Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Phân tích tác động của các nhân tố hành vi đến quyết định của nhà đầu tư các nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.94 KB, 64 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
..........................................................
TRẦN NAM TRUNG
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ HÀNH VI
ĐẾN QUYẾT ĐỊNH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ CÁ NHÂN
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TP.HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Thành Phố Hồ Chí Minh – Năm 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
..........................................................
TRẦN NAM TRUNG
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ HÀNH VI
ĐẾN QUYẾT ĐỊNH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ CÁ NHÂN
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TP.HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành : Tài chính - Ngân hàng
Mã số :
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS SỬ ĐÌNH THÀNH
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. EFA (EXPLORATORY FACTOR ANALYSIS): phân tích nhân tố khám phá
2. NĐT CN: nhà đầu tư cá nhân
3. TTCK : Thị trường chứng khoán
4. Tp.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
5. TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán
DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU
HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
Hình 1.1 : Hàm giá trị của Kahneman và Tversky
Hình 3.1 : Biểu đồ thời gian tham gia TTCK của NĐT CN Tp.HCM


Hình 3.2 : Biểu đồ vốn đầu tư vào TTCK của NĐT CN Tp.HCM
Hình 3.3 : Biểu đồ thống kê chiến lược đầu tư của NĐT CN Tp.HCM
Hình 3.4 : Biểu đồ thống kê sự ảnh hưởng của nhân tố tâm lý đến quyết định đầu tư
của NĐT CN Tp.HCM
BẢNG BIỂU
Bảng 3.1 : Tổng hợp các thang đo được mã hóa
Bảng 3.2 : Thống kê mô tả thời gian tham gia TTCK của NĐT CN Tp.HCM
Bảng 3.3 : Thống kê mô tả số vố đầu tư vào TTCK của NĐT CN Tp.HCM
Bảng 3.4 : Thống kê mô tả chiến lược đầu tư của TTCK của NĐT CN Tp.HCM
Bảng 3.5 : Thống kê mô tả sự ảnh hưởng của nhân tố tâm lý đến quyết định đầu tư
của TTCK của NĐT CN Tp.HCM
Bảng 3.6 : Thống kê mô tả các nhân tố hành vi tác động đến tiến trình ra quyết định
của TTCK của NĐT CN Tp.HCM
Bảng 3.7 : Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo các biến quan sát
Bảng 3.8 : Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo quyết định đầu tư
Bảng 3.9 : Kết quả phân tích EFA các biến độc lập
Bảng 3.10 : Phân tích phương sai tổng thể
Bảng 3.11 : Kết quả phân tích EFA các biến phụ thuộc
Bảng 3.12 : Ma trận tương quan giữa các nhân tố
Bảng 3.13 : Tóm tắt mô hình hồi quy
Bảng 3.14 : Kết quả kiểm định Anova
- 1 -
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU--------------------------------------------------------------------------------------------3
CHƯƠNG 1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH HỌC HÀNH VI------------------------6
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Tài chính học hành vi: ----------------------------------6
1.2 Lý thuyết Tài chính học hành vi: (Behavioral Finance)----------------------------------------7
1.2.1 Thuyết kỳ vọng: (The Prospect Theory)----------------------------------------------------8
1.2.1.1 Sự ghét lỗ: (Loss Aversion) --------------------------------------------------------------9
1.2.1.2 Sự tiếc nuối: (Regret) ---------------------------------------------------------------------9

1.2.2 Tâm lý dựa vào kinh nghiệm: (Heuristics) ----------------------------------------------- 10
1.2.2.1 Tình huống điển hình: (Representativeness) ----------------------------------------- 10
1.2.2.2 Sự quá tự tin: (Overconfidence and Over & Underreaction) ---------------------- 11
1.2.2.3 Bám vào những giá trị đã thiết lập: (Anchoring) ------------------------------------ 11
1.2.2.4 Hành vi bầy đàn: (Herb Behavior)----------------------------------------------------- 12
Kết luận chương 1 -------------------------------------------------------------------------------------- 13
CHƯƠNG 2 – SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ------------------------------------------------------ 14
2.1 Giai đoạn 2000 – 2005: --------------------------------------------------------------------------- 14
2.2 Giai đoạn 2006 – 2007: --------------------------------------------------------------------------- 18
2.3 Giai đoạn 2008 đến nay: -------------------------------------------------------------------------- 21
Kết luận chương 2 ------------------------------------------------------------------------------------- 25
CHƯƠNG 3 – KHẢO SÁT SỰ TÁC ĐỘNG CÁC NHÂN TỐ HÀNH VI ĐẾN
QUYẾT ĐỊNH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ CÁ NHÂN TRÊN TTCK TP.HỒ CHÍ MINH -- 26
3.1 Mô hình khảo sát----------------------------------------------------------------------------------- 26
3.2 Quy trình khảo sát --------------------------------------------------------------------------------- 26
3.3 Kết quả khảo sát------------------------------------------------------------------------------------ 30
3.3.1 Phân tích mô tả ------------------------------------------------------------------------------- 30
3.3.2 Đánh giá độ tin cậy của thang đo ---------------------------------------------------------- 35
3.3.3 Phân tích nhân tố ----------------------------------------------------------------------------- 37
- 2 -
3.3.4 Hồi quy tuyết tính---------------------------------------------------------------------------- 42
3.3.5 Kiểm định mô hình -------------------------------------------------------------------------- 45
Kết luận chương 3 -------------------------------------------------------------------------------------- 46
CHƯƠNG 4 – KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ---------------------------------------------- 47
4.1 Thảo luận về kết quả nghiên cứu ---------------------------------------------------------------- 47
4.2 Đóng góp của nghiên cứu------------------------------------------------------------------------- 48
4.3 Kết luận---------------------------------------------------------------------------------------------- 49
4.4 Những khuyến nghị-------------------------------------------------------------------------------- 49
4.5 Đề xuất cho những nghiên cứu tiếp theo ------------------------------------------------------- 51

