Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

NÉT ĐẶC SẮC TRONG TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở PHỦ TÂY HỒ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.86 KB, 37 trang )

MỤC LỤC

1


1. Lí do chọn đề tài
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian thuần việt mang sắc thái ngun
thủy và có chiều dài lịch sử hàng nghìn năm. Nó phát triển theo sự phát triển đa dạng của tín
ngưỡng dân gian mà khơng theo quy luật định sẵn nào.Tín ngưỡng thờ mẫu được bảo lưu
qua các lễ hội ,qua niềm tin và đời sống tâm linh,cứ như vậy nó lớn dần trong tâm thức của
người Việt Nam.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng có nguồn gốc bản địa và bắt nguồn từ văn minh
lúa nước,từ một hình thức tôn vinh người phụ nữ làm Quốc Mẫu,Thánh Mẫu,Vương
Mẫu…..Đạo Mẫu ra đời với ý nghĩa đó là coi tự nhiên là một người mẹ và tơn thờ,đạo mẫu
cịn mang cho con người ở trên đời ba điều:Phúc-Lộc-Thọ.Đó là ước muốn ngàn đời của
con người,hơn hết đạo Mẫu là tín ngưỡng mang đến cho con người sức khỏe,tài lộc ở cuộc
sống trần thế, hướng con người về cõi sống chứ không phải về cái chết,linh hồn.Tín ngưỡng
thờ Mẫu cịn thể hiện đậm nét chủ nghĩa yêu nước đã được tâm linh hóa và tín ngưỡng hóa.
Trong tín ngưỡng thờ mẫu cịn ẩn chứa nhiều giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc,đặc
biệt là trong nghi lễ hầu đồng-đã sản sinh ra loại hình âm nhạc-hát văn,mà theo nhiều nhà
nghiên cứu đó là một trong hai loại hình dân ca tiêu biểu của người Việt. Hiện tín ngưỡng
thờ Mẫu Tam phủ của người Việt đã chính thức được bộ văn hóa thể thao và du lịch cơng
nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia,đồng thời đang trong quá trình hồn thiện hồ sơ
đẻ trình UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại vào năm
2015.Trên dải đất hình chữ S đạo mẫu được thờ phụng ở nhiều nơi như:Phủ Sịng
Sơn(Thanh Hóa),Phủ Dầy(Nam Định),Phủ Quảng Cung……Trong đó,Phủ Tây Hồ là một
trong những trung tâm lớn về tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh ở Hà Nội và Việt Nam nên đã
được giới nghiên cứu quan tâm từ rất sớm, đặc biệt là các chuyên ngành dân tộc học, lịch
sử, văn học .Tuy vậy, chưa có một cơng trình chun sâu về Phủ Tây Hồ từ chun ngành
văn hóa. Hầu như trong tồn giới nghiên cứu, người ta mới chỉ dừng lại ở mức nhận thức
rằng Phủ Tây Hồ là một đền phủ lớn mang tính trung tâm thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Hà Nội, còn


cụ thể như thế nào thì hồn tồn khơng rõ. Làm rõ vị trí và ý nghĩa của Phủ Tây Hồ trong
bức tranh tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh sẽ cho chúng ta nhận thức về tín ngưỡng dân gian Việt
Nam.
Vì vậy mà chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này để làm rõ hơn giá trị và vai trị
của tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung và đạo Mẫu ở Phủ Tây Hồ nói riêng để giữ gìn,lưu
2


truyền và phát huy nó một cách tích cực nhất.Góp phần vào việc bảo tồn những tinh hoa
truyền thống của người Việt.
2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1 Đối tượng nghiên cứu-khách thể
- Đối tượng:Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu
- Khách thể:phủ Tây Hồ-Hà Nội
2.2 Phạm vi nghiên cứu
- Không gian:ở phủ Tây Hồ
- Thời gian:ngày diễn ra lễ hội từ mùng 3 tới mùng 8 tháng 3 âm lịch
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trên cơ sở khảo sát,đánh giá thực trang,tìm hiểu về đặc điểm,vai trị của tín ngưỡng
thờ mẫu nhằm đưa ra những giải pháp,kiến nghị để phát huy những giá trị văn hóa và khắc
phục mặt hạn chế của phủ Tây hồ hiện nay
4.Lịch sử nghiên cứu
Trong phần tình hình nghiên cứu đề tài này, luận văn chỉ xin nêu một số tác phẩm của
một số tác giả trong nước viết về tín ngưỡng thờ Mẫu
Về Thánh Mẫu Liễu Hạnh thì: “Lê Gia ngọc phả vẫn là tài liệu trước nhất ghi chép
về Liễu Hạnh. Và có thể khẳng định là Đoàn Thị Điểm đã dựa vào truyền thuyết dân gian để
sáng tạo, hư cấu nhiều hơn” [24, tr.35].
Sau khi miền Nam được giải phóng (1975) cả nước được thống nhất, chúng ta có
nhiều điều kiện tập trung nghiên cứu. Vì thế, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều cuộc
hội thảo và các bài viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam (không kể những bài viết trong

báo và tạp chí) cơ bản đó là:
- “Đạo Mẫu ở Việt Nam” năm 1996 hay cuốn “Đạo Mẫu và các hình thức Shaman
trong các tộc người ở Việt Nam và Châu á ” năm 2004 của tác giả Ngô Đức Thịnh (chủ
biên). ở đây, tác giả đã đưa ra những luận chứng khẳng định tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt
Nam đã trở thành Đạo Mẫu. Quan điểm này hiện nay có nhiều nhà khoa học chưa đồng tình.
- Cuốn “di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tơn giáo ở Việt Nam ”, tác giả Lê
Quang Trứ (2000) có bài viết về tín ngưỡng thờ Mẫu nhưng cịn sơ sài, tác giả giới thiệu
dàn đều bốn loại hình tín ngưỡng chủ yếu tại Việt Nam.
3


- Cuốn “Lịch sử tín ngưỡng Đơng Nam á ” xuất bản năm 2000, tái bản năm 2003 của
TS Trương Sĩ Hùng (chủ biên), trong đó có bài viết: Thờ Mẫu Việt Nam một tín ngưỡng
điển hình ở Đơng Nam á. Tác giả giới thiệu về lễ hội thờ Mẫu và bước đầu đưa ra kết luận
tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam mang sắc thái điển hình ở Đơng Nam á.
- GS Vũ Ngọc Khánh, tác giả của cuốn sách “ Tín ngưỡng dân gian Việt Nam ”(tái
bản có sửa chữa, bổ sung)(2001), tác giả có viết về các tín ngưỡng dân gian Việt Nam hiện
nay, trong đó có cả tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng Tam phủ - Tứ phủ, nhưng khơng nghiên
cứu sâu từng loại hình tín ngưỡng mà chỉ nêu khái qt từng loại hình tín ngưỡng dân gian
mà thơi.
- Cuốn “Văn hóa Thánh Mẫu ” của Đặng Văn Lung (2004), tác giả đã rất tâm huyết
với vấn đề “Mẫu ” nên đưa ra rất nhiều các tư liệu về các “Mẫu” nhưng lại viết dưới góc độ
văn hóa, văn học và lịch sử chứ chưa xét dưới góc độ tín ngưỡng và tơn giáo.
- Năm 2005, cuốn sách “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam ” do TS
Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) cũng viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, nhưng chỉ đề cập
đến khái niệm thờ Mẫu và một số đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu, chưa đi sâu vào nguồn
gốc, vai trị…của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam.
- Năm 2005, Mai Thanh Hải là tác giả cuốn sách “Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống
Việt Nam ”. Tác giả đưa ra quan điểm thờ Mẫu ở Việt Nam có cội nguồn bản địa và thờ
Mẫu bắt nguồn từ triết lý nhân sinh.

Trên đây chỉ là một số tác phẩm cơ bản của các nhà nghiên cứu trong nước, trong
những năm gần đây về tín ngưỡng thờ Mẫu, tác giả luận văn mà chưa có điều kiện liệt kê tất
cả những danh mục viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam tại phủ Tây hồ hiện đang có ở
nhiều tác phẩm và
5.Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ yếu được thực hiện để nghiên cứu đề tài:
- Điều tra thực tế
- Phỏng vấn trực tiếp tại phủ Tây Hồ
- Nghiên cứu tài liệu có liên quan
6.Đóng góp của đề tài
- Nếu nghiên cứu đề tài này thành cơng sẽ góp thêm tài liệu về tín ngưỡng thờ Mẫu
ở phủ Tây Hồ.Bài nghiên cứu giúp cho người đọc hiểu thêm về tín ngưỡng thờ Mẫu ở phủ
4


Tây Hồ và nét sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc của người
Việt Nam.Ngồi ra,bài nghiên cứu cịn là nguồn tài liệu tham khảo cho những người làm
cơng tác quản lí văn hóa.

