tối thiểu của
con người được thừa nhận, được tôn trọng và được bảo vệ bằng pháp luật,
được thực tiễn hóa trong một xã hội, một chế độ có trật tự và kỷ cương pháp
luật. Mặc dù đứng ở một góc độ của nhà triết học, nhà luật học cho rằng văn
bản qui phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành đó là nhà vua. Vua là người có quyền lực tối thượng cao nhất cả về


7

quyền hành pháp, tư pháp, quyền lập pháp trong đó Bộ luật Hồng Đức được
xây dựng dưới hình thức là văn bản luật, nó có phạm vi điều chỉnh, đối tượng
điều chỉnh trong mối quan hệ xã hội thuộc nhiều lỉnh vực khác nhau theo một
trình tự thủ tục và hình thức nhất định có chứa đựng những văn bản luật như:
Lệnh, chỉ, lệ, dụ, sắc, được trình bày một cách chặt chẽ, cụ thể trong bộ Luật
Hồng Đức bao giờ cũng kèm theo các biện pháp linh động chế tài để răn đe và
giáo dục .
Hướng thứ hai đó là, nghiên cứu những nôi dung tư tưởng, những đặc

điểm, những giá trị, hạn chế trong Bộ luật Hồng Đức của Lê Thánh Tông.
Tiêu biêu cho hướng nghiên cứu này cần phải kể đến các cơng trình nghiên
cứu như: Tìm hiểu tư tưởng chính trị nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh Tơng
đến Minh Mệnh, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, Lê Thánh Tông vị vua
anh minh nhà cách tân xuất sắc, của Lê Đức Tiết, Nxb. Quân đội nhân dân,
Hà Hội, năm 1997. Lê Thánh Tông vị vua anh minh nhà cách tân vĩ đại, của
Lê Đức Tiết, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2007. Đặc biệt liên quan đến đề tài
cần phải kể đến cuốn sách Bộ luật Hồng Đức di sản văn hóa pháp lý đặc sắc
của Việt Nam, của Lê Đức Tiết, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2010. Tác phẩm
Văn hóa pháp lý Việt Nam, của Lê Đức Tiết, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm
2005; và cơng trình Tư tưởng chính trị đạo đức trong bộ luật Hồng Đức của
Lê Thánh Tông, Luận văn thạc sĩ triết học của Đinh Văn Chiến, bảo vệ tại
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, năm
2011; hay cơng trình Tư tưởng triết học Lê Thánh Tông, Luận văn thạc sĩ triết
học của Nguyễn Thị Chuẩn, bảo vệ tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2008. Qua những cơng trình ấy các
tác giả đã tập trung trình bày, phân tích khá phong phú, sâu sắc trên nhiều
khía cạnh khác nhau trong nội dung Bộ luật Hồng Đức của Lê Thánh Tông,


8

như: điều kiện khách quan, chủ quan, những tiền đề hình thành, đến những tư
tường chính trị, đạo đức, Nho giáo, pháp luật,... và những đặc điểm, giá trị,
han chế trong Bộ luật này. Nhưng nhìn chung qua các cơng trình đã khái qt
ơ trên chưa có cơng trình nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu chuyên sâu về
vấn đề nhà nước, pháp luật trong Bộ luật Hồng Đức. Tuy nhiên đó vẫn là
những cơng trình có giá trị, mà tác giả có thể kế thừa khi thực hiện luận văn
thạc sĩ triết học của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Về mục đích, luận văn nhằm nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống
nội dung tư tưởng của nhà nước và pháp luật trong Bộ Luật Hồng Đức, từ đó
rút ra những, đặc điểm, giá trị, hạn chế và bài học lịch sử trong việc xây dựng
nhà nước và pháp luật Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích trên nhiệm vụ của luận văn cần thực hiện là:
Một là, trình bày, phân tích và làm rõ các điều kiện lịch sử xã hội và
những tiền đề hình thành tư tưởng về nhà nước và pháp luật phong kiến Việt
Nam thời kỳ Lê sơ trong Bộ luật Hồng Đức
Hai là, trình bày, phân tích và làm rõ những nội dung và đặc điểm tư
tưởng về nhà nước và pháp luật trong Bộ luật Hồng Đức
Ba là, rút ra các giá trị, hạn chế và ý nghĩa lịch sử của tư tưởng chính trị
và pháp luật trong Bộ luật Hồng Đức.
Về phạm vi nghiên cứu, Luận văn chỉ tập trung vào nghiên cứu tư
tưởng nhà nước và pháp luật trong Bộ luật Hồng Đức.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài đặt ra, luận văn sẽ dựa
trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Đồng thời


