Tải bản đầy đủ (.pdf) (198 trang)

(Luận án tiến sĩ) vai trò nhân tố chủ quan trong phát huy di sản văn hóa ở tuyên quang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.22 KB, 198 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tác giả. Các số liệu, trích dẫn trong luận án
là trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, khơng
trùng lặp với các cơng trình khoa học đã công bố.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trần Quang Huy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án
1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu trong các công trình khoa học
có liên quan và những vấn đề luận án cần tập trung nghiên
cứu, giải quyết
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ NHÂN TỐ
CHỦ QUAN TRONG PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA Ở
TUYÊN QUANG
2.1. Nhân tố chủ quan và vai trò nhân tố chủ quan trong phát huy
di sản văn hóa ở Tuyên Quang
2.2. Những nhân tố quy định thực hiện vai trò nhân tố chủ quan
trong phát huy di sản văn hóa ở Tuyên Quang
Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI THỰC
HIỆN VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG
PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA Ở TUYÊN QUANG
HIỆN NAY
3.1. Thực trạng thực hiện vai trò nhân tố chủ quan trong phát huy
di sản văn hóa ở Tuyên Quang hiện nay


3.2. Những vấn đề đặt ra đối với thực hiện vai trò nhân tố chủ
quan trong phát huy di sản văn hóa ở Tuyên Quang hiện nay
Chương 4 GIẢI PHÁP CƠ BẢN THỰC HIỆN VAI TRÒ NHÂN
TỐ CHỦ QUAN TRONG PHÁT HUY DI SẢN VĂN
HÓA Ở TUYÊN QUANG HIỆN NAY
4.1. Giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các chủ thể
về phát huy di sản văn hoá ở Tuyên Quang hiện nay
4.2. Nâng cao năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn của các chủ
thể trong phát huy di sản văn hoá ở Tuyên Quang hiện nay
4.3. Mở rộng các nguồn lực thúc đẩy hoạt động của chủ thể trong
phát huy di sản văn hóa ở Tun Quang hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ CĨ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
5
10
10
26
32
32
59

77
77
113
121

121
131
145
160
162
163
176


5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Di sản văn hóa là một trong những nguồn lực, tài sản tinh thần vô giá
của mỗi quốc gia, dân tộc. Phát huy có hiệu quả các di sản văn hóa sẽ đóng
góp vai trị quan trọng trong việc giáo dục truyền thống, làm phong phú đời
sống tinh thần và góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, hiệu quả
phát huy các di sản phụ thuộc rất lớn vào nhân tố chủ quan của các chủ thể.
Bởi vì, nhân tố chủ quan giúp cho mỗi chủ thể chiếm lĩnh thông tin, khả năng
vận động, biến đổi tiềm ẩn trong sự phát triển của di sản văn hóa. Trên cơ sở
đó, các chủ thể xác định đúng giải pháp, kế hoạch đến triển khai các hoạt
động cải biến để di sản văn hóa có thể phát huy được giá trị của mình. Trong
bối cảnh có nhiều tác động trái chiều từ nền kinh tế thị trường, xu thế hội
nhập và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, vai trị của nhân tố
chủ quan càng có ý nghĩa đặc biệt hơn để mỗi chủ thể có thể phát huy được
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình đáp ứng mục tiêu phát huy di sản
văn hóa trong điều kiện khách quan mới.
Với đặc điểm là vùng đất giao thoa giữa vùng đông Bắc và tây Bắc
bộ; đặc thù cơ cấu dân tộc - tộc người đa dạng; là q hương cách mạng,
Thủ đơ khu giải phóng, Thủ đơ kháng chiến, tỉnh Tun Quang có kho tàng
di sản văn hóa đặc sắc với rất nhiều loại hình nghệ thuật trình diễn dân

gian, loại hình tập quán xã hội và tín ngưỡng phong phú, đa dạng, đây là
tiềm năng, thế mạnh phục vụ cho sự phát triển bền vững của tỉnh. Tuy
nhiên, hiện nay ở Tuyên Quang, nhiều di sản văn hóa đang bị xuống cấp,
mai một, đứng trước nguy cơ bị thất truyền. Các di sản văn hóa đặc sắc của
tỉnh chưa được khai thác, phát huy tiềm năng, thế mạnh vốn có của nó để
có thể phục vụ cho mục tiêu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân, góp phần đưa Tuyên Quang thốt khỏi tình trạng kém phát triển.


6
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng này là sự nhận thức, tình cảm, thái
độ đối với di sản văn hóa của một bộ phận cán bộ, viên chức và quần chúng
nhân dân ở Tuyên Quang chưa đúng và đầy đủ; các giải pháp phát huy di
sản văn hóa chưa sát với thực tiễn; còn nhiều lúng túng, bất cập trong hoạt
động tổ chức triển khai thực hiện.
Phát huy giá trị của các di sản văn hóa đặc sắc ở Tun Quang
khơng chỉ nhằm mục đích gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc của cộng đồng
các dân tộc trong tỉnh mà cịn góp phần giáo dục truyền thống, tạo nguồn
lực, phát huy thế mạnh phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, góp
phần nâng cao đời sống tinh thần, vật chất cho nhân dân. Nhiệm vụ này là
trách nhiệm của chính mỗi chủ thể ở Tun Quang. Tuy nhiên, muốn hồn
thành nhiệm vụ đó, địi hỏi việc thực hiện vai trò của nhân tố chủ quan
của mỗi chủ thể ở Tuyên Quang cần hiệu quả hơn để mỗi chủ thể khẳng
định được tính chủ động, tích cực, sáng tạo của mình về trình độ nhận
thức, năng lực tổ chức hoạt động ngang tầm với những yêu cầu, đòi hỏi
của thực tiễn phát huy di sản văn hóa ở tỉnh đang đặt ra hiện nay.
Trước những biến đổi của điều kiện khách quan, có nhiều tác động tiêu
cực tới di sản văn hóa với nhiều xu hướng, cường độ ngày càng tăng thì vấn
đề vai trị nhân tố chủ quan càng đòi hỏi cần được nghiên cứu, tìm hiểu sâu
sắc hơn cả về lý luận và thực tiễn. Qua nghiên cứu các cơng trình khoa học đã

cơng bố ở nước ngồi cũng như ở Việt Nam cho thấy, chưa có cơng trình
khoa học nào nghiên cứu về vai trò nhân tố chủ quan trong phát huy di sản
văn hóa ở Tun Quang. Ngồi ra, với mong muốn được đóng góp cơng sức
của bản thân cho sự nghiệp phát huy di sản văn hóa ở địa phương nơi đang
sinh sống và công tác, Nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Vai trò nhân tố chủ
quan trong phát huy di sản văn hóa ở Tuyên Quang hiện nay” làm đề tài để
nghiên cứu trong Luận án Tiến sĩ của mình.