5


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: PHỦ TÂY HỒ VÀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
1.1Phủ Tây Hồ
1.1.1Vị trí địa lí
Phủ Tây Hồ nằm trên bán đảo lớn của làng Nghi Tàm nhô ra giữa Hồ Tây, tọa lạc
trên doi đất hình kim quy,bên trái có long chầu,bên phải có hổ phục.Đất này thuộc ấp Tây
Hồ,huyện Vĩnh Thuận,phủ Hoài Đức. Nay thuộc phường Quảng An,quận Tây Hồ,Hà
Nội,cách trung tâm khoảng 4 km về phía tây. Hồ Tây nằm ở phía tây bắc nội thành hà nội

với diện tích khoảng 500ha,đường vịng quanh hồ dài gần 20km.Hồ Tây hay còn gọi là hồ
Mù Sương,hồ Trâu Vàng,đầm Xác Cáo,mỗi tên lưu giữ 1 sự tích về cội nguồn của Hồ Tây
huyền thoại .Nếu Tây Hồ là đất thiêng của Thăng Long thì ấp Tây Hồ là địa linh bậc nhất
của Hồ Tây.Bởi sự linh thiêng hằng hữu nên phủ Tây Hồ đã nổi tiếng cả trong nước và
ngồi nước.Hồ Tây là 1 trong những địa điểm có khung cảnh đẹp,khơng gian thống đãng ở
Hà Nội,đây cũng là địa danh nổi tiếng gắn liền với lịch sử của thủ đơ ngàn năm văn hiến.
Quanh hồ có hơn 20 ngơi đình ,đền ,chùa đã được xếp hạng với nhiều di tích nổi tiếng với
nhiều văn vật giá trị như 100 bia đá, 165 câu đối ,140 bức hoành phi,gần 20 quả chng
cổ............ Tuy có nhiều ngơi đền, chùa quanh đây nhưng có lẽ nhiều người Hà Nội và khách
du lịch thập phương vẫn tìm nhiều đến đền Quán Thánh, chùa Trấn Quốc, phủ Tây Hồ bởi
nét kiến trúc cổ xưa cũng như sự linh nghiệm nơi đây, đặc biệt là vào các ngày lễ , tết .
1.1.2Kiến trúc
Về kiến trúc của phủ Tây Hồ bao gồm có tam quan,kiến trúc chính 3 nếp (tam quan
thánh Mẫu),phương đình,tiền tế,hậu cung,điện sơn trang,khu nhà khách lầu cơ,lầu cậu.di
tích phủ Tây Hồ hiện còn lưu giữ được khối di vật khá phong phú mang giá trị lịch sử,văn
hóa,nghệ thuật thuộc thế kỉ XI,XX như bộ tượng trịn gần 300 pho,hồnh phi,câu đối….Đặc
sắc nhất là bức đại tự ghi:” Thiên tiên trắc giáng”( tiên trời xuất hiện ) và bức hoành phi ở
cửa cung đề:” Mẫu nghi thiên hạ”( làm mẹ của thiên hạ ).
Tam quan phủ Tây hồ không lớn nhưng được xây dựng khá công phu ,mang đậm
phong cách dân gian của người Việt. Các bức long phượng trình tường, tả thanh long, hữu
bạch hổ , hay tứ linh ( long , ly, quy , phượng) , tứ quý ( Tùng , cúc, trúc, mai) Qua cổng

6


tam quan là sân phủ rộng rãi chạy sát hồ nước. Trong sân , bên trái có lầu Cậu, bên phải là
lầu Cơ. Đó là những thị giả theo hầu Mẫu, giúp Mẫu hành đạo.
Ngồi ra,phía ngồi phủ chính xây 2 am thờ nhỏ thờ Cơ và Cậu.Phía trước lầu có
tháp nhỏ,dưới gốc si là tấm bia của xã Vĩnh Thuận dựng năm Thiệu Trị 5(1845)
Từ sân phủ nhìn vào là mái hiên giả tam quan có kiến trúc độc đáo với những mảng

đắp nổi long phượng trình tường và tứ linh. Chính giữa tam quan phía trên đề : Tây Hồ hiển
linh , phía dưới là phỉ long phún thủy, đặc biệt là năm con biền phúc đắp nổi với ý tưởng
ban phúc cho mọi người.
Phía sau hiên tam quan là tiền đường,nơi thờ Ngọc Hoàng thượng đế . Tiền đường có
kiến trúc theo kiểu phúc ốc trùng thiềm, tám mái cao vút len như một vọng lâu. Đây là lối
kiến trúc lâu quán của Đạo giáo, cư cao lâm hạ quan sát tứ phương.Sau tiền đường là trung
đường , thờ Tam Vị Thánh Mẫu bằng bài vị. Nơi đây xây ba gian đơn giản, tưởng hồi bít
đốc, chắc khỏe. Tuy nhiên, nơi tôn nghiên nhất của phủ Tây Hồ là mật cung. Mật cung xây
hai gian thờ dọc, kiến trúc theo kiểu phúc ốc trùng thiềm, thấp hơn so với tiền đường và bái
đường, theo lối kiến trúc là tiền tôn hậu ty, tiền động hậu tĩnh, tiền náo nhiệt hậu tĩnh túc.
Trong quần thể kiến trúc phủ Tây Hồ cịn có động Sơn trang ba gian mới xây dựng
bằng chất liệu bê tong giả gỗ theo lối phúc ốc trùng thiềm chồng diêm tám mái. Động xây
cao , thống và vững chắc. Trên tường có những mảng đắp nổi tứ linh , tứ quý sinh động.
Các đầu đao là hồi long hồi phượng tinh tế, uy nghi. Trên các tầu mái là những chú trào
phong ngạo nghễ, các bờ nóc là các con Si Vẫn (hình đầu rồng) .
Kiến trúc phủ rất coi trọng cả nội thất và ngoại thất.Ngoại thất của các phủ thờ Mẫu
Liễu Hạnh là cả một tổng thể thiên nhiên hùng vĩ rộng lớn và bí hiểm mà con người hầu như
khơng thể khám phá,không thể vươn tới và trong sự mênh mông ấy con người thấy mình
nhỏ bé chỉ có thể cầu xin một sự che chở.Ngoại cảnh phủ Tây Hồ là mặt nước mênh
mông,là cây cối xum xuê của vùng ven hồ ăn lan qua đê sang bãi rồi ra sông Hồng cuộn
sóng,mà ngay cửa phủ đã có những cây cổ thụ trong đó có cây si già soi mình bng rễ
xuồng hồ.
1.2Tín ngưỡng thờ Mẫu
1.2.1 Đơi nét về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Viêt Nam
Tín ngưỡng thờ Mẫu có nguồn gốc lâu đời, tuy nhiên có hệ thống và phát triển mạnh
vào thời hậu Lê. Tín ngưỡng thờ Mẫu ra đời ở một đất nước nơng nghiệp mà ở đó nền canh
7


tác lúa nước và xã hội mang tàn tích mẫu hệ có dấu ấn to lớn của vai trị người phụ nữ. Từ

xa xưa, vai trò của người phụ nữ Việt Nam đã được đánh giá cao đến mức tôn sùng. Mẫu là
đại diện của sự che chở, bao bọc, mẫu cũng là đại diện của sự sinh sôi, nảy nở, trù phú. Bởi
thế, mỗi khi con người cảm thấy cơ đơn, thấy bơ vơ, khơng có nơi nương tựa, việc họ tìm về
mẫu để nhận được sự quan tâm, cứu giúp của mẹ như một phản ứng rất đỗi tự nhiên. Đưa
các mẹ vào sự phụng thờ , người dân đã tôn các mẹ là bậc thánh, gọi là Thánh Mẫu . Nhân
dân đã coi Thánh Mẫu là mẹ của Trời, Đất, Núi, Sông. Tất cả chúng ta, cả con người và vạn
vật đều là con của các mẹ. Mỗi cõi là do một bà mẹ sinh ra và cai quản. Có bốn vị thánh :
- Thiên cung Thánh Mẫu :Bà mẹ của Trời. Bởi quá xa xôi nên người ta còn gọi là
Mẫu Cửu Trùng, hay Mẫu Thượng Thiên.
- Địa cung Thánh Mẫu : Là mẹ của Đất. bà đẻ ra cả cõi trần gian này
- Thủy cung Thánh Mẫu: Là mẹ của Nước. các biển lớn, sông, suối ,.. đều là con của
mẹ
-Lâm cung Thánh Mẫu : Là mẹ của Núi non, Đồi, Rừng,.. Chữ hán , nhạc cũng là núi
nên cõi núi còn được gọi là Nhạc phủ.
Bởi mẹ là bậc thánh, vị tối cao cai quản cả một cõi lớn như vậy nên theo hầu và giúp
việc có qn gia, bộ hạ hay đó cịn là các thần linh to nhỏ . Đó là những ông quan, ông
hoàng: ngũ vị vương quan, thập vị hoàng tử , thập nhị tiên nàng,… theo cách gọi dân
gian,thì đó là các cậu, các cơ,…
Tuy đã có bốn Mẫu tối cao rồi nhưng người dân Việt Nam còn mở rộng cảm quan để
hình dung ra nhiều bà mẹ khác nên cũng có bốn lớp thánh mẫu ở các lĩnh vực.
-Những bà mẹ của các dân tộc: có các bà mới có con cháu, các tộc người, ví như mẹ
Âu Cơ, bà Sao Cải, bà Thiên Y A Na,.. Việt Nam có 54 dân tộc anh em nên cũng có các bà
mẹ là thủy tổ của tộc người mình.
-Những bà mẹ của các vùng đất (các xứ, các miền) : các bà này thường do các mẹ lớn
sinh ra, được đưa về nơi này nơi nọ và để tạo ra đất đai, làng xóm hay bản mường ở những
nơi đó.
-Những bà mẹ vốn là người thật : họ sinh ra các vua chúa, các danh nhân văn hóa,
anh hung dân tộc . Khi mất, họ cũng được tôn lên hàng Thánh Mẫu như bà Ỷ Lan, bà Ngọc
Dao,.. Cũng có khi, bản thân bà cũng là một anh hùng, khi mất bà cũng được tôn vinh như
vật như các nữ tướng của Hai bà Trưng,..

