Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.39 KB, 24 trang )

THƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA MARKETING

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN HỌC PHẦN

“ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM”
Đề tài: Vai trị của thành phần kinh tế nhà nước trong 
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nhóm: 7
Lớp: 2063RLCP0111
Giảng viên hướng dẫn: ThS.Nguyễn Ngọc Diệp

Hà Nội, ngày 03 tháng 11 năm 2020


MỤC LỤC
I. Lời mở đầu

2

II. Nền kinh tế thị trường trước và sau đổi mới

2

2.1. Cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới

2

a. Khái niệm cơ chế quản lý kinh tế.


2

b. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp

3

c. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế

4

2.2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kỳ đổi mới

4

a. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII

4

b. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội XI.

7

2.3. Hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN

8

III. Vai trị của thành phần kinh tế nhà nước đối với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam

10


1. Đảm bảo tính định hướng XHCN trong việc xây dựng và phát triển KT­XH

10

2. Là địn bẩy để thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển

13

a. Các thành phần kinh tế trong thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

13

b. Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước đối với các thành phần kinh tế khác.

14

3. Thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo, dẫn dắt các thành phần 
kinh tế khác

15

4. Đóng vai trị hàng đầu trong việc khắc phục, hạn chế những khuyết tật của 
cơ chế thị trường

19

IV. Kết luận

21


Hệ thống ký hiệu viết tắt trong bài:

22

Nguồn tài liệu tham khảo

22


I. Lời mở đầu
Hiện nay nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát
triển theo định hướng XHCN, có sự quản lý của nhà nước. Có thể thấy vai trò của
thành phần kinh tế nhà nước nắm giữ một vị trí quan trọng và được chú ý. Thành phần
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế
quốc dân, là một trong những thành tựu to lớn của Đảng, nó đánh dấu một sự chuyển
biến trong nhận thức của Đảng và nhà nước về con đường đi lên CNXH. Vì vậy có thể
khẳng định vấn đề "Vai trị của thành phần kinh tế nhà nước" có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, giúp chúng ta nhận thức rõ vai trị của kinh tế nhà nước nói riêng và tầm quan
trọng của việc phát triển thành phần kinh tế nhà nước nói chung. Thực tế trải qua rất
nhiều năm đổi mới và phát triển, việc thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước đã giúp nền kinh tế đất nước bước đầu đạt
được những kết quả to lớn. Sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
không chỉ là một tất yếu khách quan mà nó cịn có vai trị hết sức to lớn đối với sự
nghiệp phát triển kinh tế cũng như xã hội của đất nước. Thơng qua sự lớn mạnh của nó
mà giữ vững định hướng XHCN đồng thời cải tổ nền kinh tế trên cơ sở tiềm lực nhà
nước vững chắc. Do đó việc nghiên cứu vai trị của thành phần kinh tế nhà nước là
việc vô cùng cần thiết và quan trọng.

II. Nền kinh tế thị trường trước và sau đổi mới

2.1. Cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới
a. Khái niệm cơ chế quản lý kinh tế. 
Bộ  máy quản lý nhà nước về  kinh tế  là hệ  thống tổ  chức bao gồm nhiều cơ
quan, nhiều bộ phận có những chức năng quyền hạn khác nhau nhằm bảo đảm tổ chức
và quản lý có hiệu quả các lĩnh vực kinh tế, các hoạt động kinh tế trong xã hội. 
“Cơ chế quản lý kinh tế là các quy tắc điều chỉnh các hành vi, hoạt động kinh tế
của các cá nhân và tổ chức kinh tế; là hệ thống các biện pháp, hình thức, cách thức tổ
chức, điều khiển nhằm duy trì các mối quan hệ  kinh tế  phát triển phù hợp với những
quy luật kinh tế khách quan theo mục tiêu đã xác định trong những điều kiện kinh tế
xã hội của từng giai đoạn phát triển.” 
Cơ chế quản lý kinh tế tác động sâu sắc đến hiệu quả phát triển của nền kinh tế
quốc dân; do vậy, hiệu quả  kinh tế  xã hội là một trong những tiêu chuẩn quan trọng
đánh giá tính đúng đắn của cơ chế quản lý kinh tế. Các cơ chế kinh tế gồm cơ chế kinh
tế thị trường, cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung và cơ chế kinh tế hỗn hợp. Cơ chế
quản lý kinh tế có thể được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau: trong hệ thống kinh tế
vĩ mơ tồn tại khái niệm cơ chế thị trường và cơ chế kế hoạch tập trung, cơ chế điều tiết
vĩ mơ; tầm vi mơ tồn tại cơ chế tự điều tiết,…

2


b. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp 
Cơ chế kế hoạch tập trung có đặc trưng cơ bản là mọi hoạt động kinh tế  xã hội
đều theo một kế hoạch thống nhất từ trung tâm, nhấn mạnh quan điểm hiện vật, khơng
coi trọng các quy luật kinh tế, xem nhẹ hạch tốn kinh doanh. Trong giai đoạn trước
đổi mới vào năm 1986, chúng ta thực hiện quản lý theo cơ chế tập trung đến mức quan
liêu. Nhà nước là người quản lý tất cả, nắm trong tay quyền “cho”, chi phối mọi vấn
đề trong hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội. Cơ chế này làm cho nền kinh tế trì
trệ  trong một thời gian dài, các doanh nghiệp khơng được tự  chủ, khơng năng động
sáng tạo. Theo đó:  

­

­

­
­

Về  chức năng quản lý: Khi đó, nhà nước can thiệp q sâu vào các lĩnh vực hoạt
động của nền kinh tế, tập trung trong tay mình 3 loại quyền là: quyền quản lý nhà
nước về  hành chính kinh tế, quyền của chủ  sở  hữu nhà nước đối với các doanh
nghiệp và quyền điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh  đối với các doanh
nghiệp.  
Về ngun tắc quản lý: thực hiện ngun tắc tập trung cao độ. Điều này dẫn đến tệ
nạn quan liêu, cửa quyền của nhà nước và tính thụ  động,  ỷ  lại, nạn hối lộ, móc
ngoặc của các đơn vị  kinh tế.  Về  hình thức quản lý: Đó là nền kinh tế  hiện vật
theo kiểu “cấp phát – giao nộp” bằng hiện vật các ngun liệu đầu vào và các sản
phẩm đầu ra. Thực hiện “cơ chế xin­cho” về tài chính.
Về phương pháp quản lý: dựa chủ yếu vào phương pháp mệnh lệnh hành chính   
Về cơng cụ quản lý: chủ yếu sử dụng cơng cụ kế hoạch pháp lệnh mang tính áp đặt
từ  trên xuống trong việc giao nhiệm vụ sản xuất – kinh doanh bằng hệ thống chỉ
tiêu kế hoạch pháp lệnh. Cũng chính vì những cơ chế trên nên sinh ra cơ chế “xin
– cho”. 
Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu: 

­

Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị  tài sản, thiết bị, vật tư, ­ hàng hóa
thấp hơn giá trị  trên thị  trường do đó hạch tốn kinh tế  chỉ  là hình thức. Bao cấp
qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ  phân phối ­ vật phẩm tiêu dùng
cho cán bộ, cơng nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu. Nó đã thủ tiêu

động lực kích thích người lao động và phá vỡ ngun tắc phân phối theo lao động. 

­

Bao cấp theo chế  độ  cấp phát vốn của ngân sách nhưng khơng có chế  ­ tài ràng
buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị cấp vốn; nó làm tăng gánh nặng ngân
sách, sử dụng vốn kém hiệu quả. 