TÀI LIỆU THAM KHẢO--------------------------------------------------------------------------- 52
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bảng câu hỏi khảo sát chính thức
Phụ lục 2: Bảng câu hỏi thô
Phụ lục 3: Biểu đồ VNINDEX từ năm 2000 đến nay
- 3 -
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Sau 9 năm đi vào hoạt động (kể từ tháng 07/2000), thị trường chứng khoán Việt
Nam đã trãi qua bao thăng trầm. Khởi đầu từ 100 điểm, VN-Index đã nhanh chóng
vượt qua mốc 500 điểm rồi trở lại dần xuất phát điểm, gần mốc 150 điểm. Tiếp theo
là thời kỳ trầm lắng gần bốn năm để lấy đà cho giai đoạn tăng trưởng ngoạn mục,
vượt mốc 1.000 điểm và đạt đỉnh 1.170,67 điểm vào tháng 3/2007 để rồi sau đó là
giai đoạn xuống dốc tệ hại, chạm “đáy” 234,66 điểm vào ngày 24/2/2009 (giảm
80% trong vòng gần 2 năm), đây là mức sụt giảm kỷ lục trong 9 năm hoạt động của
TTCK Việt Nam và cũng là mức sụt giảm mạnh nhất thế giới.
Đến 08/06/2009, VNINDEX lại chạm mốc 501.48 điểm (tức tăng 130% trong
vòng gần 4 tháng so với mức đáy ngày 24/02/2009).
Điều này cho thấy biên độ dao động của VNINDEX là rất lớn và phản ứng có
phần quá mức trước những thông tin tác động đến thị trường.
Tác nhân tác động đến thị trường thì có nhiều. Ngoài những biến động không
lường về tình hình kinh tế vĩ mô ở trong và ngoài nước, tình hình sản xuất kinh
doanh của chính bản thân doanh nghiệp niêm yết thì yếu tố tâm lý của nhà đầu tư
cũng là một nhân tố quyết định. Chính yếu tố tâm lý này đã đẩy cho thị trường lên
cao và rất nhanh trong một giai đoạn ngắn và cũng chính nó là nguyên nhân làm cho
thị trường sụt giảm sâu và mạnh mẽ.
Do đó việc nắm bắt được tâm lý của nhà đầu tư và xu hướng của thị trường là
một trong những yếu tố then chốt cho việc ra quyết định trong đầu tư. Vì vậy, bên
cạnh các phương pháp phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật thì việc nghiên cứu và
phân tích hành vi tài chính của nhà đầu tư là một công việc quan trọng không thể

thiếu trong đầu tư chứng khoán và ngày càng được xem xét nhiều hơn khi các
phương pháp phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật hầu như đã không còn phát huy
được vai trò của chính nó trong việc nhận định và dự đoán xu hướng của thị trường
(như trong năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 vừa qua).
- 4 -
Đề tài “Phân tích tác động của các nhân tố hành vi đến quyết định của nhà
đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh” được thực hiện
không ngoài mục đích trên và rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp để vấn đề
nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu trọng tâm của đề tài là hành vi
của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Tổ chức tài chính và Nhà đầu tư nước ngoài sẽ không thuộc đối tượng nghiên
cứu của công trình này.
Cơ sở lựa chọn đối tượng nghiên cứu:
Trên 70% tổng số tài khoản đầu tư trên thị trường chứng khoán là tài khoản cá
nhân. Chính họ là nhân tố tạo nên sự nhộn nhịp, sôi động cho thị trường. Ở một số
thời điểm, đặc biệt như trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua, hầu
như các nhà đầu tư tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài nằm im, không giao dịch hoặc
giao dịch cầm chừng thì chính họ lại là nhân tố mang đến tính thanh khoản và quyết
định cho sự tăng giảm giá trên thị trường mặc dù lượng vốn của các tổ chức và nhà
đầu tư nước ngoài lớn hơn họ rất nhiều. Các quyết định của họ nếu xét trong từng
thời kỳ thì thường tỏ ra nhạy bén và bám sát xu hướng của thị trường hơn so với các
quyết định của các nhà đầu tư tổ chức và nước ngoài.
Ngoài ra, một đặc điểm nổi bật của các nhà đầu tư cá nhân là đầu tư theo phong
trào và phương thức đầu tư của phần đông trong số này là khi giá chứng khoán tăng
thì ào ào mua vào đẩy giá càng lên cao và lên nhanh nhưng khi giá chứng khoán
xuống thì lại “giẫm đạp lên nhau, ùa nhau bán tháo" để cắt lỗ đẩy giá chứng khoán
giảm sâu hơn.
Vì vậy, luận văn sẽ tập trung chủ yếu vào nhóm các nhà đầu tư cá nhân, để tìm

hiểu về các hành vi tài chính của họ trên thị trường trong từng thời kỳ mà trọng tâm
là giai đoạn 2007 – 2009, giai đoạn bùng nổ tăng trưởng, suy sụp và dần hồi phục
của thị trường chứng khoán Việt Nam.
- 5 -
Phạm vi nghiên cứu: luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu về hành vi của các
nhà đầu cá nhân đã và đang mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại Công ty Cổ
phần Chứng khoán Bản Việt và các Công ty Chứng khoán khác trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh với trọng tâm là giai đoạn 2007 – 2009, giai đoạn ghi nhận nhiều
kịch tính và đầy biến động của thị trường chứng khoán Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp khảo sát thực tế: qua quá trình gần 10 năm công tác trong ngành
tài chính - chứng khoán, tác giả đã có nhiều cơ hội tiếp xúc và tư vấn đầu tư cho
nhiều đối tượng khách hàng thuộc nhóm các nhà đầu tư cá nhân trong nước. Từ đó,
tác giả đã phần nào nắm bắt được thực trạng về nhu cầu và khả năng đầu tư của
khách hàng trong từng thời kỳ để đi sâu nghiên cứu về hành vi tài chính của họ trên
thị trường.
Phương pháp điều tra: luận văn sử dụng phương pháp điều tra chọn mẫu thông
qua bảng câu hỏi khảo sát. Dựa trên số liệu thu thập được từ bảng câu hỏi khảo sát,
tác giả sẽ phân tích dữ liệu với SPSS.
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Đề tài nghiên cứu xác định các yếu tố tác động đến hành vi tài chính của nhà
đầu tư cá nhân, đánh giá một cách khách quan hành vi đầu tư của họ. Từ đó, đưa ra
những nhận định và khuyến nghị thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả trong tiến trình
ra quyết định của các nhà đầu tư cá nhân và giúp cho họ tránh được những suy nghĩ
sai lầm khi đưa ra các quyết định đầu tư tài chính.
Kết cấu luận văn:
Luận văn được chia thành 4 chương với nội dung cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kinh tế học hành vi.
Chương 2: Sơ lược về sự hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam.
Chương 3: Khảo sát sự tác động của các nhân tố hành vi đến quyết