7
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về vai trò nhân tố chủ quan
trong phát huy di sản văn hóa ở Tuyên Quang và đề xuất giải pháp cơ bản
thực hiện vai trò nhân tố chủ quan trong phát huy di sản văn hóa ở Tuyên Quang
hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan những cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài và chỉ ra
những vấn đề đặt ra để luận án tiếp tục giải quyết.
Luận giải những vấn đề lý luận về vai trò nhân tố chủ quan trong phát
huy di sản văn hóa ở Tuyên Quang.
Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện vai trị nhân tố chủ quan trong
phát huy di sản văn hóa ở Tuyên Quang hiện nay và xác định những vấn đề
đặt ra từ thực trạng này.
Đề xuất giải pháp thực hiện vai trò nhân tố chủ quan trong phát huy di
sản văn hóa ở Tuyên Quang hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Vai trò nhân tố chủ quan trong phát huy di sản văn hóa ở tỉnh Tuyên
Quang.

Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Những vấn đề lý luận và thực tiễn vai trò nhân tố
chủ quan của các chủ thể cán bộ, viên chức và quần chúng nhân dân trong
phát huy di sản văn hóa tại các huyện, thành phố của tỉnh Tuyên Quang
Phạm vi khảo sát: Cán bộ, viên chức và quần chúng nhân dân ở 7/7
huyện, thành phố của tỉnh Tuyên Quang
Phạm vi thời gian: Từ năm 2010 đến nay.


8
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên hệ thống quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về nhân tố chủ quan, di sản văn hóa và phát huy di sản văn hóa.
Cơ sở thực tiễn
Là thực trạng thực hiện vai trò nhân tố chủ quan trong phát huy di sản
văn hóa ở Tuyên Quang hiện nay với những mặt ưu điểm, hạn chế thông qua
khảo sát thực tế của tác giả luận án và các văn kiện, nghị quyết của cấp ủy địa
phương, báo cáo của các cơ quan chức năng, tài liệu lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu
Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu
khoa học như: phân tích và tổng hợp; lịch sử và lơgic; trừu tượng hố và khái
qt hố. Ngồi ra, luận án cịn sử dụng các phương pháp liên ngành như:
phương pháp điều tra xã hội học; thống kê, so sánh; ...
5. Những đóng góp mới của luận án
Quan niệm và một số nhân tố quy định việc thực hiện vai trò nhân tố
chủ quan trong phát huy di sản văn hóa ở Tuyên Quang.
Những vấn đề đặt ra đối với thực hiện vai trò nhân tố chủ quan trong
phát huy di sản văn hóa ở Tuyên Quang hiện nay.

Một số giải pháp cơ bản thực hiện vai trò nhân tố chủ quan trong phát
huy di sản văn hóa ở Tuyên Quang hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung, làm sâu sắc lý luận
và cung cấp luận cứ khoa học cho phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong
hoạt động thực tiễn nói chung và trong phát huy di sản văn hóa ở Tuyên
Quang hiện nay nói riêng.


9
Ý nghĩa thực tiễn
Cung cấp cơ sở khoa học để các đơn vị quản lý di sản văn hóa các cấp
tham khảo, vận dụng hiệu quả các giải pháp phát huy vai trò nhân tố chủ quan
trong phát huy di sản văn hóa ở Tuyên Quang.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho học tập, tuyên
truyền, truyền thông và đặc biệt là các chủ thể trong ngành văn hóa của tỉnh
Tuyên Quang hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu; 4 chương (9 tiết); kết luận; danh mục cơng
trình của tác giả đã cơng bố có liên quan đến đề tài luận án; danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến vai trị nhân tố chủ quan

Là vấn đề liên quan trực tiếp đến vai trò chủ thể của con người trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn, vấn đề nhân tố chủ quan được các nhà triết
học xem xét một cách không biệt lập mà trái lại, nó được đặt trong các mối
quan hệ chặt chẽ với các phạm trù “chủ thể”, “khách thể”, “khách quan”,
“chủ quan”, “cái chủ quan”, “cái khách quan”, v.v.. Đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, trong nghiên cứu, nhận diện
và vận dụng các quy luật xã hội, do có sự liên quan trực tiếp nên vấn đề
nhân tố chủ quan được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm chú ý. Tiêu biểu có
các cơng trình khoa học:
Trong bài viết Phép biện chứng về điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan trong việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản [46], tác giả G.E.Glê-decman (1965) đã phân tích nội dung phạm trù nhân tố chủ quan và những phạm
trù liên quan với nó. Theo tác giả, để hiểu về phạm trù “điều kiện khách
quan” và “nhân tố chủ quan” cần phải được bắt đầu từ các khái niệm cơ bản
có liên quan của triết học, nhất là các phạm trù có liên quan trực tiếp như:
khách thể, chủ thể, khách quan, chủ quan... Tác giả khẳng định rằng, cái gì
thuộc về chủ thể và phụ thuộc vào nó là cái chủ quan và hoạt động của con
người luôn luôn diễn ra trong những điều kiện nhất định - những điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan, chúng trở thành các nhân tố hay các mặt của
hoạt động.
Cũng bàn về phạm trù “chủ quan” và “khách quan”, trong cơng trình
Phép biện chứng vật chất - kỹ thuật khoa học tự nhiên, xã hội và kỹ thuật
[91], tác giả Y.K.Plet-ni-côp (1983) cho rằng, khái niệm chủ thể và khách thể
có mối liên hệ chặt chẽ với khái niệm khách quan và chủ quan. Khái niệm


11
“chủ quan” và “khách quan” nói lên thuộc tính chung của chủ thể và khách
thể bộc lộ trong quá trình hoạt động của con người. Theo tác giả, giải thích
một cách chung nhất thì chủ quan và khách quan chính là những thuộc tính
của chủ thể và khách thể trong hoạt động xác định đó.

Trong cơng trình Những quy luật xã hội học [133] của tác giả A.K.Ule-dốp (1980), luận án đã kế thừa được kết quả nội dung phân tích về yếu tố
tư tưởng trong phạm trù nhân tố chủ quan. Từ việc phê phán quan điểm của
một số nhà nghiên cứu đồng nhất nhân tố chủ quan với ý thức của chủ thể, tác
giả cho rằng nhân tố chủ quan chỉ bao gồm những bộ phận ý thức của chủ thể
tham gia vào chỉ đạo hoạt động của chủ thể tác động đến khách thể. Theo tác
giả, cùng với tri thức là những quan điểm, tư tưởng tạo thành niềm tin của chủ
thể trong hành động, là ý chí, quyết tâm của chủ thể trong hoạt động cải tạo
thế giới; tri thức, quan điểm, tư tưởng, niềm tin và ý chí của chủ thể hịa
quyện, thống nhất biện chứng với nhau cùng tham gia vào chỉ đạo hoạt động
của chủ thể, tạo thành những yếu tố của nhân tố chủ quan.
Cơng trình Chủ nghĩa quyết định xã hội: vấn đề động lực thúc đẩy sự
phát triển của xã hội [17], tác giả L.I.Chi-na-ko-va (1985) cho rằng, trong
hoạt động của con người khơng phải những gì thuộc về chủ thể đều được sử
dụng trong quá trình tương tác với một khách thể cụ thể. Chỉ những thuộc
tính, phẩm chất, năng lực mà chủ thể huy động tham gia trực tiếp vào hoạt
động thì mới được coi là nhân tố chủ quan. Trong cơng trình này, L.I.Chi-nako-va cũng lưu ý phân biệt khái niệm “yếu tố” và khái niệm “nhân tố”, theo
đó, “yếu tố” chỉ cái bộ phận, cái hợp thành sự vật, hiện tượng, còn “nhân tố”
chỉ cái trực tiếp gây ra sự biến đổi. Như vậy, “nhân tố chủ quan” chỉ là một bộ
phận của “cái chủ quan” được sử dụng trực tiếp trong quá trình tương tác với
khách thể cụ thể. Và “nhân tố chủ quan” cũng không phải là bản thân chủ thể,
mà là những thuộc tính, những phẩm chất, năng lực của chủ thể được chủ thể
huy động trong một hoạt động cụ thể để tạo ra tính tích cực, sáng tạo nhằm
biến đổi khách thể theo mục đích xác định. Đây là những nội dung có liên