Trong thời kỳ kinh tế cịn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này có
tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế  vào các mục
tiêu chủ  yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ  thể, đặc biệt trong q trình cơng
nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng. Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh
3


tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học ­ cơng nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người
lao động, khơng kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị  sản xuất, kinh
doanh. 
Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu
dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học — cơng nghệ hiện
tại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các
nước xã hội chủ nghĩa trước đây; trong đó có nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ, khủng
hoảng.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ  chế  thị  trường,
chúng ta xem kế  hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế  xã hội chủ
nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một cơng
cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Khơng thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh
tế nhiều thành phần trong thời kỳ q độ, lấy kinh tế quốc doanh, và tập thể là chủ yếu,
muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, tư nhân. Nền kinh tế rơi vào
tình trạng trì trệ, khủng hoảng.

c. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế 
Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thốt khỏi khủng hoảng kinh tế ­ xã
hội, chúng ta đã có những bước cải tiến theo hướng thị  trường, tuy nhiên cịn chưa
hồn thiện, triệt để. Đó là khốn sản phẩm trong nơng nghiệp theo chỉ thị 100­CT/TW
của Ban Bí thư Trung ương khóa IV; bù giá vào lương ở Long An; Nghị quyết TW 8
khóa V (1985) về giá – lương – tiền, thực hiện Nghị định 25 và Nghị định 26­CP của
Chính phủ… Tuy vậy, đó là những căn cứ thực tế để Đảng đi đến quyết định thay đổi
về cơ bản cơ chế quản lý. Đề cập đến sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại
hội VI khẳng định: "Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đơi với đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế. 
Cơ  chế  quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ  nhiều năm nay khơng tạo được
động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế  XHCN, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các
thành phần kinh tế khác kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả,
gây rối loạn trong phân phối lưu thơng, và đẻ  ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã
hội". Vậy nên việc đổi mới cơ  chế  quản lý kinh tế  trở  thành nhu cầu cần thiết và cấp
bách.
2.2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kỳ đổi mới
a. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII
So với thời kỳ  trước đổi mới, nhận thức về  kinh tế  thị  trường trong giai đoạn
này có sự thay đổi căn bản và sâu sắc, điều đó thể hiện ở việc Đảng ta thừa nhận kinh
tế nhiều thành phần, coi kinh tế đầu tư  như là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế,
khơng đối lập KTTT với CNXH. Thể hiện ở 3 nội dung sau:

4


Một là, kinh tế  thị  trường khơng phải là cái riêng có của chủ  nghĩa tư  bản mà là
thành tựu phát triển chung của nhân loại.
Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy, sản xuất và trao đổi hàng hóa là
tiền đề  quan trọng cho sự ra đời và phát triển của kinh tế  thị  trường. Trong q trình

sản xuất và trao đổi, các yếu tố thị trường như  cung, cầu, giá cả  có tác động điều tiết
q trình sản xuất hàng hóa, phân bổ các nguồn lực kinh tế và tài ngun thiên nhiên
như  vốn, tư  liệu sản xuất, sức lao động… phục vụ  cho sản xuất và lưu thơng. Thị
trường giữ vai trị là một cơng cụ phân bổ các nguồn lực kinh tế. Trong một nền kinh
tế, khi các nguồn lực kinh tế, được phân bổ bằng ngun tắc thị trường thì người ta gọi
đó là kinh tế thị trường.
Kinh tế  thị trường đã có mầm mống từ  trong xã hội nơ lệ, hình thành trong xã
hội phong kiến và phát triển cao trong xã hội tư  bản chủ nghĩa. Kinh tế  thị  trường và
kinh tế hàng hóa có cùng bản chất là đều nhằm sản xuất ra để bán, đều nhằm mục đích
giá trị và đều trao đổi thơng qua quan hệ hàng hóa ­ tiền tệ. Kinh tế hàng hóa và kinh
tế  thị  trường đều dựa trên cơ  sở  phân cơng lao động xã hội và các hình thức sở  hữu
khác nhau về  tư  liệu sản xuất, làm cho những người sản xuất vừa độc lập, vừa phụ
thuộc vào nhau. Trao đổi mua bán hàng hóa là phương thức giải quyết mâu thuẫn trên.
Tuy nhiên, kinh tế  hàng hóa và kinh tế  thị  trường có sự  khác nhau về  trình độ  phát
triển. Kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên, nhưng cịn ở trình độ thấp, chủ yếu là
sản xuất hàng hóa với quy mơ nhỏ bé, kỹ  thuật thủ cơng, năng suất thấp. Cịn kinh tế
thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển cao, đạt đến trình độ thị trường trở thành yếu
tố  quyết định sự  tồn tại hay khơng tồn tại của người sản xuất hàng hóa. Kinh tế  thị
trường lấy khoa học, cơng nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao.
Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng cho đến nay nó mới biểu hiện rõ
rệt nhất trong chủ nghĩa tư  bản. Nếu trước chủ nghĩa tư  bản, kinh tế  thị  trường cịn ở
thời kỳ manh nha, trình độ thấp thì trong chủ nghĩa tư bản nó đạt đến trình độ cao đến
mức chi phối tồn bộ  cuộc sống của con người trong xã hội đó. Điều đó khiến cho
khơng ít người nghĩ rằng, kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản khơng sản sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó, kinh tế thị  trường
với tư  cách là kinh tế  hàng hóa  ở  trình độ  cao khơng phải là sản phẩm riêng của chủ
nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Chỉ có thể chế kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa hay cách thức sử dụng kinh tế thị trường theo lợi nhuận tối đa
của chủ nghĩa tư bản mới là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản.
Hai là, kinh tế  thị  trường cịn tồn tại khách quan trong thời kỳ  q độ  lên chủ

nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương thức tổ
chức, vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết kinh tế  lấy cơ chế thị trường làm
5


cơ  sở  để  phân bổ  các nguồn lực kinh tế  và điều tiết tốt mối quan hệ  giữa người với
người. Kinh tế thị trường chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, chứ khơng đối
lập với các chế độ xã hội. Bản thân kinh tế thị trường khơng phải là đặc trưng bản chất
cho chế độ kinh tế cơ bản của xã hội. Là thành tựu chung của văn minh nhân loại, kinh
tế thị trường tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị
trường vừa có thể liên hệ với chế độ tư hữu, vừa có thể liên hệ với chế độ cơng hữu và
phục vụ cho chúng. Vì vậy, kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ q độ
lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường khơng phải là phát triển
tư bản chủ nghĩa hoặc đi theo con đường tư bản chủ nghĩa và tất nhiên, xây dựng kinh
tế xã hội chủ nghĩa cũng khơng dẫn đến phủ định kinh tế thị trường.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6­1991) trong khi khẳng định chủ  trương tiếp tục
xây dựng nền kinh tế  hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế  mạnh của các thành
phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân
thống nhất, đã đưa ra kết luận quan trọng rằng sản xuất hàng hóa khơng đối lập với
chủ  nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan và cần thiết cho xây dựng chủ  nghĩa xã hội.
Đại hội cũng xác định cơ chế vận hành của nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước” bằng pháp luật, kế  hoạch, chính sách và các cơng cụ  khác. Trong cơ
chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình
đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện; thị trường có vai trị trực
tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ  chức
sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; Nhà nước quản lý nền kinh tế  đế  định hướng, dẫn
dắt các thành phần kinh tế, tạo điều kiện và mơi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh
doanh theo cơ chế thị trường, kiểm sốt và xử lý các vi phạm trong hoạt động kinh tế,
bảo đảm hài hịa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội.

Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII của Đảng (tháng 6­1996) đề  ra nhiệm vụ
đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới tồn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, có thể  cần thiết sử  dụng kinh tế  thị  trường để  xây dựng chủ  nghĩa xã hội  ở
nước ta.
Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy thị trường làm phương tiện có tính cơ  sở  để  phân bổ  các
nguồn lực kinh tế, thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau:
­

Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh
doanh ­ lỗ, lãi tự chịu.
6


­

Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường

­

Phát triển đồng bộ và hồn hảo.

­

Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của kinh tế thị trường
như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.


­

Có hệ thống pháp quy kiện tồn và sự quản lý vĩ mơ của Nhà nước.