8


-Có những bà đã là vị tổ của những ngành nghề , như nghề thủ công, nghề nông tang,
hay cả trong lĩnh vực văn chương nghệ thuật. Họ được nhân dân tơn làm Thánh mẫu , hoặc
là thần, có những người được tơn làm Chúa , ví như bà Chúa thờ của dân tộc Sán Dìu, bà
chúa ca cơng,..
Tuy các vị thánh này được tôn vinh nhưng không được xếp ngang hàng với bốn bà
Mẹ lớn (Trời, Đất, Non, Nước ) đã nói trên
Khi đưa mẹ vào sự phụng thờ như vậy đã hình thành nên tín ngưỡng thờ Mẫu, người
ta gọi là tam phủ hay tứ phủ. “Phủ” ở đây là dinh thự, chỗ ở , chỗ làm việc của các quan lại ,
đó là một cõi. Thiên phủ gọi là cõi Trời, Địa phủ là cõi Đất, Thủy phủ là cõi Nước, Nhạc
phủ là cõi Non. Mỗi cõi có một Mẫu đứng đầu, được gọi là Thánh Mẫu. Bốn cõi đó được
gọi là tứ phủ. Là tồn bộ không gian của vũ trụ , trên dưới, gần xa. Mỗi đức mẫu phụ trách
một cõi như thế . Sau này người ta gọi theo khẩu ngữ để chỉ một địa điểm như gọi là Phủ
Giầy, Phủ Tây Hồ,…
Ban đầu, mới chỉ có tam phủ ,chỉ có ba bà mẹ Trời, Nước, Non . Khi mời ba vị cùng
các quan gia về thì gọi là Tam phủ cơng đồng. Sau lại thấy, chỉ có ba cõi Trời, Nước, Non
chưa đủ , phải có một cõi nữa là cõi đất , Thánh Mẫu đứng đầu , được gọi là Địa cung Thánh
Mẫu. Nhưng cũng nên biết rằng Địa cung là chỉ cõi đất có người ở , chứ khơng có âm. Tứ
phủ khơng nhắc gì đến cõi âm. Người được ơn làm Địa cung Thánh Mẫu là bà Liễu Hạnh.
Theo thứ tự tơn vinh,thì ba cõi Trời, Non, Nước xuất hiện trước , mẫu Thiên phải ở ngơi cao
nhất nhưng vì trời cao xa, người dân không thể dõi theo được nên khi xuất hiện mẫu Địa thì
mẫu Địa được dự vào ngơi chí tơn và thay thế cho mẫu Thiên. Do vậy ở các bàn thờ tứ phủ,
Mẫu Liễu được tôn vinh cao nhất , mặc áo đỏ và ngồi ở giữa . Mẫu Thiên không xuất hiện
nữa , chỉ được tôn vinh theo danh nghĩa mà thôi. Tại các phủ thờ khơng có tượng Mẫu
Thiên là vì vậy.
Như vậy , bàn thờ nói chung chỉ vào tứ phủ , thực ra chủ yếu chỉ có ba Mẫu : Mẫu
Địa, Mẫu Thủy, Mẫu Nhạc, được gọi chung là Tam tòa Thánh Mẫu.
Trong Tam tòa Thánh Mẫu, Mẫu Thượng Thiên sáng tạo bầu trời và làm chủ quyền

năng mây, mưa, sấm, chớp. Trong điện thờ thường đặt ở giữa, mặc áo màu đỏ hoặc hồng .
Thực ra những huyền thoại và thần tích của Mẫu Thượng Thiên đều trực tiếp liên quan tới
Thánh Mẫu Liễu Hạnh, là hoá thân của Mẫu Thượng Thiên, vị thần chủ cao nhất và được
9


thờ cúng nhiều nhất trong Đạo Mẫu ở nước ta.Có thể nói, vị trí của Mẫu Thượng Thiên đã
chuyển cho Mẫu Địa (Mẫu Liễu).
Cũng theo quan niệm dân gian, Mẫu Liễu cịn có thể hóa thân vào Mẫu Thượng Ngàn
trơng coi miền rừng núi, hay thành Mẫu Thoải trông coi vùng sơng nước.
Mẫu Thượng Ngàn là hóa thân của Thánh Mẫu tồn năng trơng coi miền rừng núi.
Trong điện thờ thường đặt ở bên trái Mẫu Thượng Thiên, mặc áo màu xanh . Các đền thờ
Mẫu Thượng Ngàn có ở hầu khắp mọi nơi, nhưng có hai nơi thờ phụng chính, gắn bó với
hai truyền thuyết ít nhiều có khác biệt, đó là Suối Mỡ (Hà Bắc) và Bắc Lệ (Lạng Sơn).
Khác với Mẫu Thượng Thiên (mà Liễu Hạnh công chúa là hiện thân) là người Trời,
người Tiên, Mẫu Thượng Ngàn xuất xứ là người trần, tuy có là con gái hay cháu Vua Hùng.
Đó là những người gắn bó với núi rừng, yêu thiên nhiên, cây cỏ, muông thú, người có phép
tiên có thể mang lại yên vui, ấm no cho dân lành. Họ hiển Thánh và trở thành vị thần bảo hộ
cho rừng núi, bản làng.
Ở Tây Nguyên, tục thờ Mẫu do người Việt mang vào lại đồng nhất Mẫu Thượng
Ngàn với Mẹ Âu Cơ - Mẹ Tiên, sau khi từ biệt với Bố Rồng - Lạc Long, đã mang theo 50
người con lên núi, sinh sống, phát triển thành các dân tộc thiểu số ngày nay và Mẹ Âu Cơ
trở thành vị Thánh Mẫu cai quản vùng rừng núi. Bởi thế, các động Sơn Trang ở các đền Tây
Nguyên thường tái hiện sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ.
Huyền thoại và thần tích của Mẫu Thoải tuỳ theo từng nơi có khá nhiều khác biệt, tuy
nhiên, cũng có những nét chung cơ bản. Đó là vị thần trị vì vùng sơng nước, xuất thân từ
dịng dõi Long Vương, liên quan trực tiếp với thủy tổ dân tộc Việt buổi đầu dựng nước.
Trong điện thờ thường đặt ở bên phải Mẫu Thượng Thiên, mặc áo màu trắng.
Trong Tam Tồ Thánh Mẫu ta cịn thấy có sự kết hợp, đan quyện giữa tư duy mang
tính vũ trụ luận (Trời, Đất, Nước), tư duy huyền thoại (Thiên Thần, Sơn Thần và Thuỷ

Thần) và tư duy lịch sử (Lạc Long Quân - Âu Cơ, Hùng Vương). Đây cũng là một khía cạnh
tâm lý mang đặc thù Việt Nam.

10


Sau hàng Mẫu là Ngũ vị Quan lớn (hàng Quan), gọi tên từ Quan Đệ Nhất đến Quan
Đệ Ngũ, tuy nhiên khơng phải là khơng có quan niệm về sự hiện diện của Thập vị Quan
lớn thuộc hàng Quan. Thường thì 5 vị đầu hay giáng đồng hơn, có lai lịch hoặc là Thiên
thần hoặc là Nhân thần, 5 vị cịn lại thì ít giáng đồng, bởi vậy thần tích cũng không được rõ
ràng. Các quan lớn trong văn chầu hay khi giáng đồng thường có tính cách q phái, hùng
dũng, nhân từ, hay làm những việc phúc đức nhưng cũng đáng sợ với người trần.Các vị đều
mặc võ quan, mang kiếm hay kích, mặc võ phục nhưng mầu sắc thì tuỳ thuộc các vị thần
thuộc Thoải phủ (trắng), Thiên phủ (đỏ), Nhạc phủ (xanh) hay Địa phủ (vàng). Quan Đệ
Tam và Quan Đệ Ngũ đều thuộc Thoải phủ, dòng Long Vương Bát Hải.
Tứ vị Thánh Bà hay Tứ vị Chầu Bà được coi như là hóa thân, phục vụ trực tiếp của
Tứ vị Thánh Mẫu. Tuy gọi là tứ vị Chầu Bà đại diện cho Tứ Phủ, nhưng số lượng các vị
Chầu Bà có thể tăng lên tới 12 , tuy nhiên trong số đó, các Chầu Bà từ Đệ Nhất tới Chầu
Lục cùng Chầu Bé thường giáng đồng, được mọi người biết rõ thần tích, có nơi thờ phụng
riêng, cịn các vị khác thì ít giáng đồng và khơng mấy người biết tới.Nói chung các vị Thánh
hàng Chầu phần lớn có nguồn gốc người dân tộc ở vùng núi, thuộc Nhạc phủ, dòng Tiên nữ.
Khi giáng đồng, các Chầu đều ăn mặc theo trang phục dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mường,
nhạc chầu văn theo điệu Xá Thượng mang đặc trưng miền núi.
Dưới hàng Chầu là hàng các ông Hồng, được gọi tên theo thứ tự từ Ơng Hồng Đệ
Nhất tới Ơng Hồng Mười, có hẳn một bản văn chầu 10 Ơng Hồng. Tương truyền, cũng
như các Quan, các Ơng Hồng đều có gốc tích là con trai Long Thần Bát Hải Đại Vương ở
hồ Động Đình, tuy nhiên, theo khuynh hướng địa phương hóa thì các ơng Hồng đều gắn
với một nhân vật nào đó ở cõi nhân gian, những danh tướng có cơng dẹp giặc, những người
khai sáng, mở mang cho đất nước. Trong số mười Ông Hồng thì thường có sáu Ơng giáng
đồng, trong đó có ba Ơng giáng rất thường xun, đó là Ơng Hồng Bơ, Ơng Hồng Bảy, và