9

luận văn còn sử dụng các phương pháp như: lịch sử - logich, phân tích - tổng
hợp, diễn dịch - quy nạp, so sánh - đối chiếu,... nhằm làm rõ nội dung cơ bản
tư tưởng nhà nước và pháp luật trong Bộ luật Hồng Đức.
5. Ý nghĩa khoa học và Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Về ý nghĩa khoa học, luận văn góp phần hệ thống hóa nội dung và
những đặc điểm cơ bản trong tư tưởng nhà nước và pháp luật trong Bộ luật
Hồng Đức của Lê Thánh Tơng, thơng qua vấn đề: Tư tường chính trị của nhà
nước và tư tưởng pháp luật qua con đường dung hợp cải cách bằng lối trị

nước trong Bộ Luật Hồng của Lê Thánh Tơng, từ đó giúp cho người đọc hiểu
thêm một cách sâu sắc về hệ thống tư tưởng nhà nước - pháp luật trong Bộ
luật Hồng Đức.
Về ý nghĩa thực tiễn, thơng qua việc trình bày hệ thống tư tưởng triết
học và đánh giá những đặc điểm, giá trị, hạn chế và ý nghĩa lịch sử của tư
tưởng nhà nước và pháp luật trong Bộ luật Hồng Đức, đề tài rút ra những bài
học lịch sử bổ ích đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện
nay, từ đó góp phần vào giữ gìn và phát huy bản sắc truyền thống văn hóa
Việt Nam trong cơng cuộc từng ngày đổi mới và hồn thiện pháp luật để hội
nhập quốc tế hiện nay, ngồi ra góp phần làm tài liệu tham khảo cho sinh viên
trong lĩnh vực về nhà nước và pháp luật.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, phụ lục, phần kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, đề tài được kết cấu gồm 2 chương, 4 tiết, 8 tiểu tiết.


10

Chương 1
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CỦA
BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC

1.1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
PHONG KIẾN VIỆT NAM THẾ KỶ XV – CƠ SỞ XÃ HỘI TƯ TƯỞNG
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TRONG BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC
Tất cả các thành tựu mà con người đạt được luôn gắn liền với mỗi giai
đoạn lịch sử nhất định, với những điều kiện lịch sử xã hội nhất định, cho nên
những tư tưởng lý luận của một thời đại là biểu trưng cho sự tinh hoa, tinh
thần dân tộc của thời đại đó. Tư tưởng nhà nước và pháp luật trong Bộ luật

Hồng Đức của Lê Thánh Tông cũng vậy, đây không chỉ là sản phẩm của một
giai đoạn của lịch sử xã hội có nhiều biến động tạo dựng nên những cột mốc
đầy ý nghĩa trọng đại trong lịch sử Việt Nam, nó cịn là những chuẩn mực,
những triết lý tư tưởng tinh thần của ông cha ta để lại. Theo quan điểm của
chủ nghĩa duy vật lịch sử, tồn tại xã hội và ý thức xã hội có mối quan hệ biện
chứng với nhau, cùng tác động tồn tại qua lại với nhau. Là một hình thái ý
thức tư tưởng nhà nước và pháp luật trong Bộ luật Hồng Đức, cũng chịu sự
chi phối điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Chính vì vậy, để nghiên cứu tư
tưởng nhà nước và pháp luật của Lê Thánh Tông không thể khơng tìm hiểu về
đặc điểm, điều kiện lịch sử xã hội thời kỳ Lê sơ với những tiền đề lý luận hình
thành tư tưởng nhà nước và pháp luật trong Bộ Luật Hồng Đức của ông.