Với những đặc điểm trên, kinh tế thị trường có vai trị rất lớn đối với sự phát triển kinh
tế – xã hội.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận trong thời kỳ  q độ  lên chủ  nghĩa xã hội
cịn tồn tại sản xuất hàng hóa và cơ chế  trị trường nên chúng ta đã xem kế  hoạch đặc
trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ  nghĩa, đã thực hiện phân bổ  mọi nguồn
lực theo kế hoạch là chủ yếu. Cịn thị  trường chỉ được coi là một cơng cụ  thứ  yếu bổ
sung cho kế hoạch, đo đó khơng cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để  xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ có thể dùng cơ chế thị trường
làm cơ  sở  phân bổ  các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả  để  điều tiết chủng loại
và số lượng hàng hóa, điều hịa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thơng qua cơ
chế cạnh tranh, thúc đẩy cái tiến bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém.
Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tư bản khơng sinh ra kinh tế thị trường nhưng đã biết thừa
kế và khai thác có hiệu quả  các lợi thế  của kinh tế thị trường để  phát triển. Thực tiễn
đổi mới ở nước ta cũng đã chứng minh sự cần thiết và hiệu quả của việc sử dụng kinh
tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội.
b. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội XI.
Đại hội IX của Đảng (tháng 4­2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ q độ  đi lên
chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế  hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ  chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước
chuyển quan trọng từ  nhận thức kinh tế thị trường chỉ như một cơng cụ, một cơ  chế
quản lý, đến nhận thức coi kinh tế thị trường như một chính thể, là cơ sở kinh tế của sự
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X và XI đã làm sáng tỏ thêm nội dung

cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta,
thể hiện ở bốn tiêu chí là:
­

Về  mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ
nghĩa  ở  nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh” giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và khơng ngừng nâng cao đời sống
nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm
7


giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thốt nghèo và từng bước khá giả hơn.
Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải phóng lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống cho mọi người, mọi người
đều được hưởng những thành quả  phát triển,  ở đây thể  hiện sự  khác biệt với mục
đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản, bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa tư bản.
­

­

Về phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế  nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần
kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền,… phát huy tối đa nội lực để  phát
triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ
vai trị chủ đạo, là cơng cụ chủ yếu để  nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng
cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Để  giữ  vai trị chủ  đạo, kinh tế  nhà nước phải nắm được các vị  trí then chốt của
nền kinh tế  bằng trình độ  khoa học, cơng nghệ  tiên tiến, hiệu quả  sản xuất kinh
doanh cao chứ khơng phải dựa vào bao cấp, cơ chế xin – cho hay độc quyền kinh

doanh. Mặt khác, tiến lên chủ  nghĩa xã hội đặt ra u cầu nền kinh tế  phải được
dựa trên nền tảng của sở hữu tồn dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ
và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các
vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Hạn chế tác động tiêu cực của kinh
tế thị trường.
Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể  hiện qua chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, hệ thống an sinh xã hội,
phúc lợi xã hội. Đồng thời, để  huy động mọi nguồn lực kinh tế  cho sự phát triển
chúng ta cịn thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.

­

Về quản lý: Phát huy vai trị làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trị quản
lý, điều tiết nền kinh tế  của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa dưới sự  lãnh
đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa nhằm phát huy
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, đảm bảo quyền lợi chính
đáng của mọi người.

Từ Đại hội IX đến Đại hội XI, Đảng ta đã có nhiều bổ sung trong nhận thức về
kinh tế  thị  trường  ở  hồn cảnh mới, trong đó đặc biệt nhấn mạnh mục tiêu là vì con
người.
2.3. Hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
Hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là q trình
8


phát triển liên tục; kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân

loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế  quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ  vững độc lập, chủ  quyền quốc gia, an
ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội.
Hồn thiện thể chế kinh tế đi đơi với hồn thiện thể chế chính trị mà trọng tâm
là đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tổ  chức bộ máy và cán bộ. Có
bước đi phù hợp, vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm để  tiếp tục hồn
thiện. Xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trị, chức năng và mối quan hệ của Nhà
nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường; bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa; tăng cường và giữ vững vai trị lãnh đạo của Ðảng. Đối với chức năng phát
triển, cần phải thay đổi tư duy và cách thức quản lý theo kiểu “năng lực Nhà nước đến
đâu thì cho người dân và doanh nghiệp làm đến đó”, mà phải quản lý theo u cầu
phát triển, phục vụ  phát triển và vì phát triển. Đồng thời, phải sử  dụng các cơng cụ
chính sách, thể  chế  thúc đẩy và khuyến khích nâng cao hiệu quả  sử  dụng nguồn lực,
nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của sản phẩm, của ngành và của cả nền
kinh tế; qua đó, tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực, tăng năng suất lao động, khơng
tiếp tục giao chỉ tiêu tăng trưởng GDP hằng năm, thay vào đó bằng mục tiêu GDP/bình
qn đầu người vào thời điểm nhất định.
Về phân cấp và phân quyền giữa trung ương và địa phương, Chính phủ chủ yếu
tập trung dự báo và xử lý các vấn đề chiến lược, tập trung quản lý các cân đối lớn của
nền kinh tế; định hướng và thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế và tối ưu hóa phân bổ
sức sản xuất; khắc phục và chống đỡ  tác động của các cú sốc bên ngồi và tác động
mang tính chu kỳ về kinh tế; đưa kinh tế  phát triển bền vững, lành mạnh. Từng bước
giảm và tiến tới loại bỏ can thiệp trực tiếp của Chính phủ, chính quyền các cấp trong tổ
chức sản xuất, trong phân bổ tài ngun, thúc đẩy việc phân bổ tài ngun theo ngun
tắc thị  trường, giá cả  thị  trường, cạnh tranh thị  trường để  nâng cao hiệu quả  phân bổ
trong sử dụng các nguồn lực. Các cấp chính quyền địa phương chủ yếu tập trung thực
hiện chức năng cung cấp dịch vụ  xã hội, giải quyết các vấn đề  xã hội, thực thi luật
pháp, cải thiện mơi trường kinh doanh và bảo đảm an ninh trật tự  trên phạm vi địa
phương.
Về  phương thức quản lý nhà nước, cần thay đổi theo hướng quản trị  thay cho

quản lý, nghĩa là: quan hệ  giữa cơng chức, cơ  quan nhà nước và người dân, doanh
nghiệp là quan hệ  đối tác bình đẳng; người dân, doanh nghiệp, các tổ  chức xã hội là
khách hàng, là đối tác bình đẳng, cùng tham gia giải quyết các vấn đề  xã hội và phát
triển. Hoạt động của Nhà nước nên được đánh giá theo định hướng kết quả đầu ra, coi
người dân và doanh nghiệp là khách hàng, lấy thỏa mãn của khách hàng là thước đo
hiệu quả và hiệu lực hoạt động của Nhà nước. Năng lực bộ máy Nhà nước và phương
thức quản lý nhà nước phải phù hợp và đáp ứng u cầu phát triển.
9


Hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị. Ðổi mới phương thức,
nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát
huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị  và của tồn xã hội trong q trình hồn thiện
thể  chế  kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa.Về  lộ  trình, từng bước thực
hiện chắc chắn, hiệu quả  hồn thiện hệ  thống đổi mới sáng tạo quốc gia với DN là
trung tâm, khuyến khích sự sáng tạo của người dân, gắn kết chặt chẽ giữa viện nghiên
cứu, trường đại học với DN, dịch vụ cơng nhằm kiến tạo và tích lũy tài sản trí tuệ, tạo
ra nguồn lực mới cho tăng trưởng kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo, bao trùm và bền
vững. Về lâu dài, để thúc đẩy sự liên kết trong hệ thống DN Việt Nam cần hồn thiện
thể chế để tạo ra hệ sinh thái gắn kết một cách chặt chẽ về  lợi ích giữa hoạt động đổi
mới sáng tạo với hệ sinh thái khởi nghiệp, với các cơ quan nghiên cứu, các trường đại
học và người dân. Hệ thống thể chế gắn kết lợi ích giữa các chủ thể phải tạo ra những
véc­tơ  lợi ích cùng chiều, có tác động lan tỏa, cộng hưởng hướng tới điểm chung là
thúc đẩy sự  phát triển nền kinh tế  Việt Nam. Để  hiện thực hóa hệ  thống thể  chế  như
vậy, địi hỏi tầm nhìn và sự quyết tâm của hệ thống quản trị quốc gia, đồn kết và nhất
qn trong tổ chức thực hiện xun suốt từ Trung ương tới các địa phương.
Để  thúc đẩy đổi mới sáng tạo ngay trong bộ  máy quản trị  quốc gia, cần tập
trung phân định trách nhiệm một cách rõ ràng cho từng bộ phận trong hệ thống. Đi đơi
với việc phân định, cần tiếp tục hồn thiện các thể  chế cho sự bảo đảm phối hợp một

cách chặt chẽ trong thực thi bổn phận của các chủ thể trong hệ thống quản trị quốc gia.
Thể chế về phối hợp hiện là khâu hỏng nhất trong thực hiện chức năng của các chủ thể
quản trị  quốc gia, trước hết là trong hệ  thống các cơ  quan quản lý nhà nước và chính
quyền các cấp. Do đó, nội dung hồn thiện các thể chế phân cơng, phối hợp mang tính
minh bạch và chịu trách nhiệm trước xã hội, rõ về lợi ích và nghĩa vụ nên được xem là
khâu cần hồn thiện sớm. Sự khúc mắc về tổ chức thực hiện, sự đùn đẩy trách nhiệm,
sự lúng túng và rối trong thực hiện trách nhiệm quản trị quốc gia thường xuất phát từ
việc giải quyết quan hệ lợi ích thiếu rõ ràng. Cho nên, trong thời gian tới, vấn đề quan
hệ lợi ích giữa các chủ thể trong bộ máy quản trị quốc gia cũng cần phải được xem xét
nghiêm túc để thúc đẩy sự đổi mới sáng tạo một cách tự giác, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo ở Việt Nam