12
quan trực tiếp đến nội đề tài mà luận án tiếp thu, kế thừa cho việc tiếp tục
phân tích, làm rõ nội dung lý luận về nhân tố chủ quan.
Ngoài các cơng trình nêu trên, nhiều nhà nghiên cứu ở nước ngoài đã
đề cập đến vấn đề khách quan, chủ quan, nhân tố chủ quan, điều kiện khách

quan, quan hệ biện chứng cái khách quan và cái chủ quan, vấn đề phát huy vai
trò của nhân tố chủ quan trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hầu hết
đều cho rằng, khái niệm chủ quan và khách quan nói lên thuộc tính chung của
chủ thể và khách thể bộc lộ trong quá trình hoạt động của con người. Nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng, những tính chất, yếu tố thuộc về chủ thể là chủ
quan; những tính chất, yếu tố khơng phụ thuộc vào chủ thể, tồn tại ngồi chủ
thể là khách quan. Tuy nhiên, không thể đồng nhất khái niệm cái khách quan
với khái niệm hiện thực khách quan hay thế giới vật chất nói chung.
Dù điều kiện thực tiễn, hoàn cảnh lịch sử đã khác rất nhiều với hiện
nay, tuy vậy, những kết quả nghiên cứu trong các cơng trình, bài viết này vẫn
cịn có giá trị về mặt khoa học, phương pháp luận, cung cấp cho nghiên cứu
sinh những tri thức khoa học, quan niệm mác-xít về vấn đề khách quan, chủ
quan, nhân tố chủ quan, về mối quan hệ biện chứng giữa cái khách quan và
cái chủ quan để tham khảo, vận dụng trong nghiên cứu luận án của mình.
Vấn đề vai trị nhân tố chủ quan cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu
trong nước quan tâm phân tích, luận giải mà những kết quả nghiên cứu này có
rất nhiều nội dung để nghiên cứu sinh kế thừa, tiếp thu cho luận án của mình.
Cơng trình khoa học Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan trong phát triển bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay [86] của tác giả Phạm Văn Nhuận (2001) là cơng trình có
một số nội dung liên quan trực tiếp tới luận án mà nghiên cứu sinh có thể tiếp
thu và làm rõ thêm đó là: Cơ sở lý luận, phương pháp luận về mối quan hệ
giữa điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan, những vấn đề có tính quy luật
về mối quan hệ giữa chúng. Theo tác giả, nhân tố chủ quan bao gồm một tập
hợp những yếu tố cần thiết tạo ra tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của
chủ thể trong hoạt động nhận thức và cải tạo khách thể nhất định. Trong công


13
trình này, tác giả cịn phân tích một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng

các yếu tố hợp thành nhân tố chủ quan đó là: nâng cao nhận thức, năng lực
hoạt động thực tiễn, phẩm chất nhân cách của các chủ thể thì trước hết cần
giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích, tạo nguồn gốc động lực thúc đẩy tính tích
cực hoạt động của chủ thể.
Trong cơng trình Tích cực hóa nhân tố chủ quan để giai cấp cơng nhân
Việt Nam thực hiện và hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình [65], trên cơ sở
nghiên cứu, tác giả Trần Thị Bích Liên (2001) đã làm rõ thêm một số nội
dung có liên quan trực tiếp tới luận án như: Quan niệm về các phạm trù chủ
thể, cái chủ quan, nhân tố chủ quan, điều kiện khách quan; thực chất của vấn
đề tích cực hóa nhân tố chủ quan. Tác giả cho rằng, trong những điều kiện
khách quan đã chín muồi, hay đã ít nhiều chín muồi thì vai trị của nhân tố
chủ quan có ý nghĩa quyết định, được coi là nhân tố chủ đạo trong việc biến
khả năng thành hiện thực, thúc đẩy hay kìm hãm sự tiến bộ xã hội. Do đó
phải khơng ngừng gia tăng tính năng động, sáng tạo của ý thức, gia tăng tính
năng động chủ quan trong hoạt động thực tiễn của con người, của các giai
cấp, các đảng phái trong thực tiễn, và các nhóm giải pháp chủ yếu nhằm tích
cực hóa nhân tố chủ quan là giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và giải
pháp về xây dựng giai cấp cơng nhân.
Trong cơng trình nghiên cứu Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong
hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay
[66], tác giả Nguyễn Hồng Lương (2006) đã nhấn mạnh rằng, đặc trưng của
nhân tố chủ quan là bộ phận ý thức đã trở thành sự chỉ đạo, sự kích thích và là
phương châm của hoạt động, tức là cái ý thức đã biến thành động lực của
hành vi, của hoạt động của chủ thể. Tác giả cịn cho rằng, vai trị tích cực,
sáng tạo của nhân tố chủ quan là sự phát hiện ra khả năng khách quan, trên cơ
sở những điều kiện, phương tiện vật chất của hoàn cảnh khách quan để tác
động và biến đổi nó theo quy luật vốn có của nó. Về phát huy vai trò nhân tố
chủ quan, theo tác giả, đó chính là phát huy tính tích cực, sáng tạo của chủ