Ơng Hồng Mười. Khi giáng đồng, các Ơng Hồng có phong cách gần giống các Quan Lớn,
tuy nhiên có phần hào hoa phong nhã, vui tươi và quan hệ với người trần vui vẻ hơn so với
các Quan.

11


Hàng Cô được gọi tên từ Cô Đệ Nhất (Cô Cả) đến cô thứ 12 (Cô Bé), đều là các thị
nữ của Thánh Mẫu và các Chầu. Tuy nhiên, khi giáng đồng các Cơ có thể hóa thân vào các
vai trị khác nhau của Tứ Phủ. Có hẳn một bài văn chầu kể về 12 cô.
Các Cậu Quận là những người chết trẻ, từ l - 9 tuổi, hiển linh thành các bé Thánh.
Người ta không biết rõ đầy đủ về 10 hay 12 vị thuộc hàng Cậu, họ là các phụ tá của các Ơng
Hồng. Thường thì lần lên đồng nào cũng có giá Cậu Bơ (Ba) và Cậu Bé.Đó là những giá
đồng với tính cách phóng túng, tinh nghịch, quần áo kỳ cục, lời nói ngọng ngịu của trẻ con,
kèm theo các điệu múa lân hay múa hèo khá sơi nổi.
Trong điện thần của đạo Mẫu cịn có sự hiện diện của Hổ (Ngũ Hổ) và Rắn (Ông
Lốt). Nơi thờ thần Ngũ Hổ ở hạ ban, phía dưới điện thờ Cơng Đồng, cịn hình tượng ơng
Lốt là đơi Bạch xà nằm vắt ngang phía trên điện thờ chính. Trong quan niệm dân gian, Hổ là
vị chúa cai quản rừng núi, cịn Rắn thần là ở nơi sơng nước. Trong hầu đồng, tuy khơng
thường xun, nhưng cũng có trường hợp các vị Ngũ Hổ hay Ông Lốt (rắn) giáng đồng.
Ngũ Hổ cai quản bốn phương và trung tâm, là con vật quyền uy, là thần chiến trận, cứu giúp
các chiến tướng trong trận mạc. Trong tín ngưỡng dân gian, Hổ là kẻ thù của ác thần, tà
thần, chuyên hãm hại người sống cũng như người đã chết, là vị thần linh canh cửa các ngôi
đền.
Trong các nghi lễ thờ cúng , hầu đồng là nghi lễ phổ biến của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Ngồi ra cịn có các lễ định kì hoặc thường kì khác theo ước tính của tín ngưỡng thờ mẫu
như: Lễ xông đền và lễ hầu thượng nguyên vào đầu năm mới.Trong đó quan trọng nhất là
tháng ba-tháng giỗ Mẫu Liễu Hạnh hay cò gọi là giỗ Mẹ
1.2.2Tục thờ Mẫu ở phủ Tây Hồ
Tục truyền rằng: bà là Quỳnh Hoa - con gái thứ hai của Ngọc Hồng, bị đày xuống

trần gian vì tội làm vỡ cái ly ngọc quý. Xuống hạ giới, nàng chu du, khám phá khắp mọi
miền, qua đảo Tây Hồ dừng lại, phát hiện ra đây là nơi địa linh sơn thủy hữu tình, bèn lưu
lại mở quán nước làm cớ vui thú văn chương giữa thiên nhiên huyền diệu.
Người tiên nữ ấy đã ngang dọc một trời giúp dân an cư lập nghiệp, diệt trừ ma quái,
trừng phạt tham quan. Đến triều Nguyễn bà được nhà vua phong “mẫu nghi thiên hạ”, là
một trong bốn vị thần “Tứ bất tử” của Việt Nam.
12


Cũng theo truyền thuyết, Phủ Tây Hồ là nơi hội ngộ lần thứ hai của công chúa Liễu
Hạnh và trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Như tiền duyên xui khiến, Trạng nguyên Phùng
Khắc Khoan trong lần đi thuyền dạo chơi trên hồ, thấy cảnh đẹp, bèn ghé vào quán Tiên
chúa. Tâm đầu ý hợp, họ cùng vịnh bài thơ “Tây Hồ ngự quán” mà nay vẫn còn lưu truyền
mãi. Tiên chúa ở đây trong bao lâu không ai biết, chỉ biết khi Phùng Khắc Khoan trở lại tìm
thì khơng cịn. Để nguôi ngoai nỗi nhớ, ông cho lập đền thờ người tri âm.Đây chính là xuất
xứ của tục thờ mẫu ở phủ Tây Hồ.

CHƯƠNG 2: NÉT ĐẶC SẮC TRONG TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở PHỦ TÂY
HỒ
2.1 Không gian thờ tự
2.1.1 phủ chính
2.1.1.1 Tiền đường
Phần thờ tự theo thứ tự từ ngồi vào trong.
Phủ chính:
Lớp thứ nhất, có tượng ơng Hồng Bảy,Hồng Mười và Ngũ Vị Quan Lớn(ngũ vị tôn
ông,ngũ vị tôn quan).Các ơng Hồng là hóa thân của Ngũ Vị Quan Lớnđã được nhân hóa
thành các danh tướng , danh nhân của các thời (ví dụ: ơng Hồng Đệ Nhất tức tướng Lê Lai,
ơng Hồng Lục tức Lê Lựu,..)
Về lớp tượng Ngũ Vị Quan Lớn, theo tín ngưỡng tam phủ Việt nam, việc giải thích
về Ngũ Vị Quan Lớn chưa thống nhất:



Quan niệm thứ nhất:
Quan Đệ Nhất - Thiên Quan (mặc áo đỏ)
Quan Đệ Nhị - Địa Quan - Quan Giám Sát (mặc áo xanh)
Quan Đệ tam - Thủy Quan (mặc áo trắng)
Quan Đệ Tứ - Quan Khâm sai (mặc áo vàng)
Quan Đệ Ngũ – Quan Tuần Tranh (mặc áo đen, tím, lam)

13


Như vậy tam phủ ở Việt Nam cũng thờ tam quan thần gồm :Thiên Quan (Quan Đệ
Nhất) - Địa Quan ( Quan Đệ Nhị) - Thủy Quan (Quan Đệ Tam) , cai quản Thiên giới- Địa
giới- Thủy giới.Còn Quan Đệ Tứ và Quan Đệ Ngũ chính là hóa thân của Tam Quan thần.


Quan niệm thứ hai: Ngũ Vị Quan Lớn là Ngũ phương thần , tương ứng với Ngũ hành : Kim,
Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Kim - Tây phương thần (trang phục màu trắng)
Mộc - Đông phương thần (trang phục màu xanh)
Thủy - Bắc phương thần (trang phục màu tím, lam, đen)
Hỏa - Nam phương thần (trang phục màu đỏ)
Thổ - Trung ương thần (trang phục màu vàng)
Lớp trên cùng, thờ Ngọc Hoàng . Phật giáo gọi Ngọc Hoàng là Đế Thích; Nho giáo
gọi là Thượng Đế; Đạo giáo gọi là Huyền Chúa; dân gian lại gọi là Ngọc Đế, Ngọc Hồng,
Thiên Đế, Ơng Trời,… Dù gọi là gì thì Ngọc Hoàng Thượng Đế vẫn là vị thần tối cao của
Tam giáo cũng như trong quan niệm dân gian.
Đứng hầu Ngọc Hoàng hai bên là Nam Tào(Nam Đẩu) và Bắc Đẩu. Theo Đạo giáo,
Nam Tào là dương , là cánh tay trái của Ngọc Hoàng ; Bắc Đẩu là âm, là cánh tay phải của