11

1.1.1. Khái quát đặc điểm lịch sử - xã hội thời kỳ Lê sơ
Như chúng ta đã biết, ở thời kỳ nhà Trần tiếp nối nhà Lý mở ra một
trang sử mới về nền chính trị thống nhất và nền văn hóa độc lập thốt khỏi sự
ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai. Lịch sử nhà Trần đã sản sinh ra bao nhiêu vị
tướng tài cho dân tộc như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ
Lão..., một triều đại huy hồng khi ba lần đánh bại qn Ngun Mơng , kẻ
thù mạnh nhất thời kỳ phong kiến, khẳng định sự lãnh đạo tài lược của ông
vua nhà Trần và sự đoàn kết của người dân Đại Việt. Sau thời kỳ thịnh trị của
nhà Trần xã hội Đại Việt lại rơi vào khủng hoảng nền kinh tế, chính trị sa
sút..., nền quân sự kém cỏi và yếu ớt, các điền trang thái ấp khơng cịn phù
hợp dẫn đến nhà Trần thất bại, thay thế vào đó là nhà Hồ. Sau khi thành lập
nhà Hồ, lấy niên hiệu Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu, Hồ Qúy Ly đã
tiến hành một loạt các biện pháp cải cách chính trị, kinh tế, tài chính và xã
hội. Trong đó nổi bật nhất là cải cách tiền tệ, ban hành tiền giấy, thu hồi tiền
đồng. Đây là một hình thức cải cách về tài chính mới trong xã hội nhà nước

Đại Việt. Năm 1396, khi ơng cịn giữ cương vị Phụ chính Thái sư của triều
Trần, thì Hồ Qúy Ly đã táo bạo cho lưu hành tiền giấy thay cho tiền đồng kim
loại vừa nặng, vừa làm khan hiếm nguyên liệu để chế tạo công cụ lao động
trong sản xuất và dùng kim loại tiền đồng để đút chế súng dùng cho quân sự.
Đến năm 1400 chính sách sử dụng tiền giấy mới được thực hiện một cách
rộng rãi và triệt để lưu hành trong cả nước. Tiền giấy gồm có nhiều loại: 20
đồng, 10 đồng, 5 tiền, 3 tiền, 2 tiền... đều có những hình in khác nhau... Tuy
nhiên Hồ Qúy Ly là nhân vật có tầm cỡ trong lịch sử, thể hiện trên nhiều lĩnh
vực, ơng là người dám nhìn vào sự thật, dám thay đổi cải tạo cải mới và
đương đầu những khó khăn để biến nó thành cơng cụ động lực vượt qua mọi
trở ngại làm thay đổi bộ mặt xã hội. Những quan điểm chủ trương, chính sách


12

của Hồ Qúy Ly ban hành và thực thi, nhìn tổng thể ta thấy có sự nhất quán và
kiên định. Ông muốn đưa đất nước phát triển lên một đỉnh cao mới về mọi
mặt đó là những đóng góp của Hồ Qúy Ly. Tuy nhiên ở đây do Hồ Quý Ly
q đề cao cái tơi của mình nên dẫn đến những sai lầm chủ quan, duy ý chí,
thiếu đi sự tinh tế xem xét, mất đi lòng tin từ nhân dân và dẫn đến một xã hội
rơi vào trạng thái tâm lý bất an, hoang mang, lo lắng ...; và từ tình hình thực tế
của một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, ở một góc nhìn theo
phương pháp biện chứng, tiếp cận lịch sử một cách khách quan, khoa học thì
trong đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo công cuộc cải cách của Hồ Quý
Ly, ông đã quá chú trọng đến thuyết pháp trị nên đã thể hiện tính chất cực
đoan, tàn bạo.
Nhưng dù sao chúng ta phải công nhận rằng Hồ Qúy Ly là nhà tư tưởng
mới có nhiều cải cách táo bạo, quyết liệt, có tinh thần yêu nước và chống giặc
ngoại xâm; nhưng vì tư tưởng của ông xa rời thực tế không phù hợp thời đại
ông đang sống, nên dẫn đến con đường sự nghiệp cải cách của ông không