14
thể, trong việc vận dụng quy luật khách quan, tác động vào điều kiện khách
quan. Do đó, phải ngăn ngừa cả khuynh hướng chủ thể thụ động, ỷ lại, trông
chờ vào hoàn cảnh khách quan và khuynh hướng hành động duy ý chí, bất
chấp hồn cảnh khách quan, khơng tơn trọng, hoặc không vận dụng sáng tạo
quy luật khách quan vào hồn cảnh cụ thể.
Ngồi các cơng trình nêu trên, cịn có nhiều cơng trình khác cũng đã
nghiên cứu về vấn đề nhân tố chủ quan và vai trò của nó ở các lĩnh vực như
cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nông thôn, trong xây dựng,
phát triển sức mạnh chiến đấu của quân đội nhân dân,... Trên nhiều tạp chí lý
luận, sách tham khảo cũng có nhiều bài viết đề cập tới nội dung này, các tác
giả đã hệ thống lại một số quan điểm của các nhà nghiên cứu về vấn đề nhân
tố chủ quan, điều kiện khách quan và vận dụng đề xuất những giải pháp nâng
cao vai trò nhân tố chủ quan trong giai đoạn hiện nay. Các kết quả nghiên cứu
trước đây của các tác giả chính là những gợi ý quý giá cho nghiên cứu sinh
tham khảo và tiếp tục nghiên cứu, làm rõ trong luận án của mình.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến phát
huy di sản văn hóa
Phát huy di sản văn hóa là vấn đề đã được nhiều nhà khoa học quan
tâm và có nhiều cơng trình nghiên cứu được cơng bố. Có thể kể đến một số
cơng trình mà kết quả nghiên cứu có đề cập tới vấn đề lý luận chung về phát
huy di sản văn hóa của đề tài luận án. Trong tác phẩm Một số vấn đề về bảo
tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc [139], tác giả Hồng Vinh (1997) đã
trình bày một số nội dung mà nghiên cứu sinh có thể tiếp thu, vận dụng như:
Lý luận về vai trò, chức năng của di sản văn hóa trong việc lựa chọn mơ
hình phát triển văn hóa dân tộc; việc giữ gìn và phát huy di sản văn hóa dân
tộc ở Việt Nam; một số bài học kinh nghiệm của Nhật Bản về việc hiện thực
hóa di sản văn hóa trong đời sống với các biện pháp về tổ chức bộ máy hành
chính và ngân sách hoạt động, khai thác các giá trị văn hóa truyền thống.



15
Trong cuốn sách Cơ sở triết học của văn hóa nghệ thuật Việt Nam [60] do
Đỗ Huy chủ biên (2002) đã trình bày một số vấn đề lý luận mà nghiên cứu
sinh có thể tiếp thu, đó là: Mối quan hệ giữa triết học và văn hóa nghệ thuật;
mơ thức phát triển văn hóa nghệ thuật của Đảng ta; quan niệm duy vật lịch
sử về mơ thức văn hóa nghệ thuật trong thời kỳ đổi mới và quan điểm biện
chứng trong giải pháp thực hiện mơ hình.
Trong tác phẩm Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và
hội nhập quốc tế [45] do Phan Hồng Giang, Bùi Hồi Sơn làm đồng chủ biên
(2012) có nội dung liên quan đến luận án, đó là: Những cơ hội, thách thức
trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở nước ta hiện nay; những
nguyên tắc định hướng quan điểm và giải pháp trong tổ chức hoạt động của các
chủ thể quản lý trong hoạt động giữ gìn, phát huy di sản văn hóa. Cuốn sách 10
năm thực hiện cơng ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO bài
học kinh nghiệm và định hướng tương lai [141], ngoài nội dung khẳng định
tầm quan trọng của Cơng ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể 2003 của
UNESCO; đánh giá những thành tựu, hạn chế, cơ hội và thách thứ đối với việc
bảo vệ di sản, các tác giả còn đề xuất nhiều giải pháp khả thi để nâng cao hiệu
quả sự tham gia của Việt Nam vào việc thực hiện Công ước; làm rõ mối quan
hệ giữa di sản văn hóa phi vật thể với di sản văn hóa vật thể, với đa dạng văn
hóa và sự tham gia của các nhóm chủ thể khác nhau trong phát huy giá trị của
chúng. Trong cuốn Văn hoá và phát triển [49], do Nguyễn Toàn Thắng, Vũ Thị
Phương Hậu làm chủ biên (2018), đã cung cấp cho nghiên cứu sinh một số kiến
thức về phát huy các giá trị văn hoá dân tộc trong giao lưu, hội nhập quốc tế,
nghiên cứu sinh còn tham khảo được một số kiến nghị về nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về lĩnh vực này
Các bài viết trong tác phẩm Một con đường tiếp cận di sản văn hóa [26]
của Cục di sản văn hóa (2006) cung cấp cho nghiên cứu sinh nội dung liên quan
đến một số vấn đề đặt ra trong luận án như: Vấn đề lý luận chung về di sản văn



16
hóa; những nhận định khái qt về thực trạng cơng tác giữ gìn, phát huy giá trị
các di sản, về trách nhiệm quản lý của các cơ quan hữu quan, về trách nhiệm giữ
gìn của quần chúng nhân dân… Ngồi ra, các tác giả của cơng trình này cịn đưa
ra và luận giải một số giải pháp nhằm bảo tồn, giữ gìn, phát huy giá trị của các di
sản. Cục di sản văn hóa (2007) cịn có cuốn Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể
[27] mà trong đó có nội dung liên quan tới luận án như vấn đề lý luận cơ bản và
những kinh nghiệm thực tế về di sản văn hóa. Cuốn sách đã nêu các vấn đề lý
luận với những góc nhìn khác nhau về di sản và bảo vệ di sản văn hóa phi vật
thể. Nội dung cuốn sách còn chia sẻ kinh nghiệm của Việt Nam và quốc tế trong
bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể; bài học lý luận và thực tiễn, nguyên nhân hạn
chế, một số yếu tố then chốt đem đến sự thành công và một số khuyến nghị đối
với các cơ quan quản lý các cấp trong việc thực hiện các dự án di sản.
Cũng đề cập tới những nội dung cơ bản về phát huy di sản văn hóa, tác
phẩm Truyền thống Việt Nam qua Di sản văn hóa - Nhận thức, khám phá và
bảo tồn [55] là tập hợp kết quả nghiên cứu của Nguyễn Quốc Hùng (2013) về
nhiều loại hình di sản khác nhau. Ở phần thứ nhất của cuốn sách, tác giả định
hướng từ nhận thức đúng đắn về giá trị, vai trò của di sản đến khám phá, tìm
hiểu những thách thức, khó khăn, thực trạng và bảo tồn, phát huy giá trị của di
sản văn hoá. Phần thứ hai là những định hướng về giải pháp bảo tồn và phát
huy di sản, đặc biệt là những di sản thế giới của Việt Nam; những kinh
nghiệm trong công tác bảo tồn và phát huy di sản ở trong nước và nước ngoài.
Trong cuốn sách Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam [11], tác
giả Trương Quốc Bình (2014) đã giới thiệu các bài viết về gìn giữ và phát huy
giá trị di sản văn hóa Việt Nam. Ngồi những những ý kiến luận giải về vai
trò của sưu tập hiện vật trong quá trình chuẩn bị xây dựng và tổ chức hoạt
động của các bảo tàng ở Việt Nam, tác giả đã phân tích những khía cạnh khác
nhau về việc phát huy những giá trị đặc sắc của kho tàng di sản văn hóa.