III. Vai trị của thành phần kinh tế nhà nước đối với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Đảm bảo tính định hướng XHCN trong việc xây dựng và phát triển KT­XH
Từ  Đại hội Đảng lần thứ  VI đến Đại hội Đảng lần thứ  XII, thể  chế  kinh tế  thị
trường định hướng xã hội chủ  nghĩa ngày càng được hồn thiện và được chứng minh
tính đúng đắn trên thực tế khi đã giúp đất nước ta thốt khỏi thời kỳ khó khăn về kinh
10


tế, đạt tốc độ  tăng trưởng có lúc thuộc nhóm cao nhất thế  giới. Từ  nước nghèo, thu
nhập thấp, Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình, hội nhập ngày
càng sâu rộng hơn với kinh tế thế giới. Tuy nhiên, trước u cầu đổi mới của nền kinh
tế  Việt Nam để  đạt tốc độ  tăng trưởng nhanh, bền vững, Đảng và Nhà nước đang
nghiên cứu, xem xét những vấn đề đặt ra để hồn thiện hơn thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong đó, vai trị kiến tạo của Nhà nước, vai
trị của doanh nghiệp nhà nước, vai trị của kinh tế tư nhân được nhìn nhận sẽ là những
trụ cột để tạo nên sức mạnh kinh tế cho quốc gia.
Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế, tạo

mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các cơng cụ, chính
sách và các nguồn lực của Nhà nước để  định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy
sản xuất kinh doanh và bảo vệ  mơi trường; thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trị làm chủ  của nhân dân trong
phát triển kinh tế­xã hội. KTTT có tính đa dạng và gắn liền với sự  phát triển của sản
xuất hàng hóa tại những quốc gia có những chế độ chính trị­xã hội khác nhau. “Quan
hệ  Nhà nước với thị  trường trong nền KTTT định hướng XHCN  ở  Việt Nam khơng
phải là quan hệ xung khắc, loại trừ  và kiềm chế  nhau”, mà là mối quan hệ  tương hỗ,
chế  định, cùng vận động và bổ  sung cho nhau trong một chỉnh thể và cùng hướng tới
mục tiêu chung là xây dựng một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng
và văn minh. Theo đó, một mặt, cần tơn trọng các ngun tắc và quy luật KTTT và các
cam kết hội nhập quốc tế nhằm tạo mơi trường và động lực cạnh tranh đầy đủ, minh
bạch, khai thác các nguồn lực và khơng ngừng nâng cao hiệu quả  đầu tư  xã hội. Mặt
khác, khơng tuyệt đối hóa vai trị của thị  trường, xem nhẹ  vai trị kiến tạo và điều
chỉnh theo tín hiệu thị trường, kiểm sốt an tồn vĩ mơ của Nhà nước. Một thị trường
hồn hảo, đồng bộ  khơng chỉ  giúp phát huy tính năng động, sáng tạo, trách nhiệm cá
nhân và sự  phân bổ  các nguồn lực cơng bằng, hiệu quả, mà cịn góp phần tạo áp lực
hồn thiện nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả, sự  minh bạch của các thể  chế  nhà
nước. Hơn nữa, hệ  thống thị  trường hồn hảo khơng thể  hình thành đồng bộ  và vận
hành đầy đủ, lành mạnh trong điều kiện một Nhà nước yếu kém, thiếu trong sạch. Đến
lượt mình, một Nhà nước vững mạnh là điều kiện và ln có tác động tích cực cho sự
phát triển đồng bộ, làm lành mạnh hóa các yếu tố  thị  trường và các loại thị  trường,
giúp khắc phục các thất bại, khuyết tật của thị  trường và  bảo đảm cơng bằng xã hội;
giảm tác động mặt trái của tính tự phát, sớm nhận diện, ngăn chặn và kiểm sốt khủng
hoảng, bảo đảm tăng trưởng bao trùm và hài hịa lợi ích theo u cầu phát triển bền
vững quốc gia và quốc tế…
Cần nhấn mạnh rằng, nếu như tính KTTT của nền kinh tế Việt Nam được thống
nhất khẳng định là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ
theo các quy luật và tn thủ  đúng quy trình của KTTT, thì tính định hướng XHCN
phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước lại được thể  hiện ở  mục tiêu "dân

11


giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh” và được bảo đảm bởi sự quản lý của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Sự kết hợp hiệu quả giữa tính KTTT và tính định hướng XHCN cũng chính là
đáp  ứng xu hướng mới mang tầm vóc thời đại, địi hỏi có sự  kết hợp tất yếu của bàn
tay thị  trường với bàn tay nhà nước trong một mơ hình quản lý xã hội mới đang dần
định hình trên thế giới, nhất là từ sau những cuộc khủng hoảng kinh tế­xã hội liên tiếp
xảy ra trong những thập niên cuối thế kỉ XX, đầu thế kỷ XXI trên quy mơ tồn thế giới
và trong bối cảnh tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Sự kết hợp
bàn tay thị  trường với bàn tay nhà nước là việc lựa chọn và kết hợp để  tạo hiệu  ứng
tổng hợp tích cực những điểm tốt của mỗi cách thức quản lý kinh tế, đồng thời góp
phần giảm những tác động mặt trái của chúng, tạo động lực mạnh mẽ, kiểm sốt chặt
chẽ  các rủi ro và nâng cao hiệu quả, chất lượng tăng trưởng, hài hịa các mục tiêu,
củng cố  định hướng và u cầu phát triển bền vững cả  về  kinh tế, xã hội và mơi
trường. 
Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta được hình thành và phát triển trên cơ
sở phát huy vai trị làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trị quản lý, điều tiết nền
kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo. Nhà nước ngày càng tăng
dần vai trị chủ  thể  quản lý và thu hẹp dần vai trị chủ  thể  về  kinh tế. Theo đó, Nhà
nước thực hiện quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự  phát triển kinh
tế­xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật
chất, bảo đảm cho thị trường phát triển, tn thủ  các quy luật của KTTT, tương thích
với thơng lệ của các nước; kiến tạo được mơi trường vĩ mơ; xây dựng kết cấu hạ tầng
cơ  sở  và bảo đảm an sinh xã hội; ban hành cơ  chế  chính sách về  phân bổ  nguồn lực,
phân phối và phân phối lại theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và
cơng bằng xã hội; bảo vệ mơi trường. Đồng thời, Nhà nước phải bảo đảm được vai trị
chủ  đạo của kinh tế  nhà nước, hồn thiện các cơng cụ  quản lý kinh tế  vĩ mơ, tăng
cường kỷ  luật kỷ  cương trong việc chấp hành các chính sách chế  độ, sử  dụng các

chương trình đầu tư  tín dụng để  tạo điều kiện và hướng dẫn sự  phát triển của các
ngành, các địa phương và các thành phần kinh tế.
Giải quyết quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong xây dựng nền KTTT định
hướng XHCN là một sự  nghiệp chưa có tiền lệ  trong lịch sử  và là một q trình mở,
địi hỏi sự sáng tạo và bản lĩnh cách mạng của Đảng, trên cơ sở nhận thức đầy đủ, tơn
trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của KTTT, thơng lệ quốc tế, phù
hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam.
*Những vấn đề lớn đang đặt ra
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang
xây dựng là một nền kinh tế mang tính đặc thù, phù hợp với điều kiện chính trị, kinh
tế, văn hóa của đất nước và những giá trị  XHCN mà chúng ta đang phấn đấu. Thế
12