định của nhà đầu tư cá nhân trên TTCK Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 4: Kết luận và khuyến nghị
- 6 -
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH HỌC HÀNH VI
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Tài chính học hành vi:
Trong thời kỳ cổ điển, kinh tế học đã có mối liên kết gần gũi với tâm lý học.
Chẳng hạn như Adam Smith viết cuốn “Lý thuyết về tình cảm luân lý” (The Theory
of Moral Sentiments), văn bản quan trọng mô tả những nguyên lý tâm lý học của
các hành vi cá nhân, xuất bản vào năm 1759, được viết ra với thể văn hào nhoáng,
chải chuốt, chứa đựng nhiều giai thoại, mang tính chất phân tích. Trong tác phẩm
này Adam Smith đã mô tả các nguyên tắc về "bản chất con người" và đặt vấn đề về
nguồn gốc của khả năng tạo ra các phán xét luân lý, kể cả các phán xét hành vi của
chính mình trong việc tư lợi và tự bảo tồn. Adam Smith cho rằng trong mỗi người
chúng ta có một "con người bên trong" (an inner man) đóng vai trò như một người
khách quan không thiên vị, thường chấp nhận hay lên án các hành động của chính ta
và của người khác. Qua tác phẩm này, Adam Smith đã đưa ra nhận xét quan trọng
mà sau này ông đã lặp lại trong tác phẩm “Tài sản của các quốc gia”: (The Wealth
of Nations): "con người tự tìm kiếm mình thường bị dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình
... mà không hay biết, không do chủ đích để làm gia tăng các lợi ích của xã hội…”
Trong thời kỳ kinh tế học tân cổ điển, các nhà kinh tế học bắt đầu đặt mình bên
ngoài tâm lý học nhằm hướng tới những nghiên cứu kinh tế như một khoa học tự
nhiên, bắt đầu với những giải thích về hành vi kinh tế được suy ra từ các giả định về
tính tự nhiên của các thực thể (tác nhân) kinh tế. Khái niệm con người kinh tế đã
được đề xuất, tâm lý của con người được xem xét cơ bản dựa trên lý trí. Những đại
diện tiêu biểu trong thời kỳ này là: Francis Edgeworth, Vilfredo Pareto, Irving
Fisher và John Maynard Keynes.
Năm 1979, Daniel Kahneman, giáo sư khoa Tâm lý học tại ĐH Princeton, và
Amos Tversky đã trình bày “Lý thuyết kỳ vọng”, mô tả sự lựa chọn của con người
- 7 -

như thế nào khi rơi vào tình huống buộc phải quyết định giữa sự lựa chọn bao hàm
cả sự rủi ro, chẳng hạn như trong các quyết định tài chính.
Năm 2002, giáo sư Vernon Smith (75 tuổi) của Đại học George Mason và giáo
sư Daniel Kahneman (68 tuổi) của Đại học Princeton đã nhận chung giải Nobel
kinh tế. Hai ông có chung công trình nghiên cứu về “Ảnh hưởng của tâm lý tới
quyết định chi tiêu của người dân và những bằng chứng thực nghiệm từ thập kỷ 60
đến nay”. Nghiên cứu này đã vạch ra một hướng mới đối với quan hệ giữa hai
ngành khoa học vốn rất ít liên quan là tâm lý học và kinh tế học. Kết quả nghiên
cứu chính của hai ông liên quan tới quá trình ra quyết định trong những trường hợp
không chắc chắn và cho rằng quyết định của con người có thể trệch khỏi các quyết
định được dự đoán bởi lý thuyết kinh tế tiêu chuẩn một cách có hệ thống.
Ngày nay, Tài chính học hành vi được áp dụng nhiều trong phân tích về các
quyết định thị trường cũng như trong phân tích về sự lựa chọn công.
1.2 Lý thuyết tài chính học hành vi: (Behavioral Finance)
Tài chính học hành vi, là một phân ngành kinh tế học nghiên cứu những hành vi
(hành động có nhận thức) của các chủ thể kinh tế (người tiêu dùng, người phân phối
hay người sản xuất) có ảnh hưởng như thế nào đến việc ra các quyết định kinh tế
cũng như giá cả thị trường ra sao.
Tài chính học hành vi có vai trò quan trọng trong việc dự đoán và lý giải cho xu
hướng của thị trường tài chính đặc biệt trong giai đoạn suy thoái kinh tế toàn cầu
như hiện nay, khi các phương pháp khác như phương pháp phân tích cơ bản và
phương pháp phân tích kỹ thuật đang cho thấy những mặt hạn chế của nó.
Thuyết kỳ vọng và Tâm lý dựa vào kinh nghiệm là hai mảng chính của học
thuyết hành vi tài chính, học thuyết lấy cảm xúc của con người làm trọng tâm
nghiên cứu.
- 8 -
1.2.1 Thuyết kỳ vọng: (The Prospect Theory)
Nền tảng của thuyết kỳ vọng là hàm giá trị được Kahneman và Tversky xây
dựng năm 1979 khi mô tả độ hữu dụng của một nhà đầu tư tài chính bằng một hàm
hữu dụng lõm, hữu dụng biên của tài sản giảm, tức là mỗi đơn vị tăng thêm trong

giá trị tài sản đầu tư sẽ mang lại một giá trị hữu dụng tăng thêm ít hơn so với sự
tăng lên trước đó trong giá trị tài sản đầu tư nhưng sẽ mang đến sự đau khổ và dằn
vặt nhiều hơn khi một giá trị tài sản bị sụt giảm do thua lỗ.
Hình 1.1 : Hàm giá trị của Kahneman và Tversky
Kahneman và Tversky cho rằng, hàm giá trị này có độ dốc hướng lên khi giá trị
tài sản dưới điểm tham chiếu và độ dốc hướng xuống khi giá trị tài sản ở trên điểm
tham chiếu. Điểm tham chiếu được quyết định bởi mỗi cá nhân như một điểm so
sánh, như để đo lường mức độ mục tiêu của giá trị tài sản. Khi giá trị tài sản nằm
dưới điểm tham chiếu (nhà đầu tư đang thua lỗ) thì họ sẽ là người sẵn sàng chấp
nhận rủi ro, tiếp tục tham gia cuộc chơi với hy vọng sẽ mau chóng lấy lại giá trị đầu
tư ban đầu. Ngược lại, khi giá trị tài sản nằm trên điểm tham chiếu, hàm giá trị có
chiều hướng lõm xuống, mô tả cho hành vi chống đỡ, ác cảm với những rủi ro trong
đầu tư khi nhanh chóng ra quyết định bán cổ phiếu để kiếm lời mà không phân tích
đến khả năng gia tăng thêm giá trị đầu tư để tăng thêm cơ hội thu được nhiều lợi
nhuận hơn.
Reference Point
Wealth
Utility
- 9 -
Tóm lại: hàm giá trị của Kahneman và Tversky là cơ sở quan trọng cho việc giải
thích một số hành vi tài chính của nhà đầu tư như: sự ghét lỗ và sự tiếc nuối.
1.2.1.1 Sự ghét lỗ: (Loss Aversion)
Qua thực nghiệm chỉ ra rằng những khoản lỗ thì nặng hơn gấp hai lần so với
khoản lãi. Lỗ 1$ thì đau khổ gấp hai lần so với lãi được 1$ (Kahneman và Tversky,
1991).
Sự ghét lỗ đề cập đến một sự thật là con người thường có xu hướng quá nhạy
cảm đối với sự sụt giảm tài sản của họ hơn sự gia tăng. Điều này được phản ánh bởi
hàm giá trị của của thuyết kỳ vọng rằng có một sự lệch lạc ở giá trị ban đầu. Sự ghét
lỗ có thể giúp chúng ta giải thích vì sao con người luôn có khuynh hướng cảm thấy
khổ sở, đau buồn khi phạm phải một sai lầm trong phán đoán. Lỗ 1$ thì đau khổ