thành công. Ở một góc độ nào tư tưởng cải cách của ơng tuy còn ảnh hưởng
nhiều của Nho giáo, thực dụng, giáo điều cứng nhắc, tư tưởng cải cách của
Hồ Qúy Ly cũng có ý nghĩa lịch sử nhất định trong thời kỳ trung đại; mở đầu
cho bước phát triển mới của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền Việt
Nam.
Năm 1428 – 1460, sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi
đất nước trở lại thanh bình, ngày 15 tháng 04 năm Mậu thân Lê Lợi chính
thức lên làm hồng đế ở đông kinh thành Thăng Long, lấy niên hiệu Thuận
thiên ( phù hợp với ý trời và hợp với lòng dân), khôi phục tên nước là Đại
Việt mở ra một trang sử mới cho triều đại Lê sơ ( 1428 – 1527), đồng thời mở
ra thời kỳ phát triển của lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam. Lê Lợi lên


13

ngơi được bảy năm thì ơng mất. Lê Thái Tơng lên kế vị, lúc đó ơng mới 11
tuổi tỏ rõ là vị vua anh minh, ông rất trọng dụng các đại thần chính trực và
can trường như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đình Liệt, đồng thời ơng cũng
giáng chức những kẻ xu nịnh, quyền thần trong bộ máy nhà nước, Lê Thái
Tơng trị vì cũng khơng lâu, cái chết của ơng quá đột ngột và bất ngờ với vụ án
“Lệ Chi viên” đây là vụ án oan lớn trong lịch sử phong kiến Việt Nam dẫn
đến cái chết toàn bộ gia quyến của Nguyễn Trãi. Từ khoảng thời gian năm
1441- 1459 chính sự trong bộ máy nhà nước có nhiều biến động, lịng dân ốn
than đất nước khơng n. Sau đó các quan đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê
Lăng .v.v lại một lần nữa truất phế vua Nghi Dân rồi lập người em út của ơng
là hồng tử Lê Tư Thành lên làm vua, tức là vua Lê Thánh Tông sau này.
Giai đoạn đầu (từ năm 1460 – 1469), khi lên ngôi Lê Thánh Tông lấy
niên hiệu Quang Thuận, đến năm 1470 – 1497, ông lại đổi niên hiệu là Hồng
Đức, ơng chỉ định Nguyễn Xí và Đinh Liệt vào các chức quan cao nhất của
triều đình và nắm giữ binh quyền, đây là giai đoạn thịnh trị nhất, phát triển

nhất của quốc gia Đại Việt. Lê Thánh Tông là người sáng lập và đặt nền
móng, làm thay đổi và kiện toàn bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế trung
ương tập quyền đạt tới đỉnh cao và trở thành nhà nước toàn trị, cực quyền;
đây là một bước ngoặc lịch sử, một sự chuyển đổi mơ hình chế độ xã hội từ
nền quân chủ quý tộc thời Lý – Trần mang đậm tính Phật giáo màu sắc Đơng
Nam Á sang nền quân chủ quan liêu Đông Á. Lê Thánh Tông không chỉ bắt
tay từng bước xây dựng lại cơ cấu hành chính nhà nước để đáp ứng yêu cầu
độc lập tự chủ, xây dựng nhà nước đi từ trung ương đến địa phương đồng thời
xây dựng hệ thống pháp luật nhằm cũng cố, tăng cường kiểm tra giám sát mọi
hoạt động của bộ máy nhà nước, đảm bảo một xã hội, một chế độ có trật tự,
kỷ cương và sự ổn định phù hợp của giai cấp phong kiến.