17
Ngồi các cơng trình đề cập đến những vấn đề lý luận chung, cịn có
một số cơng trình được tác giả trình bày kết quả nghiên cứu việc phát huy di
sản văn hóa ở một địa phương cụ thể. Nghiên cứu sinh có thể tiếp thu cả
những nội dung về lý luận chung và đặc biệt là những gợi ý về các giải pháp
phát huy di sản văn hóa. Trong tác phẩm Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn
hóa vật thể Thăng Long - Hà Nội [10] do Nguyễn Chí Bền làm chủ biên
(2010) và tác phẩm Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở
Thăng Long - Hà Nội [129] do Võ Quang Trọng làm chủ biên (2010) là hai
cuốn sách nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề di sản văn hóa ở Hà Nội. Hai
cuốn sách này có liên quan tới luận án ở những nội dung như: Những khái
niệm cơ bản về di sản văn hoá, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa; nội
dung cơ bản của các văn bản có tính quy phạm pháp luật về bảo tồn, phát huy
giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể, các công ước và khuyến cáo của
UNESCO về di sản văn hoá; kinh nghiệm của một số nước và những giải
pháp có tính khả thi nhằm góp phần nâng cao hiệu quả bảo tồn, phát huy giá
trị của di sản văn hoá trước mắt, cũng như lâu dài. Trong cơng trình nghiên
cứu Vấn đề giữ gìn và phát huy di sản văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay
[82], tác giả Trần Thị Hồng Minh (2014) đã trình bày nhiều nội dung về phát
huy di sản văn hóa mà luận án có thể tiếp thu, vận dụng. Tác giả đã trình bày
một số vấn đề về cơ sở lý luận của giữ gìn, phát huy di sản văn hóa ở nước ta;
các khái niệm văn hóa, di sản văn hóa, giữ gìn và phát huy di sản văn hóa
được tác giả tổng hợp, phân tích và chỉ ra kinh nghiệm của một số quốc gia
trên thế giới. Về giải pháp phát huy di sản văn hóa, tác giả đề xuất cần thực
hiện đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục để nâng cao nhận thức; thúc đẩy phát
triển kinh tế, tăng tích lũy tạo điều kiện tăng đầu tư; nâng cao năng lực quản
lý, các chương trình hành động cụ thể đối với từng loại hình di sản; đẩy mạnh
hợp tác quốc tế và kết hợp chặt chẽ di sản văn hóa với phát triển du lịch.

Bên cạnh các cơng trình nghiên cứu giới thiệu trên, cịn có nhiều cuốn
sách và nhiều bài viết khác về vấn đề phát huy di sản. Các tác giả đã không


18
chỉ luận bàn những vấn đề lý luận về vị trí, vai trị của di sản mà cịn đề xuất
nhiều giải pháp để phát huy di sản văn hoá. Những kết quả nghiên cứu này là
cơ sở lý luận và những kinh nghiệm thực tiễn để nghiên cứu sinh vận dụng
trong nghiên cứu vấn đề phát huy di sản văn hóa ở Tuyên Quang.
Đối với vấn đề phát huy di sản văn hóa ở tỉnh Tuyên Quang, những
năm gần đây đã có một số cơng trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp tới
luận án, giúp nghiên cứu sinh tiếp cận và khái quát những đặc trưng cơ bản
của di sản văn hóa ở Tuyên Quang.
Kết quả nghiên cứu về một số di sản văn hóa tiêu biểu của cộng đồng
dân tộc - tộc người ở Tuyên Quang được trình bày trong cơng trình đã cơng
bố của một số tác giả. Cơng trình nghiên cứu Văn hóa phi vật thể dân tộc Tày
[131] của tác giả Nông Quốc Tuấn, Nguyễn Hữu Thọ (2006) có nội dung giới
thiệu tồn bộ các loại hình văn hóa phi vật thể với những nét đặc trưng của
người Tày ở Nà Hang, Tuyên Quang. Các tác giả của cơng trình này cho rằng,
do tác động của các yếu tố ngoại cảnh, do sự thay đổi về kỹ thuật canh tác và
do ý thức trách nhiệm của chính cộng đồng người Tày mà trong những năm
gần đây có xu hướng “Kinh hóa” đời sống sinh hoạt. Ngoài ra, các tác giả
cũng đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống của người dân tộc Tày ở huyện Na Hang nói riêng và ở tỉnh
Tuyên Quang nói chung. Cũng nghiên cứu về di sản văn hóa của cộng đồng
người dân tộc Tày, cơng trình Then Tày Tun Quang [40] của nghệ nhân Ma
Văn Đức (2002) là kết quả nghiên cứu chi tiết về Then Tày. Trong cơng trình
này, tác giả đã trình bày những nghiên cứu về nguồn gốc của nghệ thuật hát
Then; của cây đàn Tính, phân loại; những đặc điểm cơ bản của các loại Then
trên cơ sở phân chia theo hình thức, nội dung thể hiện và khái quát nội dung

tư tưởng thể hiện trong các khúc hát. Đặc biệt, tác giả đã khái quát thực trạng
công tác bảo tồn nghệ thuật Then Tày ở Tuyên Quang và đưa ra một số giải
pháp cụ thể để phát triển loại hình nghệ thuật này trong cộng đồng.


19
Văn hóa truyền thống của người Sán Dìu ở Tun Quang [106] của
Nguyễn Ngọc Thanh (2011) là cơng trình nghiên cứu tổng quan các loại hình
văn hóa truyền thống từ phong tục, tập quán đến trang phục, tri thức dân gian
của người Sán Dìu ở Tuyên Quang. Tác giả đã chỉ ra các nguyên nhân khiến
văn hóa truyền thống của người Sán Dìu bị biến đổi và đề xuất phải bảo tồn
và phát huy những yếu tố văn hóa tích cực, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội của địa phương; yêu cầu vừa phải bảo tồn, vừa phải tiếp thu những yếu tố
mới để cho những di sản văn hóa khơng bị “chết” trong khn khổ truyền
thống. Nghiên cứu về một di sản đặc sắc của người Sán Dìu ở Tun Quang,
tác giả Mai Đức Thơng (2004) trong cơng trình Bảo tồn hát Soọng cơ dân tộc
Sán Dìu ở Tuyên Quang [112] đã trình bày những nét nghệ thuật về thể thơ,
sử dụng ca từ, âm điệu và những đặc trưng cơ bản của Soọng cô khi hát ở
từng hoàn cảnh nhất định. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả cũng đã chỉ ra
những khó khăn hạn chế trước thực trạng hát Soọng cô bị mai một và đề xuất
những định hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm bảo tồn, phát huy di sản
văn hoá truyền thống đặc sắc này của người dân tộc Sán Dìu ở Tuyên Quang.
Kết quả nghiên cứu về phát huy di sản văn hóa của cộng đồng người
Dao ở Tuyên Quang được các tác giả trình bày tại Hội thảo Bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc Dao trong bối cảnh hội nhập và phát triển đất
nước [16] do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Ủy ban nhân dân tỉnh
Tuyên Quang tổ chức năm 2019. Kỷ yếu hội thảo tập hợp các bài viết, các
cơng trình nghiên cứu có nội dung về đánh giá thực trạng và những giải pháp
bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Dao ở nước ta trong
bối cảnh hiện nay. Đặc biệt, trong công trình này, nghiên cứu sinh cịn có thể

tiếp thu, vận dụng nội dung đánh giá giá trị và một số giải pháp cụ thể nhằm
bảo tồn, phát huy giá trị của một số di sản văn hóa của người dân tộc Dao ở
Tuyên Quang như Lễ cấp sắc, trang phục truyền thống, dân ca…
Tác phẩm Bước đầu tìm hiểu dân ca dân tộc Tày, Sán Dìu và Cao Lan
[103] của Sở Văn hóa - Thơng tin Tun Quang (2007) đã tổng hợp kết quả từ