gấp nhiều lần so với lãi được 1$ và do vậy, họ thường có xu hướng nắm giữ cổ
phiếu bị lỗ trong khi có thể bán chúng hoặc có lợi nhuận từ sớm hơn vì nhà đầu tư
luôn nghĩ rằng, những cổ phiếu bị lỗ sẽ nhanh chóng tốt trở lại, họ cản thấy tiếc
nuối khi phải bán lỗ cổ phiếu. Vì thế, khi đối mặt với tình trạng thua lỗ, họ càng kỳ
vọng vào lợi nhuận trong tương lai và thể hiện sự liều lĩnh của mình. Lý thuyết này
lý giải cho xu hướng “giữ cổ phiếu lỗ quá lâu” của các nhà đầu tư.
1.2.1.2 Sự tiếc nuối: (Regret)
Con người thường có chiều hướng cảm thấy đau khổ và dằn vặt một khi mắc lỗi,
thậm chí chỉ là những lỗi nho nhỏ. Họ cảm thấy hết sức ăn năn, hối hận về một
quyết định mang đến kết quả tệ bạc cho họ. Một khi họ mắc sai lầm và thua lỗ,
mong ước lớn nhất của họ là giá cả hồi phục lại giá cả ban đầu mà họ đã đầu tư, họ
chỉ mong hòa vốn. Do đó, ngay khi cổ phiếu vừa tăng giá họ đã vội vàng bán đi
thay vì giữ lại với hy vọng sẽ kiếm được nhiều lợi nhuận lớn hơn. Nhưng nếu giá cổ
phiếu lại xuống sâu thêm nữa, thay vì phải bán đi để cắt lỗ thì họ lại trì hoãn, chần
chừ không dám bán vì nghĩ rằng bán giá này sẽ là bán giá đáy, bán xong sẽ không
mua lại được giá thấp hơn hoặc nghĩ rằng thị trường chắc sẽ tốt hơn trong nay, mai
- 10 -
và giá cổ phiếu của mình sẽ mau chóng gia tăng trở lại, họ lo sợ và nuối tiếc khi
phải bán lỗ cổ phiếu. Họ càng nuối tiếc thì càng thể hiện sự liều lĩnh của mình khi
đối mặt với thua lỗ.
1.2.2 Tâm lý dựa vào kinh nghiệm: (Heuristics)
Các nhà đầu tư thường hành động theo kinh nghiệm. Kinh nghiệm và sự lệch
lạc, càng kinh nghiệm, càng ít lệch lạc.
Tâm lý dựa vào kinh nghiệm phản ánh tiến trình ra quyết định dựa trên những
điều mà con người đúc kết từ sự khắc phục những lỗi lầm. Phương pháp kinh
nghiệm rất hữu ích cho việc giải thích vì sao nhiều khi thị trường lại hành động theo
kiểu vô lý trí, điều này đối lập với mô hình thị trường hiệu quả trong thông tin.
Hành vi bầy đàn là một hình thức của tâm lý dựa vào kinh nghiệm ở đó hành
động của cá nhân bị dẫn dắt theo hành vi của đa số và ra quyết định dựa trên tâm lý
của đám đông. Tuy nhiên, hành vi bầy đàn cùng với tâm lý dựa vào kinh nghiệm sẽ

dẫn dắt con người đến chỗ lạc lối khi đi theo xu hướng chung của thị trường vì sự
quá tự tin về những việc mà họ đánh giá.
Sự quá tự tin cũng có thể bị vạch ra bởi “sự biểu hiện của tâm lý nhận thức” một
xu hướng cho con người để cố gắng phân loại các sự kiện theo loại hình hoặc cách
thức biểu hiện của cách phân loại được biết đến nhiều nhất. Trong thị trường chứng
khoán chẳng hạn, các nhà đầu tư phân loại theo nhóm các cổ phiếu có lịch sử tăng
trưởng về lợi nhuận nhưng lại bỏ qua sự hợp lý là có rất ít công ty giữ được tốc độ
tăng trưởng theo thời gian. Cho nên sự tự tin là một bộ phận cấu thành nên tâm lý
dựa vào kinh nghiệm và sẽ được mô tả cụ thể ở phần dưới đây cùng với tình huống
điển hình, hành vi tâm lý bầy đàn và tâm lý thích dựa vào những giá trị đã thiết lập
khi ra quyết định đầu tư.
1.2.2.1 Tình huống điển hình: (Representativeness):
Tình huống điển hình là sự đánh đồng hiệu quả kinh doanh và hiệu quả đầu tư
tài chính trong khi hai khái niệm này là hoàn toàn khác nhau. Hiệu quả kinh doanh
- 11 -
được đánh giá qua các chỉ số về doanh thu và lợi nhuận còn hiệu quả đầu tư tài
chính là chênh lệch giá.
Tình huống điển hình còn thể hiện ở sự ra quyết định dựa trên những kinh
nghiệm có được trong quá khứ mà bỏ sót nhiều sự kiện trong hiện tại, đánh giá sự
việc một cách riêng lẽ, không kết hợp thành hệ thống và tính đến mối liên hệ với
tổng thể.
1.2.2.2 Sự quá tự tin: (Overconfidence and Over & Underreaction)
Tâm lý chung của con người là thích thổi phồng, phóng đại tài năng của họ và
đánh giá thấp những kết quả tồi tệ có thể xảy ra mà họ không kiểm soát được. Sự
kết hợp của sự tự tin và lạc quan làm cho con người đánh giá quá cao kiến thức của
họ nhưng lại đánh giá thấp những rủi ro tiềm tàng và thổi phồng khả năng của họ về
việc kiểm soát được các sự việc, điều này dẫn đến khối lượng giao dịch quá mức và
thị trường bong bóng. Một người càng quá tự tin vào chính bản thân anh ta, thì
càng gặp nhiều rủi ro và sai lầm trong quyết định vì sự tự tin thường không tạo ra
mối quan hệ nào với kiến thức thực tế.