14

Trước hết Lê Thánh Tông xây dựng lại cơ cấu tổ chức hành chính nhà
nước để đáp ứng yêu cầu độc lập, tự chủ, chủ quyền, xây dựng đất nước theo
bốn cấp hành chính: triều đình trung ương - thừa tuyên - phủ, huyện, châu hương, phường, xã, thôn, trang, sách, động, nguồn, trường; Bản đồ toàn quốc
của nước Đại Việt năm Hồng Đức thứ 20 (1489) xác định nước ta có 13 xứ
thừa tuyên, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương (cư dân nông nghiệp), 36
phường (cư dân làm thủ công), 6851 xã, 322 thôn (cư dân nông nghiệp), 637
trang ấp, 40 sách, 40 động (ở vùng miền núi), và 30 nguồn, 30 trường do ngư
dân đánh bắt cá sinh sống tại đây... Việc hoạch định biên giới và xác định
mốc giới địa lý thể hiện chủ quyền quốc gia của nước Đại Việt. Lê Thánh
Tông cho vẽ bản đồ chi tiết và đầy đủ về lãnh thổ Đại Việt và bộ bản đồ các
vương quốc trong vùng (gọi là Thiên hạ bản đồ). Bộ bàn đồ Đại Việt được
hoàn thành năm 1490, gồm 13 thừa tuyên sau đó đổi thành xứ như sau:
Nam sách gồm (Hải Dương, Hải Phòng ngày nay), quản lĩnh 4 phủ, 18 huyện;
Thiên Trường (Sơn Nam) gồm (Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên ngày nay),
quản lĩnh 11 phủ, 42 huyện; Quốc Oai (Sơn Tây) gồm (Hà Tây, Sơn Tây,

Vĩnh Phúc ngày nay), quản lĩnh 6 phủ, 24 huyện; Bắc Giang (Kinh Bắc) gồm
(Bắc Giang, Bắc Ninh ngày nay), quản lĩnh 4 phủ, 19 huyện; An Bang là
(Quảng Ninh ngày nay), quản lĩnh 1 phủ, 3 huyện, 4 châu; Tuyên Quang gồm
(Tuyên Quang , Hà Giang ngày nay), quản lĩnh 1 phủ, 2 huyện, 5 châu; Hưng
Hóa gồm (Phú Thọ, Yên Bái ngày nay), quản lĩnh 3 phủ, 4 huyện, 17 châu;
Hưng Hóa gồm (Phú Thọ, Yên Bái ngày nay), quản lĩnh 3 phủ, 4 huyện, 17
châu; Lạng Sơn gồm (Cao Bằng, Lạng Sơn ngày nay), quản lĩnh 1 phủ, 7
châu; Thái Nguyên ( Ninh Sóc) gồm (Thái Nguyên, Bắc Kạn ngày nay), quản
lĩnh 3 phủ, 8 huyện, 7 châu; Thanh Hóa gồm (Thanh Hóa, Ninh Bình ngày
nay), quản lĩnh 4 phủ, 16 huyện, 4 châu; Nghệ An gồm (Nghệ An, Hà Tĩnh


15

ngày nay), quản lĩnh 8 phủ, 18 huyện, 2 châu; Thuận Hóa gồm (Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế ngày nay), quản lĩnh 2 phủ, 7 huyện, 4 châu;
Quảng Nam gồm (Bình Định, Quảng Ngãi và Quảng Nam ngày nay). Đạo
thừa tuyên Quảng Nam được bổ sung sau cùng sau khi Đại Việt chiếm được
miền bắc của Chiêm Thành (1471). Lại đổi Trung đô phủ làm Phụng Thiên,
quản lĩnh 2 huyện.

.
Bản đồ Hoàng Thành Thăng Long năm 1490 niên hiệu Hồng Đức
Ở cấp trung ương, cơ quan thực thị quyền lực nhà nước giúp việc cho
vua đó là cơ quan với chức danh tướng quốc (nhà Lý - Trần - Hồ gợi là tể
tướng) gồm có Tả tướng quốc và Hữu tướng quốc đứng đầu quan võ có nhiệm
vụ quản lý, kiểm tra, giám sát quân đội, và quan lại trong nước, còn Đại hành