20
các đề tài nghiên cứu riêng về loại hình dân ca Then, Soọng cơ, Sình ca của
người dân tộc Tày, Sán Dìu, Cao Lan. Trong ba phần đầu của tác phẩm này,
các tác giả giới thiệu chi tiết về khái niệm, nguồn gốc, cấu trúc loại hình, phân
loại, nội dung tư tưởng phản ánh và những nét đặc trưng về nghệ thuật của các
loại hình hát múa dân gian: hát và múa Then của dân tộc Tày; hát Soọng cô của
dân tộc Sán Dìu; hát Sình ca của dân tộc Cao Lan. Nội dung phần bốn trình bày
thực trạng bảo tồn, phát huy, lưu giữ, truyền thụ các di sản văn hóa dân ca đặc
sắc của 3 dân tộc; chỉ ra các nguyên nhân chủ yếu khiến các làn điệu dân ca
khơng cịn được phổ biến; đưa ra một số giải pháp để nhằm bảo tồn, phát huy
để ca Then, Soọng cơ và Sình ca được tiếp tục truyền thụ. Nội dung cơ bản về
các lễ hội, lễ cúng của đồng bào các dân tộc Tày, Dao, Pà Thẻn, Sán Dìu, Cao
Lan, Nùng và dân tộc Kinh được các tác giả Nguyễn Việt Thanh, Đinh Huyền
Trang (2012) trình bày trình trong tác phẩm Lễ hội ở Tuyên Quang [108]. Các
nghi lễ - lễ hội được khảo cứu bao gồm: lễ được tổ chức vào đầu xuân mới,
tháng Giêng, tháng Ba, tháng Sáu, lễ cầu mùa, lễ cúng các thần, cúng lễ trong
chu kỳ đời người... Từ đánh giá thực trạng thực hành các nghi lễ này, các tác
giả đã đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng nhằm bảo tồn và phát
huy giá trị các lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang. Cùng nghiên
cứu về tập qn xã hội và tín ngưỡng, trong cơng trình nghiên cứu Nghi lễ
người Dao Quần Chẹt [113] do Mai Đức Thơng làm chủ biên (2008) đã trình
bày khái qt những nghi lễ cơ bản của một trong chín ngành Dao ở Tun
Quang. Trong cơng trình này, nghiên cứu sinh được tiếp cận thêm những tư

liệu về nghi lễ truyền thống của người Dao Quần chẹt ở Tuyên Quang với
những nét văn hóa đặc sắc qua phong tục, các nghi lễ của đồng bào và đề xuất
các khuyến nghị, các giải pháp cụ thể để bảo tồn và phát huy giá trị của nó.
Ngồi ra, cịn có một số cơng trình được các tác giả giới thiệu một cách
tổng quát về di sản văn hóa ở Tuyên Quang như tác phẩm Tiền sử và sơ sử
Tuyên Quang [22] do Trình Năng Chung làm chủ biên (2009), tác phẩm Di
tích danh thắng Tuyên Quang [88] của nhà nghiên cứu Phù Ninh (2008).


21
Qua tổng quan các cơng trình nghiên cứu về phát huy di sản văn hóa,
nghiên cứu sinh đã được tiếp cận những nội dung tri thức có liên quan trực
tiếp đến luận án về nét đặc thù của các di sản văn hố truyền thống và thực
trạng cơng tác phát huy giá trị của những di sản văn hóa này. Những nội dung
này là nguồn tư liệu, là cơ sở để nghiên cứu sinh tiếp tục tìm hiểu, đánh giá
thực trạng về việc phát huy di sản văn hóa ở Tun Quang hiện nay.
1.1.3. Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến vai
trò nhân tố chủ quan trong phát huy di sản văn hóa
Trong tác phẩm Một con đường tiếp cận di sản văn hóa [26] của Cục
Di sản văn hóa (2006), các nhà nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề hoạch
định kế hoạch và vấn đề nhân lực trong giữ gìn di sản văn hóa là những nội
dung mà nghiên cứu sinh có thể kế thừa cho nội dung về vai trò nhân tố
chủ quan trong đề tài luận án của mình. Quan điểm của nhà nghiên cứu
Nguyễn Quốc Hùng về các vấn đề: Sự hợp tác giữa các cấp, các ngành ở
Trung ương và địa phương; việc lồng ghép giữa Chương trình mục tiêu
quốc gia về chống xuống cấp và tơn tạo di tích, bảo tồn di sản văn hóa phi
vật thể và Chương trình quốc gia về du lịch, các chương trình về mơi
trường, phát triển rừng, giáo dục, các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tại
các khu vực có di sản thế giới; công tác đào tạo cán bộ về chuyên môn và
thái độ ứng xử đối với di sản cho cán bộ và nhân dân các địa phương. Đối

với các chủ thể khi tham gia tu bổ, tơn tạo các di tích, nhà nghiên cứu Đặng
Văn Bài đưa ra một số yêu cầu cụ thể: Yêu cầu kiến thức về ý tưởng sáng
tạo cơng trình cũng như các sự kiện lịch sử và văn hóa đã diễn ra tại di
tích; u cầu có thái độ trân trọng đối với các yếu tố nguyên gốc và các bộ
phận của di tích. Cũng đưa ra các yêu cầu đối với chủ thể của công tác này,
nhà nghiên cứu Đồn Bá Cử cho rằng: khơng chỉ cần có trình độ chun
gia, cần có sự phối hợp chun ngành mà cịn địi hỏi phải có tâm huyết, có
thái độ trân trọng những gì cha ơng để lại.


22
Trong tác phẩm Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể [27] của Cục di sản
văn hóa (2007), nghiên cứu sinh được tiếp cận và kế thừa một số nội dung
về vấn đề nguồn nhân lực trong giữ gìn di sản văn hóa mà nhà nghiên cứu
Dawnhee Yim đã chia sẻ kinh nghiệm của Hàn Quốc. Tác giả đã trình bày
về vai trị của quần chúng nhân dân trong việc trao truyền và tiếp nối; vai trò
các báu vật nhân văn sống trong truyền dạy cho các nghệ nhân trẻ tuổi
những kỹ năng của loại hình di sản của mình. Đồng thời, tác giả cịn chia sẻ
một số giải pháp cụ thể để tạo động lực tham gia hoạt động cho các báu vật
nhân văn sống và các nghệ nhân trẻ tuổi.
Trên nhiều số của Tạp chí Di sản văn hóa đã có nhiều bài viết của
nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu đề cập đến những khía cạnh khác
nhau của vấn đề nhân tố chủ quan trong giữ gìn, phát huy di sản văn hóa.
Đây cũng là những nội dung có liên quan trực tiếp đến luận án mà nghiên
cứu sinh có thể tiếp thu, kế thừa. Tác giả Đồn Bá Cử (2009) trong bài
viết Làm gì để nâng cao chất lượng tu bổ bảo tồn tôn tạo di tích lịch sử
văn hóa [25], đã phân tích về vấn đề nhân tố chủ quan trong công tác tu
bổ tơn tạo di tích, đó là: Người quản lý là người làm chủ trực tiếp; người
chủ đầu tư; người tư vấn, tư vấn đầu tư, tư vấn thiết kế…; người thi công.
Theo tác giả: Thứ nhất, không thể ứng xử với di tích như những dự án đầu