Đặc tính chung của con người là phản ứng lại quá mức đối với những sự kiện,
những thông tin không lường trước và đầy kịch tính. Vì vậy, sự quá tự tin có thể
giúp giải thích phần nào sự gia tăng quá mức của giá cả trong thị trường bong bóng
(đầu cơ).
1.2.2.3 Bám vào những giá trị đã thiết lập: (Anchoring)
Được định nghĩa như là việc hình thành một giá trị và đánh giá các vấn đề dựa
vào giá trị đã được thiết lập trước đó.Vì sự thật là con người ai cũng có trong đầu
một vài điểm tham chiếu, chẳng hạn như giá IPO, giá chào sàn trước đây của cổ
phiếu. Một khi có được thông tin mới họ sẽ điều chỉnh giá cả cổ phiếu lên trên điểm
tham chiếu. Trong trường hợp thị trường thiếu vắng những thông tin tốt hơn những
thông tin trước đây thì giá cả quá khứ là căn cứ để đưa ra quyết định cho giá cả
ngày hôm nay. Vì vậy, việc bám vào những giá trị đã thiết lập gần như là sự gợi nhớ
- 12 -
về giá cả quá khứ. Bằng chứng điển hình cho lý thuyết này là trường phái phân tích
kỹ thuật, sử dụng giá cả quá khứ của chứng khoán để dự đoán xu hướng giá trong
tương lai.
I.2.2.4 Hành vi bầy đàn: (Herb Behavior)
Con người thường bị ảnh hưởng bởi môi trường xã hội đồng thời xã hội cũng có
sự ảnh hưởng hết sức to đến sự đánh giá hành vi của một cá nhân. Khi con người
đối diện với sự đánh giá của một nhóm người, họ thường có chiều hướng thay đổi
những câu trả lời sai lầm của họ so với ý kiến của đám đông. Đây là một hành vi
tâm lý.
Tâm lý bầy đàn (hay tâm lý đám đông) là một sự tồn tại khách quan trong bất cứ
một thị trường nào không riêng gì thị trường tài chính. Các bằng chứng xã hội mà
các nhà tâm lý học đưa ra từ các cuộc khảo sát hoàn toàn chứng minh được điều
đó.Chẳng hạn như thí nghiệm : Cho một người đứng ở một góc phố và nhìn lên bầu
trời trống không trong 60 giây. Một số người đi đường đã dừng lại để xem người
kia nhìn gì nhưng rồi đa số cũng bước qua. Lần tiếp theo, các nhà tâm lý học cho
năm người làm như vậy ở góc phố đó. Lần này số người dừng lại để quan sát đông
gấp 4 lần. Khi cho 15 người đứng ở góc phố đó, có tới 45% số người qua đường

dừng lại và khi tăng số người đứng ở góc phố thêm một lần nữa, có tới hơn 80%
người đi đường phải ngẩng đầu quan sát theo. Vì sao lại như vậy? Vì người ta cho
rằng nếu có nhiều người cùng nhìn lên bầu trời thì chắc chắn rằng trên bầu trời phải
có gì đó. Đó là lý do vì sao càng có đông người, đám đông càng dễ bị ảnh hưởng:
thêm một người là thêm một bằng chứng cho thấy có điều gì đó quan trọng đang
xảy ra. Họ tin tưởng rằng nếu càng có nhiều người cùng thực hiện một việc gì đó thì
việc đó nhất định đúng. Bằng chứng này cho thấy tất cả mọi người dường như là
nếu không biết điều gì đang diễn ra thì tốt hơn hết là nên bắt chước những gì người
khác đang làm.
Chừng nào lòng tham và sự sợ hãi còn ngự trị trong con người thì chừng ấy còn
tồn tại tâm lý đám đông. Nhưng khi đám đông hành động ngược lại với những điều
- 13 -
nhà đầu tư phân tích thì quyết định đúng đắn và khôn ngoan nhất là nhà đầu tư nên
rời bỏ khỏi đám đông đó. Thà từ bỏ một khoản lời tiềm năng còn hơn là mất một
khoản vốn trước mắt.
Nhưng ra quyết định chấp nhận bỏ lỡ một cơ hội kiếm tiền mười mươi là một
tâm lý vô cùng khó khăn. Một nghịch lý trong kinh doanh vẫn thường xảy ra: Bản
năng tự nhiên của con người và mong muốn được hòa nhập với đám đông lại là
những tình huống đưa các nhà đầu tư tài chính đến bờ vực phá sản.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tài chính học hành vi là một phân ngành kinh tế học, sử dụng các lý thuyết về
tâm lý hành vi để lý giải cho những bất thường xảy ra trên thị trường chứng khoán.
Thuyết kỳ vọng và tâm lý dựa vào kinh nghiệm là hai mảng chính của tài chính học
hành vi. Các nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực này là Daniel Kahneman va
Amos Tversky.
Mặc dù lý thuyết tài chính học hành vi không cung cấp cho các nhà đầu tư một
phương thức đầu tư kỳ diệu, nhưng lại có thể giúp cho họ cẩn trọng hơn đối với các
hành vi của mình và tránh được những suy nghĩ sai lầm khi đưa ra các quyết định
đầu tư tài chính.
- 14 -

CHƯƠNG 2
SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Ra đời vào ngày 20/07/2000, thị trường chứng khoán Việt Nam đến nay đã hơn
9 năm tuổi. Trong quá trình phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam, không
ngừng mở rộng quy mô và cải thiện về thể chế luật pháp để trở thành kênh huy
động vốn quan trọng phục vụ cho con đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước đồng thời là kênh đầu tư mới được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước quan
tâm, chú ý.
Tuy nhiên, cũng giống như các thị trường mới nổi khác, thị trường chứng khoán
Việt Nam đã trãi qua bao thăng trầm, chung quy lại có thể phân chia sự phát triển
của thị trường thành ba giai đoạn chính yếu sau:
2.1. Giai đoạn 2000 - 2005:
Ngày 10/07/1998 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 48/1998/NĐ-
CP về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán cùng với Quyết định thành lập hai
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK) tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Ngày 20/07/2000, TTGDCK Tp.HCM chính thức đi vào hoạt động, và thực hiện
phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 với 02 loại cổ phiếu niêm yết là REE
(Công ty Cổ phần Cơ Điện lạnh) và SAM (Công ty Cổ phần Cáp và Vật liệu viễn
thông) và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch.
Từ mức khởi đầu là 100 điểm, VN-Index đã nhanh chóng leo lên mức 570 điểm
vào giữa tháng 06/2001. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, chỉ số này đã trượt dốc
xuống còn 200 điểm vào đầu năm 2002 và tiếp tục tạo đáy 130 điểm vào tháng
4/2003. Sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian này
chẳng khác gì một ngôi sao băng, lóe sáng rồi vụt tắt.
- 15 -
Trong giai đoạn này hầu như có rất ít nhà đầu tư tổ chức, cá nhân biết đến hay
am hiểu nhiều về chứng khoán và cũng có rất ít các quỹ đầu tư trong và ngoài nước
được cấp phép và hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhưng theo
thời gian, sự quan tâm của nhà đầu tư đến thị trường chứng khoán ngày một nhiều.