16


khiển là cơ quan đứng đầu quan văn chịu trách nhiệm tư vấn tham mưu cho
nhà vua về việc soạn thảo ban hành các quy định điều, sắc, chỉ, dụ ..., sửa đổi
bổ sung các khoản, điều trong bộ luật cho phù hợp với xã hội phong kiến Việt
Nam. Các cơ quan này đều có quyền lực ngang nhau và có trách nhiệm làm
tham mưu tư vấn can gián khuyên răng vua. Đến thời Lê Thánh Tơng thì ơng
bãi bỏ các chức quan dễ bị lợi dụng lộng quyền như: Tể tướng là Tam tư (Tư
đồ, Tư mã, Tư không), Tả tướng quốc, Hữu tướng quốc, đến Đại hành khiển;
bãi bỏ các cơ quan trung gian như Nội mật viện, Chính sự viện, Thượng thu
sảnh, Mơn hạ sảnh, Tơng nhân phủ, đồng thời ông đặt ra 5 phủ quân sự đó là
phủ: Trung qn phủ, Đơng qn phủ, Tây qn phủ, Nam quân phủ, Bắc
quân phủ, bên cạnh đó đặt ra các chức quan khác như Thái sư, Thái úy, Thiếu
sư, Thiếu úy và Đại học sĩ,... là cơ quan tư vấn giúp việc, giành quyền quyết
đoán mọi việc cho vua. Lê Thánh Tơng cải cách cơ quan hành chính trung
ương gồm 6 bộ như sau:
Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước;
Lễ Bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành
thi cữ, đúc ấn tín, cắt giữ người coi giữ đình, chùa, miếu mạo;
Hộ Bộ: Trơng coi cơng việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tơ thuế kho
tàng;
Binh Bộ: Trơng coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên giới,
chịu trách nhiệm việc giữ gìn các nơi hiểm yếu, đồng thời ứng phó các việc
khẩn cấp;
Hình Bộ: Là cơ quan tư pháp đại diện cho tòa án và viện kiểm sát thực
thi pháp luật, thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét xử lại các vụ án tù đày, kiện
cáo, khiếu nại oan sai cho dân.
Công Bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện


17


thành trì và quản đốc thợ thuyền phát triển kinh tế.
Đây là những cơ quan đều ngang quyền lực với nhau và có trách nhiệm
trơng coi mọi việc chính trong triều, với ơng cịn quy định độ tuổi làm việc
cho các quan lại tối đa 65 tuổi, đồng thời còn bãi bỏ luật lệ cha truyền con nối
cho các gia đình có cơng là cơng thần. Ơng rất chú trọng việc chọn quan phải
có tài và đức để làm giường cột cho nước nhà, việc xây dựng đội ngũ quan lại
trẻ hóa có chất lượng tốt trong bộ máy nhà nước là yếu tố quyết định trong
việc cải cách hành chính, mặt khác ơng lại bổ sung đội ngũ quan lại qua thi cử
và tiến cử được thực hiện bằng nhiều hình thức khuyến học, khuyến tài; đối
với việc định chế tiến cử và tuyển chọn nhân tài, nhà vua từng phê: “Lục bộ,
Lục khoa và Ngự sử đài nếu tiến cử người bất tài vơ dụng thì phải chịu tội
giáng và bãi chức còn nếu tuyển chọn người tài giỏi thì sẽ được thưởng và
thăng quan tiến chức ” [24, tr 433]. Đặc biệt quy định văn bản Lệ khảo khóa 3
năm tổ chức một kỳ thi để nhằm kiểm tra rà sốt đánh giá cơng tích hay sai
phạm của quan lại để thăng thưởng, hay giáng chức, đồng thời xem xét công
việc của các quan từng bộ phân có phù họp với khả năng khơng để kịp thời
thay đổi sang nhiệm sở cho phù hợp sẽ mang lại hiệu quả quản lý rất cao và
tiết kiệm được ngân khố của nhà nước. Dụ của Lê Thánh Tơng nói: “Phép
khảo khóa cốt để phân biệt người hay, kẻ dở, nâng cao hiệu quả trị nước...
Nay nha mơn trong ngồi nào nhận chức đã đủ ba năm phải thực hiện khảo
khóa, khơng được chậm trễ ”; “các quan viên nhận chức ở vùng đất độc hại đã
đủ hai lần khảo khóa trở lên mà xứng đáng với chức vụ, khơng có tội lỗi thì
Lại bộ xét thực, rồi điều về chỗ đất lành” [ 24, tr 458 – 482].
Đối với các cơ quan cấp tỉnh bao gồm có Thượng thư tỉnh, Trung thư
là thượng thư lệnh có vai trị nhiệm vụ liên lạc với các bộ, Trung thư tỉnh có
chức năng tham mưu cho ý kiến, lời khuyên liên quan đến những việc trọng