Ngọc Hoàng. Thần Nam Tào từ xưa ln được mọi người tơn kính vì thần có quyền năng to
lớn, nắm giữ vận mệnh thọ yểu, hưng vong của Thiên tử , nắm tước lộc của Tể tướng bách
quan, quản nhân gian sinh tồn, khoa cử. Bởi vậy , thần Nam Tào được coi là “Diên Thọ ty”
hay “Nam Đẩu chủ sinh” . Còn thần Bắc Đẩu là tư mệnh thần, trông coi việc sống chết, thọ
yểu, bần phú, họa phúc, tước lộc của nhân gian, giải trừ mọi tai ách của con người.
Ngoài ra bên trên điện có cặp hồng xà treo mình trên xà trong điện.
2.1.1.2 Trung đường
Chính giữa thờ Tam Vị Thánh Mẫu bằng bài vị. Phía bên tả treo quả chng lớn, bên
hữu treo chiếc trống lớn theo đúng quy tắc tả dương hữu âm, tả chung hữu cổ. Chng là đồ
tế khí khơng thể thiếu trong các đền, quán, chùa, phủ vì tiếng chuông đứng đầu bát âm .
Tiếng chuông thỉnh lên vào buổi sớm và buổi chiều để chiêu linh hồn, tăng uy nghi của phủ
quán, khiến non sông thêm hùng tráng.
Thỉnh chuông 3 hồi, 9 tiếng ,tổng cộng là 108 tiếng.
Hồi thứ nhất thỉnh 33 tiếng phúc hỷ lâm môn.
Hồi thứ hai thỉnh 33 tiếng cao quan hậu lộc.
14


Hồi thứ ba thỉnh 33 tiếng diên niên ích thọ.
Kêu 9 tiếng là để thấu đạt cửu trùng. Khi thỉnh đến tiếng thứ 9 , tức là kết thúc 108
tiếng. Phật giáo và tôn giáo dân gian đều quan niệm con người có 108 điều phiền não , nếu
thỉnh 108 tiếng chuông tức là giải trừ được 108 điều phiền não.
2.1.1.3Mật cung
Điện thờ Mẫu tường có 3 pho tượng nữ thần đặt song hành:
Mẫu Thiên (Mẫu Liễu Hạnh- Thiên Tiên Thánh Mẫu – Vân Hương Thánh Mẫu) mặc
trang phục hồng hay vàng
Mẫu Địa (Mẫu thượng Ngàn) là vị mặc áo xanh
Mẫu Thủy (Mẫu Thoải) trang phục màu trắng
Với tư tưởng một chúa ba ngôn (nhất thể tam vị) nhất sinh nhị, nhị sinh tam , tam
sinh vạn vật của triết học và thần học thì Mẫu Thiên là nhất ,nhất sinh nhị sinh tam, điều đó

có nghĩa là từ Mẫu Thiên mà hóa thành Mẫu Địa(nhất sinh nhị) rồi lại hóa thành Mẫu Thoải
( nhị sinh tam) ,chính vì thế mới có tên là Tam tịa thánh mẫu.
Ba vị mẫu này hợp thành Tam phủ,giải thích q trình tiến hóa của cư dân Việt,từ
rừng núi,sông suối xuống đồng bằng định cư trồng lúa nước. Cũng theo quan điểm niệm
tam phủ thì cai quản thiên phủ có thiên quan ban phúc lộc cho con người,cai quản địa phủ
có địa quán xá bỏ tội lỗi cho con người,cai quản thủy phủ có thủy quan cởi bỏ mọi chướng
ngại,khó khăn cho con người.Với sức mạnh huyền bí ban phúc,xá tội và giải ách,tín ngưỡng
Tam phủ rất hấp dẫn mọi người.
2.1.2 Lầu sơn trang
Với tư tưởng Tiên-Phật bất phân nên trên vị trí cao nhất của động Sơn Trang thờ
Quan Thế Âm Bồ Tát.Phía dưới là ban thờ Mẫu Địa – Mẫu Đệ Nhị - Mẫu Thượng Ngàn.
Hai bên hữu,tả thờ nhị vị Vương Bà hóa thân của Mẫu Địa. Ngồi ra cịn thờ thật nhị vương
cơ,tộng cộng là 15 vị. Đó là lý do vì sao khi cúng mặn ở động Sơn Trang người ta đều sắm
15 phần lễ . Các thần ở động Sơn Trang đều có trang phục màu xanh.
Bên trên điện là 2 mãng xà xanh treo mình trên 2 bên xà, châu đầu về giữa điện.Đó là
Thành xà Đại Tướng Qn(Ơng Lốt) .Đó là vị thần thánh mà vân được nhân dân Việt thờ
tụng và còn là những bậc siêu linh, họ có thể trừ ma ,sát quỷ,cải lão hoàn đồng, chữa những
bệnh cho dù người bệnh thập tử nhất sinh. Thơng thường , đó là 2 mãng xà một xanh, một
15


trắng , song như đã nói trên, các thần ở động Sơn Trang đều có trang phục màu xanh nên
thay bạch xà thành thanh xà.
Ban thờ phía dưới cùng của điện Mẫu là Ngũ Hổ Thần Quan (hay gọi nôm là quan
Năm Dinh). Ngũ Hổ Thần Quan, chịu sự điều khiển của Ngũ phương thần, là biểu tượng
bằng năm mãnh hổ với năm màu sắc khác nhau:
Tây – Hổ màu trắng
Đông – Hổ màu xanh
Bắc – Hổ màu đen
Nam – Hổ màu đỏ

Trung ương – Hổ màu vàng
Quan Năm Dinh có nhiệm vụ bảo vệ phủ điện, lại có nhiệm vụ nhận mệnh đi trừ tà,
bắt quỷ, bảo hộ dân sinh.
Động Sơn Trang khơng chỉ có ở các phủ,đền mà cịn có ở các chùa.Động Sơn Trang
là hình thức thờ Mẫu Địa rất đặc trưng ở Việt Nam.Bởi Mẫu Địa đã sinh ra vạn vật,dưỡng
dục vạn vật .Màu xanh của Mẫu ,của Vương Bà,của các Cô là màu xanh của mẹ đất,của non
ngàn,của đông phương mộ,của mùa xuân sinh sôi nảy nở và phát triển.
2.2 Lễ Hội
2.2.1 Lễ chính trong năm
Trước đây cứ vào ngày 1 đến ngày 7 tháng 3 âm lịch hàng năm phủ Tây Hồ có mở
hội,nhưng thực ra là lễ hội để tưởng nhớ ngày giỗ thánh Mẫu 3 tháng 3.
Trước khi vào hội hoặc từ tết Nguyên đán,các vị chức dịch và bô lão trong làng tiến
hành lễ mộc dục(tắm tượng).Các cụ đi thuyền ra xa,đến trước Trấn Vũ quán để lấy nước vì
cho rằng nước ở đấy thiêng.Nước về được nấu cùng ngũ vị hương để bao sái tượng và các
đồ tế khí,kể cả chuông khánh.
Ngày 1 tháng 3 là ngày lễ đầu tháng,đồng thời là dâng hương cáo yết với Thánh mẫu
và các thần điện.
Ngày 3 tháng 3 là giỗ chính . Ngay từ sáng sớm các quan phủ và huyện đã về dâng
hương làm nghi thức quốc tế như ở phủ Giầy Nam Định.
Ngày 5 tháng 5 có lễ rước mã , nhưng lễ rước mã lần cuối được tổ chức vào năm
1995.Từ đó dến nay khơng cịn lễ rước mã .Ngồi ra,cịn có các ngày lễ như ngày sóc(mùng
1),ngày vọng(15) hàng tháng và việc cúng bái vào ngày Tứ quý bao gồm lễ Thượng Nguyên
16


(tháng Giêng), Nhập hạ (tháng Tư), Tán hạ (tháng Bảy), Tất niên (tháng Mười hai) là những
nghi lễ cúng chính của một năm. Trong đó, lễ Thượng Nguyên là quan trọng nhất vì là lễ
trình, lễ cúng đầu tiên mở đầu năm mới. Lễ Nhập hạ để cầu chư thần chư thánh giải bệnh tật
cho mùa hè. Lễ Tán hạ để cảm tạ thần linh phù hộ cho ba tháng hè và cầu cho ba tháng mùa
thu được yên lành. Lễ Tất niên là lễ tạ, kết thúc của cả một năm.