Sự quan tâm này không hoàn toàn dựa trên nền tảng sự tăng trưởng của nền kinh tế
mà bắt nguồn từ suy nghĩ đơn thuần của những người lần đầu tham gia vào thị
trường chứng khoán rằng đây là nơi mà họ có thể thu được lợi nhuận kỳ vọng một
cách nhanh chóng, dễ dàng và đôi khi hơn cả sự mong đợi. Quan niệm “đầu tư
chứng khoán như chơi một canh bạc, may mắn thì thắng” và xem đây như là cách
nhanh nhất để trở nên giàu có, họ mua chứng khoán với mong muốn điều kỳ diệu ấy
sẽ xảy ra để họ nhanh chóng được đổi đời. Tâm lý này khiến cho nhu cầu mua
chứng khoán tăng cao trong khi lượng cung còn quá nhỏ và khan hiếm. Chính điều
này đã làm cho giá các loại cổ phiếu đang niêm yết trên sàn lúc bấy giờ tăng liên tục
trong nhiều tháng liền và vượt xa giá trị nội tại của nó.
Nhận thấy sự xuất hiện của “bong bóng tài chính” có thể sẽ là một trở ngại lớn
cho sự phát triển bền vững của thị trường, đồng thời cũng để nhằm hạn chế sự đầu
cơ quá mức trên thị trường, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã đưa ra một loạt các
biện pháp mạnh tay như: giảm biên độ giao dịch, quy định khối lượng giao dịch tối
đa cho mỗi loại chứng khoán…Mặc dù những chính sách này xuất phát từ mục đích
bảo vệ nhà đầu tư nhưng nó lại có những tác động hết sức tiêu cực đến thị trường
chứng khoán, ảnh hưởng đến tâm lý của nhà đầu tư và làm cho giá cổ phiếu giảm
mạnh. Từ cuối năm 2001, tâm lý nhà đầu tư hầu như bị tổn thương nghiêm trọng và
dẫn đến tình trạng thị trường dần rơi vào trạng thái “đóng băng”.
Cảnh chợ chiều này đã làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam trở nên chậm
phát triển. Thống kê cho thấy, đến cuối năm 2003 toàn thị trường mới chỉ có 73 loại
chứng khoán (trong đó có 21 mã cổ phiếu được niêm yết, 02 loại trái phiếu của
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam và 50 loại trái phiếu chính phủ) với tổng
mức vốn hóa chỉ khoảng 6.600 tỷ đồng, chiếm khoảng 1.6% GDP. Chỉ số này thực
sự quá nhỏ bé so với mức 20% - 30% GDP của các nước trong khu vực và nếu xét
- 16 -
về cơ cấu thì thị trường cổ phiếu hầu như bị lấn át bởi giao dịch của thị trường trái
phiếu.
Sự ảm đạm của thị trường còn được thể hiện ngay trong quy mô giao dịch, vì
trong khoảng thời gian kể từ khi thị trường được thành lập đến tháng 05/2003, khối

lượng giao dịch của toàn thị trường một ngày chưa đến 100.000 cổ phiếu (mặc dù
thị trường lúc này đã có 26 công ty được niêm yết). Tính thanh khoản thấp khiến
nhà đầu tư thực sự chán nản và mệt mỏi khi cần bán để thu hồi vốn, chứ mong gì
nghĩ đến chuyện sẽ hiện thực hóa lợi nhuận các khoản đầu tư của mình thị trường
chứng khoán.
Sau ba năm đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam mới chỉ có
14.500 tài khoản giao dịch chứng khoán được mở, trong đó chỉ có 90 nhà đầu tư tổ
chức và 35 nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước thì trong 14.500 tài khoản này thì chỉ có trên dưới 1.000 tài
khoản chứng khoán là có giao dịch thường xuyên.
Các thể chế tài chính trung gian vẫn còn quá ít ỏi. Tính đến cuối năm 2003, mới
chỉ có 13 Công ty Chứng khoán, 2 Công ty Quản lý Quỹ Đầu tư, 5 Ngân hàng lưu
ký và 1 một Ngân hàng chỉ định thanh toán là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam. Các Công ty Chứng khoán hoạt động chủ yếu là ở Tp.Hồ Chí Minh và Hà
Nội. Lúc này, nghiệp vụ môi giới là nghiệp vụ chủ yếu của các Công ty Chứng
khoán còn hoạt động của các nghiệp vụ khác (như bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu
tư…) hầu như còn rất hạn chế và nhỏ bé.
Sự yếu kém của thị trường chứng khoán còn thể hiện ngay trong chức năng cơ
bản của nó là huy động vốn. Và chính các doanh nghiệp niêm yết trên sàn trong giai
đoạn này cũng chưa có thói quen huy động vốn thông qua phát hành thêm cổ phiếu.
Theo thống kê, thì đến cuối năm 2003, mới chỉ có 5 công ty niêm yết phát hành
thêm cổ phiếu mới để huy động vốn mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng thêm vốn
điều lệ của doanh nghiệp.
Năm 2004 được đánh giá là thời gian giá cổ phiếu dần hồi phục sau giai đoạn
suy giảm trong các năm 2002 và 2003. Giao dịch cổ phiếu trên sàn có xu thế ổn
- 17 -
định hơn, các cổ phiếu hầu như không có biến động lớn. Chỉ số VN-Index ở mức
239,29 điểm (ngày 31/12/2004), tăng hơn 72 điểm so với cùng thời điểm này của
năm 2003 (166,94 điểm).
Tính đến cuối 2004, tổng số tài khoản của các nhà đầu tư mở tại các công ty