tư xây dựng; thứ hai, phải hiểu biết kiến thức và tình cảm đối với di tích,
người thực hiện tu bổ những cơng trình của tổ tiên đều cần đủ tầm nhận
thức và với tấm lịng thành kính.
Trong bài viết Cộng đồng với việc bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể
[128] tác giả Nguyễn Thị Thu Trang (2016) khẳng định vai trò quyết định của
cộng đồng trong việc lựa chọn đối tượng văn hoá để bảo tồn. Tác giả đề xuất
giải pháp để phát huy tối đa nguồn lực cộng đồng là cần quán triệt quan điểm
cơ bản: tự nguyện, đồng thuận, tự do, bình đẳng và cùng có lợi. Nhà nghiên
cứu Nguyễn Quốc Hùng (2015) trong bài viết Vai trò của cộng đồng trong
bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa [56] đã giới thiệu các hoạt


23
động kỹ thuật, các phương thức huy động tài lực, vật lực, các giải pháp phát
huy động lực trong nhân dân thời xưa để phục vụ rất hiệu quả việc bảo tồn di
tích. Ngày nay, theo tác giả, cần phải có những cơ chế, chính sách thích hợp
để khơi dậy nguồn lực tinh thần và vật chất của cộng đồng cho việc bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa. Cùng luận bàn về vai trị của cộng đồng
trong phát huy di sản văn hóa phi vật thể, hai tác giả Nguyễn Đức Tăng và
Dương Bích Hạnh (2014) trong bài Một số khuyến nghị về công tác bảo vệ di
sản văn hóa phi vật thể [105] đã đưa ra khuyến nghị, đó là: Khuyến khích và
thúc đẩy cộng đồng trực tiếp tham gia quản lý di sản văn hóa phi vật thể; nâng
cao nhận thức đúng về việc thực hiện Công ước 2003 của UNESCO về Bảo
vệ di sản văn hóa phi vật thể.
Trong nhiều bài viết khác trên Tạp chí Di sản văn hóa, nghiên cứu sinh
có thể kế thừa những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học về vấn đề vai
trò của nhân tố chủ quan. Nhà nghiên cứu Lưu Trần Tiêu (2012) trong bài viết
Mấy vấn đề về nguồn nhân lực trong hoạt động bảo tồn di tích lịch sử - văn
hóa [120] nêu quan điểm về vấn đề hình thành “nguồn vốn con người” trong
hoạt động bảo tồn di tích; đề xuất các giải pháp để phát triển đội ngũ cán bộ

quản lý, đội thợ lành nghề và hướng tới nâng cao nhận thức cho cộng đồng để
phát huy giá trị di sản, đóng góp vào q trình thi cơng bảo tồn, tơn tạo các di
tích. Trong bài Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể - từ góc nhìn tồn cầu hóa
[4], nhà nghiên cứu Đặng Văn Bài (2007) khẳng định, bảo tồn di sản văn hóa
phi vật thể phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức và hành vi của các chủ thể sáng
tạo văn hóa và các chủ sở hữu di sản, mà vai trị chính sẽ thuộc về chính cộng
đồng cư dân địa phương. Đồng thời, theo tác giả, sự kết hợp sức mạnh tổng
hợp của các nhà quản lý, nhà khoa học, của doanh nhân và từng thành viên
cộng đồng làng xã có vai trị quyết định sự tồn vong của di sản văn hóa. Tác
giả Nguyễn Viết Cường (2014) trong bài Bảo tồn di tích trong bối cảnh hiện
nay [32] đã chỉ ra nguyên nhân dẫn đến việc ứng xử với di tích cịn nhiều sai


24
sót, cực đoan chủ yếu là do sai lầm trong nhận thức của các chủ thể. Vì vậy,
nâng cao nhận thức cho các chủ thể, theo tác giả là việc cần làm trước tiên.
Trong các cơng trình nghiên cứu về một số di sản văn hóa đặc sắc ở
Tuyên Quang, khi đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm giữ gìn,
phát huy di sản, các tác giả cũng đã có những đề cập nhất định đến vai trị của
nhân tố chủ quan. Cơng trình Văn hóa phi vật thể dân tộc Tày [131], tác giả
Nông Quốc Tuấn, Nguyễn Hữu Thọ (2006) đã lý giải sự mai một của các giá
trị văn hóa truyền thống của đồng bào người Tày ở Tuyên Quang. Theo các
các tác giả, nguyên nhân chính của thực trạng này là tâm lý ngại ngùng, thiếu
ý thức tự tôn dân tộc của các chủ thể trong q trình giao lưu, tiếp xúc văn
hóa với các dân tộc khác. Do đó, phải tuyên truyền, giáo dục nâng cao lòng tự
hào dân tộc về những di sản văn hóa truyền thống; duy trì, phát triển các đội
văn nghệ quần chúng ở thôn bản; tranh thủ sự trao truyền của các nghệ nhân,
già làng. Trong cơng trình Then Tày Tuyên Quang [39], vấn đề nhân tố chủ
quan trong phát huy di sản văn hóa được nghệ nhân Ma Văn Đức (2002) đề
cập đến qua việc chỉ ra nguyên nhân hạn chế về nhận thức của các chủ thể

quản lý và ý thức trách nhiệm các nghệ nhân dân gian dẫn đến hát Then Tày
ngày nay đang bị mai một. Tác giả cũng đã đề xuất một vài giải pháp chủ yếu
để phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ văn hóa cấp xã, phường, chủ nhiệm các
nhà văn hóa và vai trị của đội ngũ nghệ nhân dân gian.
Tác giả Mai Đức Thông (2004) trong công trình Bảo tồn hát Soọng cơ
dân tộc Sán Dìu ở Tuyên Quang [112] đã đề xuất các giải pháp phát huy vai
trò nhân tố chủ quan trong bảo tồn di sản hát Soọng cô: Sự chủ động phối hợp
của ngành văn hóa với các cấp, các ngành liên quan để làm công tác tuyên
truyền, giới thiệu, phổ biến hát Soọng cơ bằng nhiều hình thức; thống kê danh
sách nghệ nhân dân gian, và có cơ chế, chính sách động viên, khuyến khích
thỏa đáng để các nghệ nhân phát huy tốt nhất vai trị của mình. Cũng theo tác
giả này, trong cơng trình Nghi lễ người Dao Quần Chẹt [113], vấn đề nhân tố
chủ quan được đề cập đến ở các nội dung: Vai trò, trách nhiệm của chủ thể