nhưng, vấn đề  cần xem xét là liệu chúng ta có thể  nghiên cứu để  áp dụng nhiều hơn,
đầy đủ  hơn những quy luật, những giá trị  chung của thể  chế  kinh tế  thị  trường­một
thành tựu của nhân loại vào nền kinh tế của chúng ta, nhằm tạo thuận lợi sự phát triển
vừa nhanh hơn, vừa bền vững hơn hay khơng? Nếu thế thì cần phải có những điều kiện
nào kèm theo
Thứ  hai, định hướng của Đảng và Nhà nước và thực tiễn vừa qua đã chứng
minh rằng, để phát triển nền kinh tế Việt Nam khơng thể chỉ  dựa vào một thành phần
kinh tế  nào, mà cần phải khơi dậy được mọi tiềm năng, mọi nguồn lực của đất nước,
với một khát vọng chung là xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường. Để  hiện thực
hóa điều đó, cả  nước đang phát động một tinh thần khởi nghiệp với mục tiêu là tới
năm 2020, Việt Nam sẽ  có khoảng 1 triệu doanh nghiệp. Như  vậy, nịng cốt để  phát
triển kinh tế  Việt Nam, là chỗ  dựa bền vững cho kinh tế đất nước, phải chăng là mọi
thành phần kinh tế trong nước, bao gồm cả: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh
tế tư nhân? Như vậy, về định hướng vĩ mơ, liệu chúng ta cần có sự thay đổi nào khơng
để khơi dậy được mọi tiềm lực kinh tế của đất nước, tạo ra một sân chơi thực sự cơng
bằng, bình đẳng, trong thụ hưởng chính sách, được tiếp cận các nguồn lực và việc tn

thủ luật pháp
Thứ ba, với những biểu hiện lợi ích nhóm, biểu hiện của chủ nghĩa tư bản thân
hữu đang diễn ra trong nền kinh tế, cần phải có giải pháp gì để ngăn chặn, để bảo đảm
rằng những lợi ích từ  phát triển kinh tế  đất nước sẽ  khơng bị  một bộ  phận thiểu số
trong xã hội chiếm dụng, mà sẽ  được chia sẻ  cơng bằng; bảo đảm rằng sự  phát triển
của đất nước là sự phát triển có tính bao trùm chứ khơng q thiên lệch, tạo ra sự phân
biệt về giàu nghèo q lớn giữa các vùng miền, giữa các thành phần, đối tượng trong
xã hội.
Thứ tư, cần có chiến lược, cùng những giải pháp hữu hiệu như  thế nào để  việc
phát triển kinh tế của đất nước bảo đảm hài hịa hai yếu tố đó là: Phát triển “nhanh” và
“bền vững”. Đây là hai u cầu song hành. Bởi với một nền kinh tế  đang phát triển
như Việt Nam nếu khơng có giải pháp để đạt một tốc độ phát triển ở mức cao thì rất dễ
bị tụt hậu, rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Thế nhưng, việc phát triển nhanh về kinh
tế phải bảo đảm yếu tố bền vững, đó khơng phải là sự phát triển bằng mọi giá, đặc biệt
khơng phải là việc hy sinh mơi trường sống để phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế đất
nước khơng ngồi mục đích nào khác là để  bảo đảm cho mọi người dân có một cuộc
sống sung túc, hạnh phúc.
2. Là địn bẩy để thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển
a. Các thành phần kinh tế trong thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nhà nước: gồm nguồn lực nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Nguồn
lực nhà nước bao gồm tài ngun, đất đai, ngân sách nhà nước, các quỹ  dự  trữ  quốc
13


gia,... cùng với các cơng cụ, cơ  chế, chính sách được Nhà nước sử  dụng  để  định
hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội. Thành phần kinh tế
nhà nước vẫn ln là nội dung quan trọng của mơ hình kinh tế thị  trường định hướng
XHCN ở nước ta 
Kinh tế tập thể: bao gồm các tổ chức kinh tế được thành lập theo Luật Hợp tác
xã (HTX) trên cơ  sở  tự  nguyện góp vốn của những người sản xuất kinh doanh, tiêu

dùng, quyền sở hữu vốn thuộc về tập thể các thành viên tham gia góp vốn
Thành phần kinh tế cá thể thực chất là kinh tế tư nhân có quy mơ nhỏ, bao gồm
hộ  sản xuất kinh doanh cá thể, tiểu chủ  trực tiếp sản xuất kinh doanh, có th mướn
lao động nhưng chưa thành lập doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp (ví dụ như  các
trang trại, chủ thầu xây dựng loại nhỏ, chủ cửa hàng, xưởng sản xuất), các liên doanh
trong đó cá thể, tiểu chủ chiếm tỷ trọng vốn lớn
Kinh tế  tư  bản tư  nhân bao gồm những doanh nghiệp do các nhà đầu tư  trong
nước bỏ  vốn thành lập, th mướn lao động và hưởng lợi nhuận. Đó là những doanh
nghiệp đăng ký theo Luật Doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, cơng ty TNHH, cơng
ty cổ phần khơng có vốn nhà nước), liên doanh với thành phần kinh tế tập thể và tiểu
chủ trong đó thành phần kinh tế tư bản tư nhân chiếm nguồn vốn lớn nhất.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi bao gồm doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi
và các liên doanh với các doanh nghiệp trong nước mà nước ngồi chiếm tỷ trọng vốn
lớn nhất.
b. Vai trị của thành phần kinh tế nhà nước đối với các thành phần kinh tế khác.
Trong q trình phát triển kinh tế ở nước ta, kinh tế nhà nước từ chỗ là khu vực
kinh tế  gần như  độc nhất trong nền kinh tế  (bên cạnh cịn có kinh tế  tập thể) đã dần
chuyển sang giữ  vai trị chủ  đạo trong nền kinh tế  nhiều thành phần. Trong bối cảnh
chuyển sang nền kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa, Nhà nước đã tiến
hành nhiều biện pháp cải cách khu vực kinh tế nhà nước để khu vực kinh tế này có thể
bảo đảm được vai trị chủ  đạo giúp thúc đẩy sự  phát triển của các thành phần kinh tế
khác. 
Đối với thành phần kinh tế  tập thể: Giai đoạn trước những năm đổi mới, quan
niệm đơn giản về kinh tế tập thể và nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến hiện tượng
tập thể  hóa tràn lan, nhất là trong ngành nơng nghiệp. Tuy nhiên, sự  khơng hiệu quả
của mơ hình này đã ngày càng bộc lộ  rõ. Chính vì vậy mà kinh tế  nhà nước đã đóng
vai trị quan trọng trong việc giải thể hoặc chuyển đổi những loại hình kinh tế  tập thể
khơng phù hợp sang những loại hình kinh tế  khác phù hợp hơn. Ngồi ra thành phần
kinh tế nhà nước cịn thúc đẩy tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của
kinh tế tập thể, đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương

thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước có cơ chế, chính sách
14


hỗ  trợ  về  tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ  thuật, cơng
nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở
phát triển và phát huy vai trị của kinh tế hộ. 
Đối với thành phần kinh tế tư nhân. thành phần kinh tế nhà nước khơng ngừng
khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ  chức sản xuất
kinh  doanh.  Khơng chỉ   vậy  kinh  tế   nhà  nước  giúp  hồn thiện cơ   chế,  chính  sách
khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực
kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hồn thiện chính sách hỗ
trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. khuyến khích hình
thành các tập đồn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đồn kinh
tế nhà nước. 
Đối với thành phần kinh tế  có vốn đầu tư  nước ngồi, thành phần kinh tế  nhà
nước giúp nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngồi, chú trọng chuyển
giao cơng nghệ  , trình độ  quản lý tiên tiến và thị  trường tiêu thụ  sản phẩm, chủ  động
lựa chọn và có chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngồi có trình độ quản
lý và cơng nghệ  hiện đại. Giúp tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi với doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển cơng nghệ  hỗ  trợ  và cơng
nghiệp quy mơ lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và tồn cầu. 
Đối với kinh tế tư  nhân: Thành phần kinh tế  nhà nước giúp hồn thiện cơ  chế,
chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế  tư  nhân ở  hầu hết các
ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Khuyến
khích hình thành các tập đồn kinh tế  tư  nhân đa sở  hữu và tư  nhân góp vốn vào các
tập đồn kinh tế nhà nước.
Như  vậy thành phần kinh tế  nhà nước có vai trị to lớn khơng chỉ    trong nền
kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa Việt Nam mà cịn có vai trị đặc biệt
quan trọng trong việc thúc đẩy sự  phát triển của các thành phần kinh tế  khác. Từ  đó