chứng khoán là 20.300 tài khoản. Điểm nổi bật là bên cạnh việc đầu tư cổ phiếu,
nhà đầu tư nước ngoài đã chuyển mạnh sang giao dịch trái phiếu (chiếm 48% tổng
giá trị giao dịch của những đối tượng này). Tính thanh khoản của thị trường cũng
được nâng lên. Khối lượng giao dịch tăng mạnh trong năm 2004 với tổng giá trị gần
20.000 tỷ đồng (bình quân 80 tỷ đồng/phiên), tăng 6,6 lần so với 2003. Các nhà đầu
tư có tổ chức đóng vai trò quan trọng đối với giao dịch chứng khoán trên thị trường
tập trung: tuy chỉ chiếm trên 1% về số lượng nhưng các nhà đầu tư có tổ chức lại
chiếm gần 39% tổng giá trị giao dịch của năm 2004.
Bước sang năm 2005, hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam đã có sự
khởi sắc hơn so với những năm trước đó, quy mô thị trường được mở rộng, lòng tin
của nhà đầu tư đối với thị trường được nâng lên, do tình hình sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp niêm yết có sự tăng trưởng cao cả về vốn, doanh thu và lợi
nhuận.
Bên cạnh đó, Nhà nước đã đẩy mạnh cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp lớn, tổ
chức đấu giá công khai qua Trung tâm Giao dịch chứng khoán nhiều doanh nghiệp
lớn của ngành điện lực như Nhà máy Thủy điện Vĩnh Sơn-Sông Hinh, Thủy điện
Thác Bà, Nhiệt điện Phả Lại, Điện lực Khánh Hòa... Các doanh nghiệp này đã làm
gia tăng đáng kể lượng hàng hóa cho thị trường chứng khoán.
Năm 2005 cũng là năm có nhiều thay đổi trong chính sách liên quan đến thị
trường chứng khoán theo hướng ngày càng hoàn thiện, nhất là đối với nhà đầu tư
nước ngoài. Cụ thể là đã nới lỏng tỷ lệ sở hữu từ 30% lên 49% đối với các nhà đầu
tư nước ngoài, cho phép các tập đoàn bảo hiểm như Prudential, Manulife và một số
tổ chức liên doanh thành lập công ty quản lý quỹ ở Việt Nam, cấp phép lưu ký cho
Tập đoàn CitiGroup, cho phép chuyển các xí nghiệp liên doanh thành công ty cổ
- 18 -
phần và một số doanh nghiệp này đang hoàn tất hồ sơ niêm yết trên Trung tâm giao
dịch chứng khoán.
Tóm lại: trong giai đoạn này, sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
vẫn còn ở giai đoạn khởi đầu được thể hiện ở những đặc điểm sau:
 Thị trường chứng khoán lúc này chưa chứng tỏ được vai trò của nó là kênh

huy động vốn quan trọng đáp ứng cho sự phát triển của đất nước.
 Công tác phổ cập kiến thức, thông tin về chứng khoán còn nhiều hạn chế
nên người dân còn tỏ ra xa lạ và với chứng khoán và thị trường chứng
khoán.
 Quy mô của các công ty niêm yết còn nhỏ bé, chưa thực sự hấp dẫn đối với
nhà đầu tư.
 Các doanh nghiệp niêm yết chưa đại diện cho tất cả các lĩnh vực quan trọng
trong nền kinh tế (chưa có công ty niêm yết nào hoạt động trong lĩnh vực
ngân hàng, bưu chính viễn thông, …) nên biến động của VN-Index chưa
thực sự là hàn thử biểu cho nền kinh tế.
 Một số Công ty sau khi niêm yết đã bộc lộ những yếu kém trong quản trị
kinh doanh, đầu tư không hiệu quả, ảnh hưởng niềm tin của giới đầu tư.
 Môi trường pháp lý cho sự phát triển của thị trường hãy còn nhiều khiếm
khuyết và khuyết điểm khi văn bản pháp quy cao nhất cho thị trường chỉ
mới dừng lại ở cấp nghị định. Luật chứng khoán vẫn chưa ra đời để tạo ra
một môi trường pháp lý ổn định, rõ ràng hơn trong lĩnh vực đầu tư chứng
khoán.
2.2 Giai đoạn 2006 - 2007:
Sau một thời gian dài đóng băng, thị trường chứng khoán Việt Nam chợt bùng
lên tăng trưởng mạnh mẽ từ cuối năm 2005. Lúc này, thị trường chứng khoán như là
một ma lực thu hút sự quan tâm của đông đảo nhà đầu tư. Từ các bà nội trợ, thay vì
lo chuyện chồng con bếp núc lại hằng ngày túc trực trên sàn; các bác hưu trí tranh
thủ tiền nhàn rỗi và thời gian để tham gia đầu tư sinh lợi; giới sinh viên thể hiện sự
- 19 -
nhạy bén và năng động bằng việc cùng nhau góp vốn tham gia đầu tư đến các công
nhân viên chức tranh thủ thời gian mỗi sáng đến công sở cũng ghé ngang sàn để đặt
lệnh. Thậm chí cả những anh xe ôm, chị bán bánh mì cũng bỏ nghề để trở thành
những môi giới chứng khoán OTC.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng, những thông tin về chứng khoán xuất
hiện một cách rộng rãi với tần suất ngày một nhiều và đi đâu cũng nghe người ta