Trong tín ngưỡng Tứ phủ, nghi thức cúng của bốn vấn nhìn chung là giống nhau,
riêng trong lễ Thượng Nguyên có cúng sao giải hạn và trong lễ Nhập hạ có cúng Quan ơn
Quan dịch để giải trừ dịch bệnh vì mùa hè có nhiều bệnh tật nhất trong năm. Trước đây, lễ
Thượng Nguyên thường được tổ chức vào đúng Rằm tháng Giêng, nhưng hiện nay do tín
ngưỡng Tứ phủ phát triển, các đền các điện nhiều hơn nên mỗi đền chọn lấy một ngày trong
tháng (có thể từ mùng 6 tới ngày 20) sao cho không bị trùng giữa các đền để con nhang đệ
tử thu xếp mà để tham dự.
Chuông và trống được treo ở bên trái trong tịa Trung tế . Những hồi chng-trống
dóng dả vang lên phá tan bầu không gian vắng lặng của buổi sáng cũng để trình báo với trời
đất, với thần linh, buổi lễ Thượng Nguyên mở đầu cho năm mới của phủ Tây Hồ bắt đầu.
Âm thanh vang động của hai nhạc cụ thiêng mở đầu cho một buổi lễ linh thiêng.
Hồi chuông trống vừa dứt, các cung văn với vai trò thầy cúng ngồi trước ban thờ của
tòa Tiền tế đã chuẩn bị sẵn sàng cho nghi thức đầu tiên đó là khoa cúng Phật - Mẫu. Người
ngồi giữa cũng là người điều khiển toàn bộ buổi cúng gọi là pháp chủ, những người ngồi hai
bên gọi là tả già, hữu già hay còn gọi là dây tả, dây hữu. Quy định dây tả và dây hữu được
tính cùng hướng với ban thờ nên những người ngồi bên phải lúc này lại là dây tả, còn những
người ngồi bên trái là dây hữu.
Trong tín ngưỡng Tứ phủ có nhiều khoa cúng khác nhau như khoa cúng Phật, khoa
cúng Mẫu, khoa cúng Tứ phủ trình đồng (dành cho người bắt đầu xin gia nhập tín ngưỡng
Tứ phủ để đi hầu bóng), khoa Tam phủ đối kháng (cúng để xin cắt tình duyên cho người
người trần khỏi cõi người âm), khoa Tam phủ thục mịnh di cúng hoán số (cúng Nam tào
Bắc đẩu để xin đổi số, phê cho số trường sinh) v.v.. Đối với ngày Tứ quý, người ta thường
cúng khoa cúng Phật (nếu đền thờ vọng Phật), khoa cúng Mẫu, hoặc cúng chung cả hai khoa
cúng trên gộp thành khoa cúng Phật-Mẫu. Nội dung khoa cúng có thể chia làm ba phần.
Phần đầu để khai quang đàn tràng, dâng hương và nói lên ý nghĩa của buổi lễ. Phần giữa với
17


mục đích để thỉnh chư Phật, chư Thánh theo thứ tự từ cao xuống thấp. Phần cuối mời chư
Phật, chư Thánh an tọa, thụ hưởng và cuối cùng các vị thần trở lại nơi mình ngự trị.

Múa Sái tịnh với ý nghĩa làm sạch sẽ đàn tràng là một hiện tượng văn hóa khá độc
đáo trong khoa cúng Phật-Mẫu. Căn cứ vào sự xuất hiện múa Sái tịnh trong buổi lễ người ta
có thể biết khoa cúng trong lễ Thượng Ngun ở phủ Tây Hồ có quy mơ đại cúng (chung
cúng và tiểu cúng khơng có múa Sái tịnh). Người pháp chủ mặc áo cà sa năm điều, đội mũ
thất Phật. Một tuần Sái tịnh gồm múa khai hoa, kết ấn, múa vòng thuận nghịch, thư chữ
trong chén ngọc chản, cầm cành dương liễu vảy sái chữ tâm.
Pháp chủ múa Sái tịnh trong khoa cúng Phật-Mẫu:
Trong khoa cúng, ngoài am hiểu khoa giáo, các thầy cúng cũng là những nhạc cơng
thực sự. Mỗi thầy cúng đảm nhiệm ít nhất một nhạc cụ. Vị trí ngồi trong dây của họ bị chi
phối bởi sự sắp xếp theo quy định của các nhạc cụ. Thông thường, pháp chủ sẽ đảm nhiệm
một mõ, một chuông. Người đầu dây tả đảm nhiệm trống canh, người thứ hai chơi trống cái,
người thứ ba gõ thanh la. Người đầu dây hữu chơi tiu cảnh, người thứ hai xóc đơi nạo và
người thứ ba gõ bạt. Trong buổi lễ Thượng Nguyên ở phủ Tây Hồ do số người bị hạn chế
nên biên chế nhạc cụ có thay đổi. Người đầu dây tả đảm nhiệm trống cái và trống đế, người
thứ hai đánh trống canh. Người đầu dây hữu đảm nhiệm tiu cảnh vừa kiêm đánh thanh la,
người thứ hai xóc nạo.
Như vậy ban thờ bao gồm : dây hữu, pháp chủ, dây tả, một tiu, một cảnh, một thanh
la, một chuông, một mõ, một trống cái, một trống đế, một nạo, một trống canh
Nội dung khoa cúng được chuyển tải bằng bốn hình thức xướng chính đó là: bạch,
tụng, kệ, canh. Bạch khơng có giai điệu như canh, không ngân nga ở cuối câu như kệ, cũng
không có nhạc cụ đệm theo, chỉ được điểm bằng tiếng chuông khi hết đoạn. Chu kỳ mỗi câu
bạch thường là 4 từ. Tụng thì như đọc, dùng tiếng mõ gõ theo nhịp trường canh và đôi khi
điểm thêm tiếng trống. Kệ là lối xướng có ngân nga ở cuối câu. Kệ khơng có nhạc cụ đệm
theo chỉ điểm tiếng mõ hoặc tiếng chuông ở cuối câu. Thường mỗi câu kệ có 7 chữ. Canh
cịn gọi là tán canh là lối diễn xướng theo giai điệu và có nhạc cụ gõ đệm theo. Trong khoa
cúng Phật-Mẫu tại lễ Thượng Nguyên ở phủ Tây Hồ có kệ Cam lộ thủy, kệ Giới hương, kệ
Vân lai tập, canh Lô hương, canh Thanh lương địa, canh Hương cúng giàng, canh Vân lai
tập.
18



Nghi thức tiếp theo của buổi lễ đó là Tụng kinh. Thông thường, kinh do một thầy
cúng vừa tụng vừa gõ mõ, điểm chuông. Trong buổi lễ Thượng Nguyên ở phủ Tây Hồ lại
được các thầy cúng đồng thanh tụng bản kinh Cứu khổ. Đây là bản kinh ngắn nên dễ thuộc.
Nội dung kinh Cứu khổ để cầu nguyện Đức Quan Thế Âm Bồ Tát đến cứu giúp khi gặp tai
nạn hiểm nghèo. Ngoài bản kinh này, ở một số đền khác trong ngày Tứ q mà chúng tơi có
dịp tham dự, người ta còn tụng kinh Dược sư hoặc kinh Phả môn. Kinh Dược sư phổ biến
hơn với mục đích cầu dun thọ hoặc chữa bệnh. Kinh Phả mơn để cầu Đức Quan Thế Âm
Bồ Tát phù hộ cho hai chữ bình an.
Nếu hai nghi thức đầu của buổi lễ Khoa cúng và Tụng kinh diễn ra bên trong phủ
chính thì Cúng chúng sinh lại được tổ chức ngồi sân phủ, hướng ra mặt nước Tây Hồ.
Người ta quan niệm rằng dù cúng Phật hay cúng Mẫu cũng phải cúng chúng sinh bởi các cô
hồn nghe thấy tiếng chuông, tiếng trống sẽ kéo về. Cúng chúng sinh là cúng các cô hồn.
Trong pháp giới lục đạo, chúng sinh là những hồn người khơng có nơi nương tựa, ma đói
ma khát. Pháp giới lục đạo gồm: thiên đạo, nhân đạo, a tu la đạo (cõi quỷ), địa ngục đạo,
ngã quỷ, súc sinh. Thông thường, lễ vật của cúng chúng sinh gồm cháo, bỏng, khoai, sắn,
mâm quần áo chúng sinh. Lễ vật tối thiểu “Thất lạp tứ thập phương”, nghĩa là 7 hạt cơm
hoặc 7 hạt gạo cho vào nước.
Hát văn thờ là nghi thức cuối cùng của buổi lễ cũng là hình thức cúng bái đặc sắc
riêng của tín ngưỡng Tứ phủ, một sáng tạo đầy chất nghệ thuật của người Việt nhằm chuyển
tải lời cúng bằng âm nhạc.
Khung cảnh ngoài sân phủ Tây Hồ trong lễ Thượng Nguyên
Sinh hoạt trong mơi trường tín ngưỡng Tứ phủ, Hát văn có ba hình thức chính đó là
Hát văn thờ (hát vào những buổi lễ trang trọng của tín ngưỡng), Hát văn hầu (phục vụ cho
nghi lễ hầu bóng) và Hát văn thi (tuyển lựa những cung văn giỏi giữa các đền trong từng
khu vực). Nếu Hát văn hầu được diễn ra vào nhiều thời điểm trong năm thì thời gian tổ chức
Hát văn thờ khá khiêm nhường như vào ngày Tiệc (ngày quy hóa) của vị Thánh mà bản đền
thờ phụng, vào ngày Tứ quý (bốn vấn chính đánh mốc thời gian quan trọng của một năm),
hoặc trong những buổi hầu bóng của quy mơ lớn.
Vào ngày Tiệc, bản đền thờ phụng vị Thánh nào sẽ Hát văn thờ bản văn về sự tích vị

thánh đó như văn “Địa tiên Thánh Mẫu”, “Cảnh thư đường”, hoặc “Bóng giăng loan” thờ
Mẫu Liễu Hạnh tại phủ Dầy (Nam Định), phủ Tây Hồ (Hà Nội) và những nơi thờ vọng;
19