cùng góp phần tạo nên sự phát triển đồng bộ kinh tế, văn hóa, chính trị và giáo dục của
nước ta. Do đó trong q trình định hướng đường lối phát triển của các thành phần
kinh tế  khác khơng thể  khơng gắn liền với thành phần kinh tế  nhà nước, lấy đó làm
tiền đề thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế khác một cách tồn diện hơn. 
3. Thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo, dẫn dắt các thành phần kinh
tế khác
Kinh tế nhà nước (KTNN) là một khái niệm dùng để chỉ khu vực kinh tế thuộc
sở  hữu của nhà nước, do nhà nước trực tiếp quản lý, điều hành và tổ  chức các hoạt
động sản xuất, kinh doanh thơng qua bộ máy đại diện là các cơ quan quản lý nhà nước.
Tuy nhiên, bản chất của KTNN trong các chế  độ  kinh tế  khác nhau là không giống
nhau. Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, KTNN thực chất là khu vực kinh tế của tập
15


thể  tư  bản độc quyền.  Ở  Việt Nam, KTNN thuộc sở  hữu tồn dân do Nhà nước đại
diện quản lý. Theo Ðiều 53 của Hiến pháp năm 2013: “Ðất đai, tài ngun nước, tài
ngun khống sản, nguồn lợi  ở vùng biển, vùng trời, tài ngun thiên nhiên khác và
các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản cơng thuộc sở hữu tồn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội, KTNN được hình thành bằng nhiều
con đường, như  nhà nước đầu tư  xây dựng mới, mua lại hoặc quốc hữu hóa khu vực
kinh tế  tư  nhân. Sự  ra đời của KTNN trong thời kỳ  q độ  lên CNXH là một tất yếu
khách quan, do bản chất của chế độ  xã hội mới ­ XHCN quy định. Chủ  nghĩa xã hội
phải được xây dựng dựa trên nền tảng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại và chế
độ cơng hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đại hội X của Đảng khẳng định vai trị chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN: “Kinh tế  nhà nước giữ  vai trị chủ  đạo, là lực lượng vật
chất quan trọng để  Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo mơi trường và
điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ  q độ  lên chủ  nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), do Đại hội XI của Đảng thơng qua, khẳng định “Phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở  hữu, nhiều
thành phần kinh tế, hình thức tổ  chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành
phần kinh tế  hoạt động theo pháp luật đều là bộ  phận hợp thành quan trọng của nền
kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Kinh tế nhà nước giữ  vai trị chủ  đạo. Kinh tế tập thể  khơng ngừng được củng
cố  và phát triển. Kinh tế  nhà nước cùng với kinh tế  tập thể  ngày càng trở  thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực
của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển”.
Điều 51 Hiến pháp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội
khóa XIII, kỳ  họp thứ  6 thơng qua ngày 28­11­2013, khẳng định: “Nền kinh tế  Việt
Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo”.
Nói đến vai trị chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế là nói đến tầm quan trọng
và tính chất quyết định của nó đối với đường hướng phát triển của một quốc gia; thành
phần KTNN nắm giữ  những vị  trí then chốt của nền kinh tế  và là lực lượng có khả
năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn, giúp đỡ, liên kết, tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế khác cùng phát triển.
Đại hội X cũng chỉ  rõ vai trị chủ  đạo của KTNN: một là, KTNN là lực lượng
vật chất giúp Nhà nước định hướng XHCN nền kinh tế quốc dân; hai là, KTNN là sức
16


mạnh đằng sau các chính sách điều tiết của Nhà nước; ba là, hoạt động của KTNN là
để  tạo mơi trường phát triển chung cho mọi thành phần kinh tế, chứ  khơng phải chỉ
cho riêng DNNN; bốn là, khẳng định lại một lần nữa KTNN rộng hơn DNNN, hay nói
cách khác, DNNN chỉ là một bộ phận của KTNN.
Khi đưa ra đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với
nhiều thành phần kinh tế, Đảng ta xác định các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước

pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó KTNN
đóng vai trị chủ đạo chứ khơng “lãnh đạo” đối với các thành phần kinh tế khác. Việc
khẳng định thành phần KTNN giữ vai trị chủ đạo khơng có nghĩa là phân biệt, đối xử
hay hạn chế  vai trị và sự  phát triển của các thành phần kinh tế  khác, mà các thành
phần kinh tế đều có mối quan hệ biện chứng với nhau, đan xen, liên kết với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau, thành phần kinh tế này làm tiền đề cho thành phần kinh tế khác
phát triển.
Như vậy, việc khẳng định vai trị chủ đạo của KTNN khơng có nghĩa là quay về
quan niệm cũ, coi việc phát triển sở hữu nhà nước là mục tiêu phát triển kinh tế, hoặc
cho rằng, muốn xây dựng chế độ mới, cần trước hết phát triển sở hữu nhà nước (cải tạo
quan hệ sản xuất), mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đối với nước ta, việc
chuyển đổi sang nền kinh tế  thị  trường địi hỏi khu vực tư  nhân cần phải được bình
đẳng phát triển và dần được khẳng định vị  trí, do vậy KTNN mặc dù vẫn giữ  vai trị
chủ đạo trong nền kinh tế nhưng phạm vi, mức độ  và hình thức cần có sự thay đổi cơ
bản. Kinh tế nhà nước chỉ cần duy trì và phát triển ở những nơi cần thiết, có vai trị hỗ
trợ, dẫn đường bảo đảm cho sự  phát triển  ổn định của xã hội; khu vực nào mà các
thành phần kinh tế  khác có thể  phát triển và hoạt động có hiệu quả  hơn thì sẽ  khơng
cần sự hiện diện của KTNN. Mặt khác, tính định hướng XHCN của nền kinh tế nước
ta ln địi hỏi phải xác định một số lĩnh vực trọng yếu thực hiện mục tiêu chính trị  ­
xã hội.
Bên cạnh đó, vai trị chủ đạo của KTNN cịn có những ý nghĩa sau đối với kinh tế
Việt Nam:
Thứ nhất, là đầu tàu, hướng dẫn, dẫn dắt các hình thức sở  hữu khác trong việc
phát triển các lĩnh vực đặc biệt, như các lĩnh vực cần nhiều vốn đầu tư, có hàm lượng
khoa học cao, một số lĩnh vực đặc biệt mới hình thành. Trong q trình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, ngày càng xuất hiện nhu cầu hình thành một số
lĩnh vực mới địi hỏi vốn đầu tư lớn, cơng nghệ cao mà tự nó rất khó phát triển. Trong
điều kiện các quan hệ  thị  trường mới được phát triển, khu vực tư  nhân cịn nhỏ  bé,
chưa có khả năng đầu tư lớn, khu vực sở hữu nhà nước tất yếu phải đảm nhận vai trị
đầu tàu, dẫn dắt trong những lĩnh vực mới này. Khi thực hiện vai trị này, khơng có

nghĩa là sở hữu nhà nước giữ vai trị thống trị độc quyền vĩnh viễn mà vai trị đầu tàu,
dẫn dắt thể hiện ở chỗ, khi các hình thức sở hữu khác đủ sức tham gia và có khả năng
17


tham gia có hiệu quả, Nhà nước kịp thời rút vốn ra khỏi lĩnh vực đã đầu tư, để tiếp tục
thực hiện vai trị của mình trong việc đầu tư vào những lĩnh vực mới khác.
Thứ hai, bảo đảm phát triển năng lực cạnh tranh của quốc gia. Do lịch sử phát
triển, KTNN đã đảm nhận một loạt ngành cạnh tranh. Khi khu vực tư  nhân chưa kịp
phát triển, Nhà nước phải trực tiếp tham gia và đầu tư  phát triển, hỗ  trợ  các DN đầu
đàn trong giai đoạn đầu. Khi khu vực tư nhân lớn mạnh dần, KTNN dần dần rút hoặc
chuyển đổi sở  hữu và về  lâu dài, KTNN có thể  khơng cần giữ  vai trị chủ  đạo ở  lĩnh
vực có lợi thế cạnh tranh.
Thứ ba, đối với an ninh quốc gia, KTNN thể hiện vai trị chủ đạo ở hai nội dung
cơ bản sau: 
­

Nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến quốc phịng, an ninh quốc
gia (sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị chun dùng cho quốc phịng, an ninh,...). 