18


đại, mơn hạ tỉnh có nhiệm vụ giữ ấn tín là cơ quan ban hành các văn bản pháp
lệnh đến các đơn vị đi từ trung ương đến địa phương
Ở cấp địa phương, bãi bỏ chế độ An phủ sứ (đứng đầu các lộ), thành
lập ở mỗi Thừa tuyên 3 ti (Đô đông binh sứ ti - Tán trị thừa tuyên sứ ti Thanh hình hiến sát sứ ti ) cùng quan lý văn võ trong Thừa tuyên. Các phủ,
châu, huyện cũng được thống nhất ngạch quan lại. Đối với phủ ( bây giờ gọi
là quận) thì có Tri phủ đứng đầu của một phủ chịu trách nhiệm kiểm tra giám
sát mọi hoạt động của các huyện. Huyện có Tri huyện, châu có Tri châu cùng
phụ trách chung và quản lý các xã, chức xã quan được đổi là xã trưởng. Ở các
miền thượng du, các bản giao cho tù trưởng, lang đạo cai quản như cũ. Riêng
mạn biên giới phía Bắc, nhà Lê thường xuyên cử những tướng tài giỏi ở kinh
thành lên trấn trị và biến thành “phiên thần”, đời đời nối nhau cai quản, quản
lý vùng biên giới vì nó vùng trong tâm của nước Đại Việt. Chủ trương của Lê
Thánh Tông là bảo đảm sự thống nhất trong chính quyền từ trên xuống dưới,
từ trung ương đến địa phương và làng xã, “các chức quan lớn nhỏ cùng ràng
buộc nhau, nặng nhẹ cùng gìn giữ nhau, lẽ phải của nước không bị chuyên
riêng ảnh hưởng, việc lớn của nước khơng bị lung lay, khiến có thói tốt làm
họp đạo, đúng phép” (Hiệu đính quan chế). Mặt khác vua Lê Thánh Tơng
khuyến khích cac quan lại canh giữ biên phòng thường xuyên đề cao cảnh
giác với âm mưu đen tối của triều đình nhà Minh, đồng thời phải chặt chẽ, cận
thận khéo léo xử lý mọi tình huống trong tình hữu nghị với các nước láng
giềng, bên cạnh đó ơng cịn cải tổ qn đội về mặt tổ chức chia quân đội từ
năm đạo thành năm phủ đơ đốc mỗi phủ có vệ, sở và hai đạo nội ngoại gồm
nhiều ti, vệ trấn thủ; ngoài tổ chức các qn thường trực, Lê ThánhTơng cịn
chú trọng đến lực lượng quân dự bị ở các cấp địa phương và cơ sở phịng bị,
kỷ luật qn kỳ khảo thí về võ nghệ và sự mưu trí trong chiến thuật và có sức