Vào ngày Tứ quý hay trong những buổi hầu đồng trịnh trọng, cung văn khơng hát
bản văn sự tích mà dâng bản văn “Công đồng”. Đây là bản văn dùng chung tại các đền. Tại
phủ Tây Hồ, vào ngày Tiệc của Mẫu Liễu Hạnh (mùng 3 tháng 3 âm lịch), người ta Hát văn
thờ bản “Cảnh thư đường” thì trong lễ Thượng Nguyên đầu Xuân Mậu Tý là bản văn “Cơng
đồng”. Nội dung bản văn để thỉnh mời tồn bộ chư Phật, chư Thánh theo các cấp bậc từ cao
tới thấp về chứng dám cho buổi lễ:
- Thỉnh mời chư Phật
- Thỉnh mời Ngọc Hoàng (vua của Thiên phủ)
- Thỉnh mời Ngũ nhạc thần vương (năm vị vua của Nhạc phủ)
- Thỉnh mời Địa phủ thập điện minh vương (mười vị vua của Địa phủ)
- Thỉnh mời Bát hải Long vương (vua của Thoải phủ)
- Thỉnh mời Nam tào, Bắc đẩu (chua sổ trường sinh)
- Thỉnh mời hội công đồng tứ phủ vạn linh
- Thỉnh mời tứ vị Thánh Mẫu (Mẫu Thượng thiên, Mẫu Thượng ngàn, Mẫu Thoải
phủ, Mẫu Địa phủ)
- Thỉnh mời năm quan hoàng tử
- Thỉnh mời thập nhị niên vương
- Thỉnh mời thành hoàng
- Thỉnh mời tứ phủ khâm sai (chầu)
- Thỉnh mời tam thập lục cung thần nữ (các cung tiên)
- Thỉnh mời bát bộ sơn trang
- Thỉnh mời quan hoàng, quan quận, tiên nương
- Nguyện vọng của đệ tử: nguyện cầu phù hộ.
Phần lời ca bản “Công đồng” được chuyển tải qua 7 làn điệu chủ chốt của Hát văn
thờ đó là: Bỉ, Miễu, Thổng, Phú Bình, Phú Chênh, Phú Nói, Dồn. Trong đó, ba điệu mở đầu

Bỉ, Miễu, Thổng là những làn điệu lề lối chỉ sử dụng trong Hát văn thờ mà không dùng
trong Hát văn hầu. Các điệu Phú Bình, Phú Chênh, Phú Nói nằm trong hệ thống làn điệu
Phú mang tính chất uy nghi, đĩnh đạc.
2.2.2 Lễ Hầu Đồng
2.2.2.1 Khái niệm
20


Hầu đồng là khi những thiện nam tín nữ làm cúng lễ, tính tốn thấy mình có căn cơ
với vị thần linh nào đó trong tín ngưỡng Tứ phủ thì tự nguyện xin hầu , nghĩa là để thần linh
nhập vào mình. Những người như vậy được gọi là các ông đồng, bà đồng.
Theo quan niệm dân gian thì người hầu đồng trước hết là người có duyên với đạo
Mẫu (Có căn).
Là những người trong phong trào theo nhau đội bát nhang.
Dạng thứ hai là những người có căn cơ qua một lễ Phủ
Dạng thứ ba là những người có cao căn đã mở tứ phủ để hầu đồng hay cịn gọi là lính
của ngài
Dạng thứ tư là những người đã mở điện thờ tại gia. Muốn thành ông đồng bà cốt phải
qua hai lễ tôn bát nhang và ra đàn Tứ Phủ. Như vậy hầu đồng thực chất có thể xem là một
hình thức diễn xướng dân gian có đủ yếu tố Lễ nhạc và Vũ Đạo.
Lên đồng là nghi lễ chính và rất quan trọng trong tín ngưỡng Thờ Mẫu Tứ phủ. Đó là
nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh Tứ phủ (Tứ phủ gồm 3 phủ trong Tam phủ: Thiên, Địa,
Thoải và có thêm phủ Thượng Ngàn gọi là Nhạc Phủ) vào thân xác các ông Đồng, bà Đồng.
Đây là sự tái hiện hình ảnh các vị Thánh nhằm phán truyền, chữa bệnh, ban phúc lộc cho
các tín đồ đạo mẫu. Nghi lễ này thường mang đặc điểm, sắc thái khác nhau trong việc thờ
các vị thánh trong đền.
Theo Ngơ Đức Thịnh,“Hầu đồng hay hầu bóng là hiện tương nhập hồn của nhiều vị
thần linh.Trong đó,mỗi lần một vị thần linh nhập hồn(ốp đồng,giáng đồng),rồi làm việc
quan(tức thời gian thực hiện các nghi lễ,nhảy múa,ban lộc,phán truyền)và xuất hồn(thăng
đồng),được gọi là một giá đồng(tức thời gian thần linh ngự trị trên giá đồng của mình là các

ơng đồng,bà đồng)”
2.2.2.2 Nghi thức
Điện thờ : Điện thờ chính thờ hệ thống Mẫu tứ phủ,Mẫu Thượng Thiên ở giữa,Mẫu
Địa ở bên phải,Mẫu Thoải ở bên trái,Mẫu Thượng Ngàn(núi,rừng). Ở các chùa chiền,miếu
thường có những bức tranh thờ bà chúa,đức Thánh Trần,ơng Hồng Ba,ơng Hồng Bẩy,Tam
phủ,Tứ phủ theo nghệ thuật thời trang thượng Đông Hồ,Hàng Trống hay Sỳnh.
Người hầu đồng trước tiên phải chọn ngày lành tháng tốt để chuẩn bị hầu với thủ
nhang nhà đền, phủ hay điện
Về trang phục:
21


Người được thành ông đồng, bà cốt phải chuẩn bị trước những trang phục cho buổi
hầu. Về nguyên tắc, mỗi vị thần linh có một cách trang phục riêng,nên những người này
thường phải sắm nhiều quần áo màu sắc rực rỡ ,cùng các loại khăn, mũ, thắt lưng, …Những
ngày hành lễ có khi được nhiều loại thần linh giáng ,nên trang phục phải càng phong
phú.Các Chầu, các Cô, các Quan, các ơng Hồng đều có những quần áo riêng rất đa dạng.
Có bao nhiêu giá đồng thì tương ứng với ngần ấy bộ trang phục và trang sức đi
kèm.Dân gian truyền lại có 36 giá đồng tương ứng với 36 vị Thánh và điều đó có nghĩa là sẽ
có 36 bộ trang phục dành cho các giá đồng.các bộ trang phục này rất phong phú,đa dạng
nhưng có quy định chặt chẽ về kiểu cách,màu sắc và phụ sức đi kèm.Có trang phục nữ của
các Chầu Bà,Thánh Cơ và cũng có y phục nam của các Quan Lớn,Thánh Cậu.Cũng vì xuất
xứ và tích truyện về mỗi vị khác nhau nên các bộ trang phục cũng theo đó mà được người
sau thể hiện theo.Có vị xuất tích từ miền Nhạc phủ(rừng xanh)như cô bé Thượng Ngàn mặc
trang phục của người dân tộc,trong khi Cô Đôi Cam Đường lại mặc trang phục áo tứ
thân,đeo quang gánh của người phụ nữ người Kinh.Trang phục của các giá Chầu Bà thường
rất đẹp vì đó là hóa thân của các Mẫu,như trang phục của Chầu Đệ Tam với khăn áo màu
trắng cầm quạt trắng lấp lánh tượng trưng cho miền Thoải phủ.Trang phục của các giá Quan
Lớn,Quan Hồng lại vơ cùng uy nghi,đẹp đẽ giống trang phục các vị quan trong triều đại
phong kiến.

Ngoài trang phục thì trang sức à các vật đi kèm như quạt,khăn đội đầu.mũ,hài cũng
được gia cơng tinh xảo.Có thể kể đến như Cù ngọc,thẻ bài dùng trong các giá Quan,giá
Hoàng hay các loại vịng,cài khăn……
Lễ Vật:
Lễ vật trình đồng phải khác với lễ vật hầu bản mệnh hay tiệc khao, được trình bày
trên một kỷ tháp hình chữ nhật kê chính giữa và gồm những thứ sau đây:
Chén đũa bạc, đĩa và cốc pha lê chính giữa là một cái gương trên phủ một chiếc khăn
thêu. Hai bên bục và trước kỷ bày bốn mâm lễ Tứ Phủ mỗi mâm có chín quả trứng, một cái
lược, một cái quạt, một đơi guốc, chín vng vải nhiễu mầu phủ lên trên (nhiễu hoặc lụa).
Mầu phải là mầu chính của Tứ Phủ (Xanh, đỏ, trắng và vàng). Bên cạnh mâm lễ có một cái
chung nhỏ , một cái thau nhỏ. Cứ mỗi lễ phải thay một hình nhân (nơm) và bốn lốt . Bên
cạnh mâm lễ Tứ phủ là mâm lễ sơn trang , mà bất cứ thứ lễ gì cũng phải chia ra làm 13 phần
. Một phần lớn bày ở giữa cịn 12 phần nhỏ bày xung quanh. Ngay cạnh đó là một mâm hài
22


sơn trang (hoặc giống) mầu. Mũi hài có thêu hình chim phượng. Một trăm vàng thoi (Giấy
vàng xếp thành thoi).
Lễ mặn sơn trang gồm:có ốc,tơm,cá khơ,cua(13 hoặc 15 con) mực,nếp cẩm,dừa
tươi…Lễ sơn trang về đồ chay thường có:1 mân hoa quả gồm khế chua, sung chat,gừng
cay,chanh ớt,dứa
Âm Nhạc:
Âm nhạc trong hầu đồng được gọi là nghệ thuật hát Chầu Văn.Lời văn chầu ấy gọi là
lời hát văn (chầu văn, hát văn) do các cung văn trình bày trước bàn thờ theo nghi thức đã
định sẵn. Có dàn nhạc kèm theo, quay quần chung quanh người ngồi đồng. có khi chầu văn
hát để cho một số người khác tham gia phần vũ đạo.
Hát văn có làn điệu riêng, có những điệu mà tiếng chuyên môn gọi là hát độc, hát
cờn, hát xá,hát dọc.. có nhiều làn điệu dân ca, nhạc cổ như chèo, ca trù, quan họ, dân ca
Huế, … được vận dụng cho thích hợp với tính cách hát chầu hầu. Khổ hát thường là bốn câu
song thất lục bát, nhưng từng câu riêng cũng có thể hát thành một khổ.