­

Tham gia nắm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để  giữ  vững định hướng xã
hội, làm đối trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế (bán bn lương thực, xăng dầu;
sản xuất điện; khai thác khống sản quan trọng; một số sản phẩm cơ khí, điện tử,
cơng nghệ thơng tin quan trọng; bảo trì đường sắt, sân bay,...).

Thứ  tư, về  mặt xã hội, do bản chất về  mặt sở  hữu và mục đích hoạt động,
KTNN có vai trị quan trọng trong gánh vác chức năng xã hội. Vai trị này thể hiện ở
chỗ, KTNN phải đảm nhận những ngành  ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính

trị ­ xã hội mà tư nhân khơng muốn đầu tư, thực hiện sự bảo đảm cân bằng về  đầu tư
phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hóa cơng cộng thiết
yếu, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, các chương trình xóa đói, giảm nghèo,...
Thực tế vai trị của kinh tế nhà nước ở Việt Nam thời gian qua:
Ở  Việt Nam, KTNN ngày càng khẳng định vai trị, vị  thế  của mình trong các
thành phần kinh tế. Do bản chất và mục đích hoạt động, nên thành phần KTNN có vai
trị chính trị ­ xã hội to lớn. Các DN trong thành phần KTNN ln tiên phong trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đóng vai trị quan trọng trong một số
ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, như viễn thơng, than, điện, xăng dầu, khai
khống, tài chính, ngân hàng và các dịch vụ cơng thiết yếu bảo đảm nhu cầu tiêu dùng,
sản xuất trong nước và xuất khẩu.
Các DNNN vừa là chủ  thể  kinh doanh, vừa là lực lượng kinh tế  nịng cốt do
Nhà nước sử  dụng trong tác động tham gia các hoạt động kinh tế. Là chủ  thể  kinh
doanh, các DNNN phải thực hiện hạch tốn kinh tế, tự chủ về tài chính, hoạt động có
hiệu quả để bảo đảm q trình tái sản xuất mở rộng, bảo đảm gia tăng nguồn lực kinh
tế mà Nhà nước đã đầu tư cho các DN này. Là lực lượng tham gia các hoạt động kinh
tế như một cơng cụ của Nhà nước, các DNNN cần góp phần tạo ra sự ổn định kinh tế ­
xã hội, giúp Nhà nước đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.
18


Nhìn lại những năm qua, khi kinh tế  thế  giới suy thối, thiên tai, dịch bệnh
hồnh hành, nhờ  có sức mạnh của KTNN mà Việt Nam mới bảo đảm cân đối vĩ mơ,
các cân đối lớn của nền kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát, duy trì mức tăng trưởng
khá cao. Cùng với tăng trưởng kinh tế, thành phần KTNN cịn đóng góp tích cực vào
việc bảo đảm an sinh xã hội, phát triển các lĩnh vực y tế, giáo dục, tạo việc làm, xóa
đói, giảm nghèo, bảo đảm ổn định chính trị ­ xã hội, an ninh ­ quốc phịng, chủ quyền
quốc gia, góp phần nâng cao vị thế của đất nước ở khu vực và trên thế giới…
Theo kết quả chính thức Tổng điều tra kinh tế năm 2017 được Tổng cục Thống
kê cơng bố ngày 19­9­2018, tỷ  suất sinh lời trên doanh thu (tính bằng tổng lợi nhuận

trước thuế/tổng doanh thu) của doanh nghiệp nhà nước đạt 6,6%, trong khi tỷ suất này
ở khu vực có vốn đầu tư nước ngồi (FDI) là 6,7% và khu vực doanh nghiệp nhà nước
chỉ đạt 1,9%; số lượng doanh nghiệp nhà nước ít, nhưng thuế và các khoản đã nộp lại
cao nhất với trung bình 104 tỷ đồng/doanh nghiệp. Mức này được Tổng cục Thống kê
đánh giá cao hơn nhiều so với khu vực FDI với mức trung bình là 18 tỷ  đồng/doanh
nghiệp và ở các doanh nghiệp ngồi nhà nước là 1 tỷ đồng/doanh nghiệp.
Tuy nhiên, khi Nhà nước nắm trong tay một khối lượng sở  hữu khổng lồ  thì
chính những bất lợi (khuyết tật) của sở hữu nhà nước bắt nguồn từ đặc điểm của hình
thức sở  hữu này ngày càng bộc lộ  và tạo nên xu hướng làm giảm tính hiệu quả  của
thành phần kinh tế này, kéo theo sự sụt giảm hiệu quả của tồn bộ nền kinh tế. Chúng
ta đang cơ  cấu lại khu vực DNNN, theo đó tập trung vào những lĩnh vực then chốt,
thiết yếu, những địa bàn quan trọng và an ninh ­ quốc phịng, những lĩnh vực mà DN
thuộc các thành phần kinh tế khác khơng đầu tư. Doanh nghiệp nhà nước tiến tới phải
thật sự hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ
yếu; tự  chủ, tự  chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần
kinh tế khác theo quy định pháp luật.
Như vậy, có thể khẳng định việc xác định KTNN giữ vai trị chủ đạo trong nền kinh tế
thị  trường định hướng XHCN là đúng đắn, phù hợp với điều kiện của nước ta và là
tiêu chí quan trọng bảo đảm tính định hướng XHCN cho nền kinh tế.
4. Đóng vai trị hàng đầu trong việc khắc phục, hạn chế những khuyết tật của cơ 
chế thị trường
Quản lý nhà nước đúng đắn khơng phải là bất chấp cơ  chế  thị  trường, mà sử
dụng cơ  chế  thị  trường để  điều tiết sự  vận động của hàng, tiền, của các yếu tố  thị
trường, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực. Các chủ trương, chính sách kinh
tế và tổ  chức thực hiện chính sách của Nhà nước phải phù hợp với cơ chế  thị  trường,
mang lại lợi ích và cơng bằng xã hội, ổn định và tăng trưởng kinh tế một cách hợp lý,
ngăn ngừa tình trạng độc quyền, lạm dụng và nhân danh KTTT hay bàn tay nhà nước
để  can thiệp làm méo mó thị  trường, lệch lạc các nguồn lực và tổn hại lợi ích cộng
đồng, hạn chế  các hoạt động cạnh tranh khơng lành mạnh, mà những bất cập trong
19



quản lý đầu tư cơng và cả những dự án BOT giao thơng đang minh chứng cho những
điều đó.
Như vậy, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam khơng phải là cái khác biệt mà vẫn
là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật khách quan của kinh tế thị
trường” như quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị; thực hiện tự
do hố thương mại... Các ngun tắc, thơng lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh
tế được tn thủ và vận dụng một cách hợp lý, linh hoạt. Nhà nước quản lý, điều hành
nền kinh tế  bằng chiến lược, quy hoạch, kế  hoạch, chính sách, pháp luật và bằng cả
sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; thực hiện sự điều tiết ở tầm vĩ mơ,
“định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế; tạo mơi trường cạnh tranh bình
đẳng, minh bạch” bảo đảm cho thị trường phát triển lành mạnh, tn thủ  các quy luật
của kinh tế thị trường.
Ngoai ra, nền kinh tế thị trường phải hiện đại và hội nhập quốc tế. Nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam đã và đang thực hiện q trình hội nhập quốc tế, mở rộng và gia
tăng các mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm tranh thủ nhiều
cơ  hội hợp tác, giúp đỡ  về nhiều mặt từ  các nước, đặc biệt là các quốc gia phát triển;
chủ động và tích cực, nhanh chóng và hiệu quả, tận dụng tốt những thời cơ, vận hội,
phát huy tối đa các nguồn lực trong và ngồi nước cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế,
đồng thời có những biện pháp gia tăng khả năng dự phịng của nền kinh tế, ứng phó tốt
với những rủi ro, thách thức của tiến trình hội nhập.
Nhằm đáp  ứng u cầu hội nhập quốc tế, đồng thời phát huy hơn nữa vai trị
chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN  ở  Việt Nam, cần
thực hiện đồng bộ và quyết liệt một số giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh cơ  cấu lại DNNN. Căn cứ  chủ  trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và mục tiêu, nhiệm vụ  phát triển kinh tế ­ xã hội
trong từng thời kỳ, tiến hành rà sốt, xác định rõ số lượng và phạm vi ngành, lĩnh vực
có DNNN, doanh nghiệp có vốn nhà nước để xây dựng kế hoạch cơ cấu lại DNNN, cổ
phần hóa, thối vốn nhà nước.