bàn luận về chứng khoán, về cổ phiếu này cổ phiếu nọ. Ở Việt Nam, chưa bao giờ
đề tài về chứng khoán lại trở nên sôi động đến như vậy. Nó thật sự đã đi vào đời
sống thường nhật của người dân và cũng là câu chuyện, một đề tài nóng bỏng để họ
bàn bạc, trao đổi nhau mỗi khi gặp mặt.
Vào thời điểm này người ta tranh nhau mua chứng khoán với cùng suy nghĩ là
“mua là thắng, ai giữ cổ phiếu là tiên và là con đường để đổi đời nhanh chóng nhất”.
Với quan điểm đó, họ đã chen chúc, xô đẩy, tranh giành nhau để mong lệnh của
mình vào sàn sớm nhất để có cơ hội mua được cổ phiếu. Chưa bao giờ và chưa từng
có tiền lệ, cơn khát chứng khoán được đẩy lên cao trào đến như vậy. Lúc này, người
ta tranh nhau mua mà chẳng hề quan tâm đến việc công ty phát hành thêm cổ phiếu
để làm gì? Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty như thế nào? Họ chỉ thích
những công ty chia cổ tức bằng cổ phiếu vì việc nắm giữ thật nhiều cổ phiếu sẽ
khiến họ trở nên giàu có một cách nhanh chóng hơn.
Khi tất cả mọi người điều cùng chung một suy nghĩ thì sự thăng hoa nhanh
chóng của VN-Index cũng chẳng có gì là xa lạ. Cộng thêm vào đó là hàng loạt sự
kiện trọng đại của đất nước trong cùng giai đoạn này đã làm cho tâm lý của nhà đầu
tư càng trở nên phấn khích một cách cao độ hơn bao giờ hết như sự kiện ngày
07/11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) và chỉ vài ngày sau đó, ngày 19/11/2006, Việt Nam tổ chức
thành công hội nghị APEC lần thứ 14 đã đem đến cho nhà đầu tư một kỳ vọng cao
hơn và tốt đẹp hơn về sự phát triển kinh tế của đất nước. Nhưng cao trào hơn hết là
ngày 20/11/2006, Tổng thống Mỹ G.W.BUSH đến thăm Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh, gặp gỡ các nhà lãnh đạo hàng đầu tại Việt Nam
- 20 -
khiến thị trường như bùng nổ sự hưng phấn. Giá trị khớp lệnh của sàn Tp.Hồ Chí
Minh lập tức lần đầu tiên vượt ngưỡng 21 triệu USD/ngày ngay sau khi Tổng thống
Bush gõ chiêng mở cửa phiên giao dịch của thị trường.
Năm 2006, chỉ số VN-Index kết thúc ở mức 750 điểm và Việt Nam trở thành
quốc gia có tốc độ tăng trưởng thị trường chứng khoán nhanh nhất thế giới với mức
148%/năm. Cũng chính trong năm này, khi nhiều tỷ phú của Mỹ đến Việt Nam gặp

gỡ, tìm cơ hội hợp tác kinh doanh một số doanh nghiệp thì ngay lập tức giá cổ phiếu
của các công ty này phất lên nhanh chóng như “diều gặp gió”. Cộng thêm vào đó là
các sự kiện về các tập đoàn lớn trên thế giới như Microsoft, Intel…đang tìm cơ hội
đầu tư kinh doanh ở Việt Nam đã càng làm củng cố thêm vào kỳ vọng phát triển
mạnh mẽ của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Những thông tin về Việt Nam như: thành tựu tăng trưởng kinh tế của những năm
trước đó, là điểm đến đầu tư hấp dẫn, nhân công giá rẻ, môi trường chính trị ổn định
và an toàn vào bậc nhất của thế giới…cũng là nguyên nhân cộng hưởng thêm cho sự
bùng nổ tăng trưởng của thị trường chứng khoán từ cuối năm 2006.
Cơn sốt chứng khoán đã tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện
mạo hoàn toàn mới. Năm 2006, vốn hóa của thị trường đã chiếm khoảng 22% GDP,
cao hơn mức 6.5% của năm 2005. Trên cả hai sàn giao dịch, số lượng công ty niêm
yết đã tăng lên 193 công ty và số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán đã tăng lên
100.000 tài khoản. Trong đó, số lượng tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài đã lên
con số trên 1.000 tài khoản. Sự gia tăng này đã khiến cho tổng lượng vốn đầu tư
gián tiếp vào Việt Nam tăng mạnh. Theo ước tính đến cuối năm 2006, có khoảng
trên 1 tỷ USD được các nhà đầu tư nước ngoài đổ vào thị trường cổ phiếu. Số lượng
các thể chế tài chính trung gian cũng tăng lên nhanh chóng. Cuối năm 2006, số
lượng các công ty chứng khoán đã tăng lên con số 55 và 18 công ty quản lý quỹ,
cao hơn nhiều so với con số 14 và 06 của năm 2005.
Bước sang năm 2007, VN-Index tiếp tục lập kỷ lục mới khi hàn thử biểu đạt
đỉnh 1.170.67 điểm vào ngày 12/03/2007. Thị trường chứng khoán theo đó cũng
mang một tầm vóc lớn hơn trước. Cuối năm 2007, giá trị vốn hóa của toàn thị
- 21 -
trường đã lên đến 40% GDP (khoảng 30,7 tỷ USD) với 249 công ty niêm yết và
chứng chỉ quỹ trên cả hai sàn (HOSE: 138 và HASTC: 111).
Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán đã tăng lên con số hơn 330.000 tài
khoản và trong đó số lượng tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài là 7.000 tài khoản.
Tổng số tiền mà khối ngoại bỏ vào thị trường là khoảng 3 tỷ USD nhưng nếu tính cả
lượng tiền để dành cho các đợt IPO thì vào khoảng 7 tỷ đến 10 tỷ USD. Các định

chế tài chính trung gian tiếp tục gia tăng về số lượng khi toàn thị trường lúc này đã
có 74 công ty chứng khoán và 24 công ty quản lý quỹ. Cùng với sự gia tăng của chỉ
số VN-Index thì các công ty trên sàn cũng đã thành công lớn trong việc huy động
vốn thông qua thị trường chứng khoán. Theo số liệu thống kê của Ủy Ban Chứng
khoán Nhà nước thì tổng lượng vốn huy động thông qua thị trường chứng khoán
trong năm 2007 là hơn 63.000 tỷ đồng.
Tóm lại: giai đoạn 2006 – 2007 là giai đoạn đánh dấu sự bùng nổ tăng trưởng và
phát triển mạnh mẽ nhất của thị trường chứng khoán Việt Nam kể từ khi hình thành
cho đến nay.
2.3. Giai đoạn 2008 – đến nay:
Ngày 10/10/2007, VN-Index đạt mức 1.104 điểm. Nhiều nhà đầu tư kỳ vọng thị
trường chứng khoán Việt Nam có thể tái lập ngưỡng 1.170 được xác lập vào ngày
12/03/2007. Nhưng không ai ngờ rằng, phía trước chỗ họ đang đứng lại là một vực
sâu. Sau hai tuần giằng co ở mức 1.100 điểm, thị trường chứng khoán Việt Nam bắt
đầu trượt dốc từ ngày 25/10/2007 và liên tục xuyên thủng các ngưỡng hỗ trợ để lập
ra những đáy mới của thị trường, lúc này chỉ số thị trường chứng khoán Việt Nam
đã thay đổi 180
O
với những thành tựu đã tạo lập nên của một năm trước đó và đến
ngày 24/02/2009, chỉ số VN-Index xuống mốc 234 điểm. Đây là mức điểm thấp
nhất của chỉ số này trong gần 48 tháng kể từ ngày 01/03/2005. Lúc này, các nhà đầu
tư cảm thấy hụt hẫng và bàng hoàng trước sự sụt giảm quá nhanh và quá mạnh của
thị trường.

×