Để phục vụ nghi lễ hầu đồng đầy đủ cần có:Cung văn là người hát và dàn nhạc phục
vụ hát Văn.Dàn nhạc gồm một đàn nguyệt,một đàn nhị,một trống nhỏ,một cảnh đơi,một
phách.Ngồi ra,cịn có thêm một cỗ trống lớn,chiêng,sáo,và tiêu cho những buổi hát thờ
lớn.Nhìn chung Tùy từng địa phương, tùy hồn cảnh hành lễ mà người ta có thể thêm bớt
nhạc cụ này hoặc nhạc cụ khác, nhưng người ta không thể bớt đi đàn nguyệt, trống nhỏ,
cảnh đôi vì đây là những nhạc cụ nịng cốt, nhạc cụ tính cách của dàn nhạc Hầu Bóng.
Hát văn khơng chỉ riêng cho cung văn phục vụ trong những dịp lễ tiết mà còn phát
huy sinh hoạt văn nghệ trong quần chúng. Vì vậy văn chầu thánh có hai hình thức hát
chính.: Hát thờ và hát thi. Hát thờ là hát trong các lễ tiết, chỉ do các cung văn phụ trách , vì
họ đã thơng thạo bài bản và quen với nghi thức. Còn hát thi là tổ chức để chọn những người
hát đúng , hát hay.
Mở đầu nghi lễ lên đồng,cung văn hát điệu Văn Thờ viết với tiết tấu nhanh,gấp
gáp,sau đó khi thánh đã nhập đồng thì hát Văn Hầu để ca ngợi cơng đức hay thần tích các
Thánh. Tiếp theo, người hát chuyển sang Hát Dọc để kích thích khả năng “thăng, thốt” của
người hầu đồng, điệu này dồn dập tưng bừng. Khi người hầu đồng đã nhập vai các Thánh và
“làm việc Thánh” thì chuyển Điệu Còn là điệu thức cao hơn Dọc một cung bậc. Người hầu
đồng vào vai Thánh nào thì người hát chuyển giọng và chuyển nội dung theo ngơi Thánh đó
23


cho phù hợp. Các nhạc cụ tronng Chầu Văn mang đến âm thanh rộn rã thì nhịp điệu của hát
Văn cũng rất độc đáo và vui tươi, nhộn nhịp. Các điệu hát khi thì hào sảng với các chiến
tích lẫy lừng của các Quan Lớn, Quan Hồng, khi lại ríu rít, quấn qt như tiếng chim rừng
trong giá hàng Cơ (Nhạc Phủ). Chính vì thế mà Chầu Văn ln tạo ra một khơng khí tươi
vui, háo hức chứ khơng ai oán, trầm lắng như Ca Trù.
Vũ điệu:
Ba mươi sáu giá đồng sẽ tương ứng với ba mươi sáu vũ điệu khác nhau. Trong buổi
hầu đồng, người hầu đồng nhắm mắt hoặc mở mắt nhưng tập trung tinh thần để diễn tả lại
tính cách, cuộc đời của vị Thánh mình đang hầu, những vị có cơng giúp nước giúp dân.
Thường có hai phụ đồng gọi là tay Quỳnh, tay Quế để đi theo người hầu đồng chuẩn bị

trang phục. Họ phải đảm bảo sao cho buổi hầu đồng không bị gián đoạn khi chuyển tiếp
giữa hai vị Thánh. Điệu múa của người hầu đồng cũng được thay đổi theo các giá hầu. Khi
thì người hầu đồng hóa thân thành một vị quan lớn oai vệ uy nghiêm, khi lại hóa thân thành
một cô gái tung tăng nhảy múa. Giá Quan Lớn thường có các điệu múa cờ, múa kiếm, long
đao, kích… Giá của các Chầu Bà thì múa quạt, múa mồi, múa tay khơng rất đẹp. Giá Ơng
Hồng có múa khăn tấu, múa tay khơng, múa cờ. Trong khi đó đẹp mắt và được u thích
nhất là giá các Cơ múa quạt, múa hoa, múa chèo đò, múa thêu thùa, múa khăn lụa, múa
đàn… Giá các Cậu lại rất được hưởng ứng, hân hoan vì sự tinh nghịch, trêu trọc trẻ con với
các điệu múa hèo, múa lân. Nghi lễ hầu đồng diễn ra theo thứ tự Thánh giáng từ thứ tự cao
đến thứ tự thấp nên các điệu múa cũng đi từ sự uy nghi tới uyển chuyển sang tươi vui nhí
nhảnh. Những người tham dự nghi lễ càng tham gia càng hào hứng, say mê.
Nhân sự cho một buổi hầu đồng: Hai người phụ đồng là người thân hay người trong
hội hoặc trong nhóm và một ban cung văn
2.2.2.3Trình tự diễn ra lễ hầu đồng
Bắt đầu buổi hầu đồng người ta đặt các lễ vật lên hương án. Người hầu đồng để các
dụng cụ lên chiếu đồng, bước lên chiếu đồng, lấy hoa xoa lên mặt, quần áo rồi vẩy xung
quanh để tẩy uế . Cung văn lên giây đàn, dạo nhạc, hát văn cộng đồng. Ba động tác tiên
khởi mà người hầu đồng phải làm là: Chấp tay chờ cho phụ đồng phủ khăn diên lên đầu
trùm cả tay xong thì đưa tay lên trán rồi bước chân trái lên môt bước, chân phải chụm lên
với chân trái, lập lai them hai lần mới quỳ xuống. Người hầu đồng làm lễ vái dập người, hai
24


tay chống xuống chiếu, mặt úp sát, vái ba lễ. Sau đó đứng dậy đi dật lùi ba bước về vị trí cũ.
Giá đệ nhất được bắt đầu.
Cũng như giá đầu, khi sang một giá khác, người hầu đồng sau khi thay đổi trang phục
và lễ cụ sẽ bước lên chiếu đồng, cung văn chuẩn bị tấu nhạc. Người hầu đồng, chit xoa khăn
vái, ngồi xếp bằng. Người phụ đồng kính cẩn đưa một chiếc khăn phủ diện mầu đỏ. Hầu
đồng cầm khăn, vái mấy vái rồi phủ lên đầu, hai tay cầm hai mép khăn phủ ở đầu gối. Một
lúc sau đầu hầu đồng lắc lư, đảo đảo rồi bất ngờ hét lên một tiếng, chỉ ngón trỏ trái lên trời.

Đó là dấu hiệu giá quan lớn đệ nhất nhập đồng.
Một Giá Đồng Có Thể Tiến theo Trình Tự Sau:
a. Thay Lễ phục:
Mỗi vị thánh đều có lễ phục riêng phù hợp với danh hiệu của vị đó và mầu sắc cũng
khác biệt tùy từng phủ, từng gốc tích sắc tộc gốc, phẩm hàm cũng như văn hay võ.
b. Dâng hương hành lễ:
Đây là một nghi thức không thể thiếu được cho bất cứ phía nào. Hầu đồng tay trái
cầm một bó nhang đã đốt sẵn, bọc trong một chiếc khăn có tẩm hương. Tay phải rút một nén
nhang rồi huơ lên bó nhang trong tay làm động tác phù phép mà ngôn ngữ hầu đồng gọi là
khai nông, để xua đuổi tà ma
c. Lễ thánh giáng:
Khi hầu đồng có thánh nhập vào thì bng các nén hương đang cầm theo tay chắp ,
nghiêng mình ra hiệu thánh thuộc hạng thứ bậc nào.
Có hai hình thức thánh giáng :
- Giáng trùm khăn (hầu tráng mạn) với các giá thánh mẫu. Mẫu chỉ đến chứng giám
rồi đi ngay.
- Giáng mở khăn – với các hàng quan trở xuống.
Khi thánh đã nhập, người hầu đồng khơng cịn là người phàm nữa, xuất thần, tự thôi
miên đã giúp cho họ nhảy múa một cách uyển chuyển, nhịp nhàng mà bình thường họ
khơng làm được. Đó chính là hứng khởi mang tính tâm linh tơn giáo (Chỉ có ở một số
người)
d. Múa đồng :

25


×