25
quản lý nhà nước và đội ngũ các nghệ nhân dân gian; giải pháp để nâng cao
vai trò quản lý nhà nước, gắn kết chặt chẽ giữa công tác bảo tồn văn hóa
truyền thống với hoạt động du lịch, tạo cơ chế hỗ trợ về vật chất và tinh thần;
tuyên truyền, nâng cao nhận thức của nhân dân về giá trị của di sản văn hóa.
Các tác giả của cuốn Bước đầu tìm hiểu dân ca dân tộc Tày, Sán Dìu
và Cao Lan [103] đã giúp nghiên cứu sinh tiếp cận một số nội dung liên
quan đến vấn đề nhân tố chủ quan trong phát huy di sản văn hóa ở Tuyên
Quang như: Những bất cập, mâu thuẫn trong công tác giữ gìn, phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc trong tỉnh; những
hạn chế của các chủ thể quản lý ở các cấp về nhận thức và tổ chức thực
hiện kế hoạch giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Các nhà
nghiên cứu tham gia Hội thảo Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Dao trong bối cảnh hội nhập và phát triển đất nước [16] đã lý giải nguyên
nhân khiến cho các di sản văn hóa truyền thống của đồng bào người Dao ở

Tuyên Quang bị lấn át bởi các yếu tố văn hóa ngoại lai, đó là: Ngồi sự lạc
hậu về kinh tế thì cịn do yếu tố tình cảm và sự động viên, khuyến khích;
Nhà nước chưa có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân dân gian; thế hệ
trẻ có người cịn cho đó là lạc hậu, là cổ hủ. Hội thảo quốc tế Du lịch Lâm
Bình, Tuyên Quang tiềm năng, thực trạng và giải pháp [123] đã được nhiều
nhà khoa học, quản lý trong và ngoài nước trao đổi, thảo luận, chia sẻ một
số giải pháp hướng tới nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời
sống cho cộng đồng dân cư tham gia giữ gìn, phát huy di sản gắn với phát
triển ngành kinh tế du lịch.
Như vậy, vấn đề vai trò nhân tố chủ quan trong phát huy di sản văn
hóa đã được nhiều nhà nghiên cứu phân tích ở từng khía cạnh trong một số
cơng trình đã cơng bố. Trong đó, vai trị cụ thể của từng nhóm chủ thể lãnh
đạo, quản lý, thực hiện và đặc biệt là chủ thể cộng đồng dân cư đã được
xác định khá cụ thể, giúp cho nghiên cứu sinh được tiếp cận những thông
tin, tri thức không chỉ về mặt lý luận mà cả mặt thực tiễn của vấn đề này.


26
Trong các cơng trình nghiên cứu di sản văn hóa ở Tun Quang đã cơng
bố, dù với nhiều góc tiếp cận chuyên ngành khác nhau, nhưng vấn đề vai
trò nhân tố chủ quan mới chỉ được các nhà nghiên cứu đề cập đến những
nội dung nhất định qua việc đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp giữ
gìn, phát huy di sản. Như thế, cho tới nay, chưa có cơng trình khoa học nào
nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu, làm rõ lý luận và thực tiễn
về nội dung, giải pháp thực hiện vai trò nhân tố chủ quan trong phát huy di
sản văn hóa ở Tuyên Quang hiện nay.
1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu trong các cơng
trình khoa học có liên quan và những vấn đề luận án cần
tập trung nghiên cứu, giải quyết
1.2.1. Khái quát kết quả nghiên cứu trong các cơng trình khoa học

có liên quan đến đề tài luận án
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã trình bày một cách khái qt,
có hệ thống và toàn diện về vấn đề biện chứng giữa cái khách quan và cái
chủ quan; về chủ thể và khách thể; về mối quan hệ giữa điều kiện khách quan
và nhân tố chủ quan.
Vấn đề “nhân tố chủ quan” đã được các nhà nghiên cứu đặt trong mối
quan hệ chặt chẽ với các phạm trù “chủ thể”, “khách thể”, “khách quan”, “chủ
quan”, ... Về mối liên hệ biện chứng giữa chúng, các nhà nghiên cứu đều
khẳng định tính quyết định của yếu tố khách quan, đồng thời cũng khẳng định
vai trị, tính tích cực, sáng tạo của yếu tố chủ thể, chủ quan hay nhân tố chủ
quan trong các hoạt động của con người với tư cách là chủ thể hoạt động. Kết
quả nghiên cứu này là cơ sở nền tảng để nghiên cứu sinh tiếp tục đi sâu
nghiên cứu những nội dung của vấn đề nhân tố chủ quan trong quan hệ với
phát huy di sản văn hóa.
Thứ hai, nhiều cơng trình khoa học đã đi sâu nghiên cứu vấn đề di sản
văn hóa và đề cập tới phương hướng, giải pháp phát huy di sản văn hóa.


27
Những vấn đề lý luận về công tác bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa
gồm cả di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể đã được các nhà
nghiên cứu phân tích làm rõ ở phương diện lý luận chung và một số trường
hợp cụ thể. Các tác giả cũng đã chia sẻ kinh nghiệm thực hiện ở một số nước
điển hình, đồng thời phân tích, đề xuất một số giải pháp cụ thể để phát huy
giá trị di sản văn hoá tiêu biểu của một số địa phương ở Việt Nam.
Đối với vấn đề giữ gìn, phát huy di sản văn hóa ở Tun Quang, các
cơng trình nghiên cứu mang tính hệ thống và chun sâu cịn rất ít và sơ lược.
Nội dung của các cơng trình chủ yếu là những sưu tầm, giới thiệu khái quát
những nét đặc trưng về đời sống văn hóa của các dân tộc sinh sống trên địa
bàn của tỉnh. Việc nghiên cứu, vận dụng lý luận chung về di sản văn hóa, giữ

gìn, phát huy giá trị của di sản văn hóa vào thực tiễn ở địa phương cũng chưa
được các tác giả quan tâm giải quyết.
Thứ ba, nhiều cơng trình đã đi sâu nghiên cứu về nhân tố chủ quan, cơ
chế tác động, phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội và phát huy vai trị nhân tố chủ quan trong hoạt động văn
hóa nghệ thuật, phát huy di sản văn hóa.
Các nhà nghiên cứu đã luận giải khá đầy đủ về vấn đề nhân tố chủ quan
nói chung và vấn đề nhân tố chủ quan trong một hoạt động cụ thể nói riêng.
Vai trị nhân tố chủ quan được các nhà nghiên cứu khẳng định ở sự chủ động,
tích cực tác động cải biến điều kiện khách quan theo mục đích đã đặt ra. Các
giải pháp phát huy vai trò nhân tố chủ quan được nhiều tác giả đưa ra đều
nhằm phát huy tích tích cực hoạt động của chủ thể mà trực tiếp là nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của chủ thể trong nhận thức, vận dụng
quy luật để đạt hiệu quả cao trong hoạt động thực tiễn. Những giải pháp này
là những gợi ý quý báu để nghiên cứu sinh tham khảo, vận dụng trong lĩnh
vực nghiên cứu của luận án.
Đối với các cơng trình nghiên cứu về di sản văn hóa ở Tuyên Quang,
nội dung của vấn đề vai trò nhân tố chủ quan trong phát huy di sản văn hóa


×