Rà sốt, đánh giá tồn diện thực trạng và phân loại các DNNN, dự án, cơng trình đầu
tư và vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp để có giải pháp cơ cấu lại, xử lý phù hợp.
Kiên quyết xử lý dứt điểm các DNNN, các dự án đầu tư thua lỗ, kém hiệu quả. Làm rõ
trách nhiệm và xử lý nghiêm những vi phạm của các tổ chức, cá nhân liên quan để xảy
ra   tình   trạng   DNNN,   dự   án   đầu   tư   thua   lỗ,   thất   thốt,   lãng   phí   lớn.
Tn thủ pháp luật, tơn trọng cơ  chế  thị trường, thực hiện lộ trình cổ  phần hóa, thối
vốn nhà nước đã được cơ  quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Áp dụng các
phương pháp định giá tài sản tiên tiến phù hợp cơ chế thị trường; bảo đảm vốn, tài sản
của Nhà nước và giá trị  doanh nghiệp được định giá đầy đủ, hợp lý, cơng khai, minh
bạch. Hồn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu hình và tài sản vơ hình trong cổ
20


phần hóa theo cơ chế thị trường. 
Hai là, tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để  DNNN thật sự vận hành theo cơ
chế  thị trường. Doanh nghiệp nhà nước tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội
do Nhà nước giao thực hiện, theo cơ  chế  Nhà nước đặt hàng, lựa chọn cạnh tranh,
cơng khai và xác định rõ vốn, chi phí thực hiện, trách nhiệm và quyền lợi của Nhà
nước, DNNN để  bảo đảm khơng làm giảm hiệu quả kinh doanh của DNNN. Quan hệ
kinh tế, tài chính giữa Nhà nước và DNNN, nhất là các quyền và nghĩa vụ  phải được
thực hiện đầy đủ, minh bạch theo quy định của pháp luật và phù hợp với cơ  chế  thị
trường.
Xóa bỏ các chính sách can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp dành cho DNNN, tình
trạng đối xử  bất bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế  khác,
nhất là trong q trình tiếp cận các nguồn lực nhà nước, tín dụng, đất đai, tài ngun,
cơ hội đầu tư, kinh doanh, tài chính, thuế…
Ba là, đổi mới, nâng cao hiệu quả  hệ  thống quản trị  và năng lực, phẩm chất của đội
ngũ cán bộ quản lý DNNN.
Củng cố, phát triển một số tập đồn kinh tế nhà nước đa sở  hữu với quy mơ lớn, hoạt
động hiệu quả, có khả  năng cạnh tranh khu vực và quốc tế   ở  một số  ngành, lĩnh vực

then chốt của nền kinh tế trên cơ sở hồn thiện mơ hình tập đồn kinh tế nhà nước theo
thơng lệ quốc tế. Kiên quyết đấu tranh và thiết lập các hệ thống quản trị, kiểm sốt nội
bộ  có hiệu quả  trong việc phịng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử  lý các hành vi vi
phạm pháp luật, xung đột lợi ích. Xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
các chức danh quản lý trong hệ  thống quản trị, điều hành và tác nghiệp của DNNN;
bảo đảm trách nhiệm đi đơi với quyền hạn. Nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện, trách
nhiệm của thành viên độc lập trong hội đồng quản trị.
Hồn thiện các hệ thống khuyến khích, địn bẩy kinh tế đi đơi với việc nâng cao trách
nhiệm, kỷ  luật, kỷ  cương, tính cơng khai, minh bạch và giải trình của DNNN. Thực
hiện cơ  chế  tiền lương, tiền thưởng, thù lao của người lao động và người quản lý
DNNN phù hợp với cơ chế thị trường. Thực hiện tách người quản lý DNNN khỏi chế
độ  viên chức, cơng chức. Triển khai rộng rãi cơ  chế  tuyển dụng, bổ  nhiệm qua thi
tuyển cạnh tranh, cơng khai, minh bạch đối với tất cả các chức danh quản lý, điều hành
và các vị trí cơng việc khác trong doanh nghiệp.
Bốn là, nâng cao năng lực, hiệu quả  quản lý của Nhà nước đối với DNNN.
Hồn thiện chức năng quản lý của Nhà nước đối với DNNN. Rà sốt, hồn thiện hệ
thống luật pháp, cơ chế, chính sách về DNNN. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả
cơng tác tranh tra, kiểm tra, kiểm tốn, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước đối với
DNNN. Tăng cường cơng tác chỉ  đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế  hoạch,
phương án cổ phần hóa, thối vốn nhà nước đã được phê duyệt. 
21


Hồn thiện tổ chức để thực hiện chức năng Nhà nước là chủ sở hữu đối với DNNN, cổ
phần, góp vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp. Nhà nước thực hiện đầy đủ trách nhiệm
của chủ sở hữu đối với DNNN, cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp. Bảo
đảm quyền tự  chủ  trong hoạt động của DNNN theo ngun tắc thị  trường. Tơn trọng
tính độc lập trong việc thực hiện quyền và trách nhiệm của hội đồng thành viên, hội
đồng quản trị, chủ tịch hội đồng thành viên, tổng giám đốc, ban điều hành DNNN để
hoạt động và quản trị  của DNNN thực hiện một cách minh bạch, giải trình, chun

nghiệp, hiệu quả cao. 

IV. Kết luận
Có thể thấy, thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trị vơ cùng quan trọng trong
việc xây dựng hình thái, kinh tế xã hội mới. Nó đóng vai trị chủ chốt, vừa là hạt nhân
của quan hệ sản xuất mới đồng thời là một công cụ có sức mạnh vật chất để nhà nước
điều tiết, hướng dẫn nền kinh tế nhiều thành phần phát triển đúng hướng. Ngồi ra
thành phần kinh tế nhà nước cịn góp phần củng cố mối quan hệ liên minh cơng - nơng
- trí thức trong cơ chế mới theo đường lối của Đảng. Từ đó, tạo cơng ăn việc làm cho
người lao động, tăng thu nhập cho đời sống nhân dân, thực hiện cơng nghiệp hố, hiện
đại hố phát triển đất nước. Bên cạnh đó, cũng sẽ góp phần tiếp cận với những tiến bộ
khoa học kỹ thuật sản xuất, kinh doanh hiện đang là những mặt yếu kém của doanh
nghiệp vừa và nhỏ, nhất là vùng sâu vùng xa, tạo điều kiện để hạn chế khoảng cách
giàu nghèo giữa thành thị và nơng thơn nói chung, trên từng vùng, từng địa bàn dân cư
nói riêng. Tóm lại, vai trị và vị trí then chốt của kinh tế nhà nước phải nhằm đạt được
những mục tiêu yêu cầu như trên để thúc đẩy phát triển đời sống kinh tế- xã hội, nâng
cao sức cạnh tranh và hiệu quả trên thị trường nội địa, trong quan hệ kinh tế khu vực
quốc tế.

Hệ thống ký hiệu viết tắt trong bài:
1. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
2. CNXH: Chủ nghĩa xã hội
3. KTTT: Kinh tế thị trường
4. DN: Doanh nghiệp
5. KT­XH: Kinh tế ­ Xã hội
6. KTNN: Kinh tế nhà nước

Nguồn tài liệu tham khảo
1. Giáo trình đường lối Đảng Cộng Sản Việt Nam
2. />dinh­huong­xa­hoi­chu­nghia­­­nhung­van­de­tu­thuc­tien­phan­1.html

22


3. />h_huong_xa_hoi_chu_nghia_o_Viet_Nam_Nhan_thuc_va_nhung_vanall.html
4. />diem/­/asset_publisher/s5L7xhQiJeKe/content/hoan­thien­the­che­thuc­ay­phat­
trien­kinh­te­dua­tren­oi­moi­sang­tao­o­viet­nam
5. />c­trong­nen­kinh­te­thi­truong­dinh­huong­xa­hoi­chu­nghia­112970
6. />7. />dich/chi­tiet/­/asset_publisher/YqSB2JpnYto9/content/ve­vai­tro­chu­dao­cua­
kinh­te­nha­nuoc
8. />nuoc­trong­nen­kinh­te­thi­truong­dinh­huong­xa­hoi­chu­nghia­112970

23



×