19


dẻo dai chịu đựng, có ý chí kiên định và sức chiến đấu cao trong mọi tình
huống.
Năm 1483, Lê Thánh Tông quyết định triệu tập các quan đại thần biên
soạn một bộ luật chính thức của triều đại mình nhằm điều chỉnh các mối quan
hệ xã hội có liên quan mật thiết với nhau, thường được gọi là Bộ nhiều các
văn bản luật và được ban hành với cái tên Quốc triều hình luật (hay cịn được
gọi là Bộ luật Hồng Đức). Bộ luật này đánh dấu một trình độ phát triển cao
của tư tưởng pháp lý của dân tộc Đại Việt, khá hồn chỉnh, do đó được sử
dụng suốt trong bốn thế kỷ thời Lê (thế kỷ XV - XVIII), để đi sâu vào nghiên
cứu và hiểu thêm về tư tưởng nhà nước – pháp luật của Bộ luật Hồng Đức
chúng ta khơng thể khơng tìm hiểu đến đặc điểm, điều kiện kinh tế, chính trị xã hội để hình thành nên tư tưởng của Bộ luật Hồng Đức của ơng
1.1.2. Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội thời kỳ Lê sơ với sự hình
thành tư tưởng nhà nước và pháp luật trong bộ luật Hồng Đức
Về điều kiện kinh tế, thế kỷ XV, phương thức sản xuất phong kiến về
cơ bản đã được xác lập và tương ứng với nó là nhà nước phong kiến Việt
Nam được tổ chức như trên. Nhà nước phong kiến thời Lê sơ đã tiến hành
những hoạt động nhằm phát triển các quan hệ sản xuất phong kiến, đẩy nhanh
hóa quá trình cơ cấu hóa xã hội Đại Việt và cũng cố vững chắc quyền lực nhà
nước trung ương tập quyền.
Cũng chính vì vậy, từ đầu thế kỷ XV trở về trước chưa có triều đại nào
đưa ra chính sách tồn diện có hệ thống và thực hiện cơng cuộc cải cách kiên
quyết và táo bạo như Hồ Qúy Ly và nhà Hồ, cũng đồng nghĩa với lịch sử dân
tộc mấy ngàn năm, thì triều đại nhà Hồ phải chịu sự thất bại nặng nề thảm hại,
dẫn đến mất nước một cách nhanh chóng, cùng với những cuộc cải cách của
ơng còn đang dang dở cũng phải kết thúc theo, nguyên nhân dẫn đến thất bại


20

chủ yếu bắt nguồn từ những hạn chế của biện pháp cải cách và cách thức tiến

hành cải cách quá nhanh khơng phù hợp, song nếu xét q trình lâu dài, thì
lịch sử khơng thể phủ nhận vị trí nổi bật của Hồ Qúy Ly trong dòng lịch sử
dân tộc, chính vì những cuộc cải cách đó đã tích tụ bao nhiêu kinh nghiêm trị
nước trọng đại cho triều đại sau kế thừa. Mở ra một bước phát triển mới trong
lịch sử nhà nước Việt Nam, là tiền đề cho cơng cuộc kháng chiến và cải cách
thành cơng của Bình Định Vương Lê Lợi và nhà Lê thế kỷ XV. Nhà Lê tiến
hành xóa bỏ chế độ ban cấp ruộng đất qui mô lớn thời Lý – Trần, thủ tiêu nền
kinh tế điền trang thái ấp, chú trọng đến việc phát triển nền kinh tế tiểu nông
với chế độ sở hữu nhỏ và vừa, để thực hiện chủ trương này, nhà nước Lê sơ
tiến hành chế độ lộc điền. Trong ba triều đại vua nhà Lê: vua Thái Tổ, Thái
Tông và Nhân Tơng thì việc cấp lộc điền chưa có qui chế rõ rệt. Đến đời vua
Lê Thánh Tông dưới niên hiệu Hồng Đức thì chế độ cấp lộc điền được qui
định chặt chẽ hơn. Lộc điền là đặc quyền của tầng lớp cao nhất trong giai cấp
thống trị, diện được cấp là những thân vương quí tộc, những người gần gũi
Vua những nữ quan thân cận ở triều và quan lại từ hàng tứ phẩm trở lên. Chế
độ lộc điền gồm có hai phần, một phần nhỏ được nhà nước cấp vĩnh viễn gọi
là ruộng và đất thế nghiệp, phần lớn lộc điền còn lại thuộc loại ban cấp tạm
thời, người được cấp có quyền chiếm hữu, sử dụng nó, nếu sau ba năm người
được cấp đất khơng sử dụng hoặc chết thì nhà nước thu hồi lại. Chế độ lộc
điền chỉ cấp cho người được hưởng, chứ không cấp cho cả hộ sống trên đất
đó, người được cấp đất có quyền thu tơ, thu thuế để làm lộc, cịn nơng dân
vẫn là tá điền cày ruộng của nhà vua. Do đó chế độ lộc điền khơng đưa tới
việc thành lập những điền trang lớn, nó tạo ra cơ sở kinh tế của nạn cát cứ
phân quyền, làm cho địa chủ tăng nhanh, tạo điều kiện phát triển chế độ sở
hữu tư nhân về ruộng đất. Vì vậy, trước tình hình thực tiễn mà nhà Lê phải


×