Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.42 KB, 20 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm

Một số biện pháp đổi mới
công tác dạy và phụ đạo học
sinh yếu

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

1


PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
I . LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp thu tri
thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn
hiện nay.
Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là tổ chức các hoạt động học tập tích
cực cho người học. Từ đó khơi dậy và thúc đẩy lịng ham muốn, phát triển nhu
cầu tìm tịi, khám phá, từ đó phát huy khả năng tự học của họ. Trước vấn đề đó,
người giáo viên khơng ngừng tìm tịi, khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động,
vận dụng, sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng
kiểu bài, từng đối tượng học sinh, xây dựng cho học sinh hướng phát huy chủ
động, sáng tạo
Trong những năm qua, một thực trạng là càng ngày tính đa dạng về trình độ học
sinh trong các lớp càng tăng. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh
khai thác tối đa bài giảng của thầy, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự
khác biệt về: khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ… so với
những học sinh khác. Cần xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn
có của các em để tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối


đa, tránh cho các em bị rơi vào những khó khăn thường trực trong học tập. Đó
chính là điều mà bản thân muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng
nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh yếu.
Vấn đề học sinh yếu hiện nay ln được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để
khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển tồn diện thì
người giáo viên khơng những chỉ biết dạy mà cịn phải biết tìm tịi phương pháp
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu. Vấn
đề nêu trên cũng là khó khăn với khơng ít giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết
được điều này là góp phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong
cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới
trong việc lĩnh hội kiến thức.

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

2


Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu không chỉ là
trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặc khác, nếu quan
tâm đến việc phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp,
cơng tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của cơng tác
phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương. Những năm qua, được sự quan tâm sâu
sát của ngành, chính quyền địa phương, của ban giám hiệu nhà trường và ban đại
diện cha mẹ học sinh và đặc biệt là sự nỗ lực không ngừng của tập thể thầy cô
trường Tiểu học Trung Sơn số 2 thì nhà trường ln là một trong những trường
đứng đầu trong toàn huyện về chất lượng giáo dục, công tác PCGDTH-XMC và
PCTHCS ở địa phương đã đạt chuẩn và duy trì tốt
Với những lí do trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi
giảng dạy, bản thân luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ học sinh yếu. Đây sẽ
là nền tảng, là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được trau dồi tri

thức và tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình.

Từ những suy nghĩ trên, bản thân đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp
đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu” để tiếp tục áp dụng vào thực tế
lớp 2 nói riêng và học sinh trường Tiểu học Trung Sơn số 2 nói chung.
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
1. Mục đích :
Qua những năm trực tiếp giảng dạy, bản thân cũng nắm bắt và thấu hiểu được
tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học. Nếu các em được sống trong sự u thương,
chăm sóc, quan tâm của gia đình, thầy cơ và có một mơi trường học tập tốt thì các
em sẽ ham thích, say mê và nỗ lực trong học tập. Điều này có tác động rất lớn
đến các em là học sinh yếu, giúp các em tự tin hơn trong việc học của mình. Việc
phụ đạo học sinh yếu hay nói khác hơn, để nâng cao chất lượng giáo dục khơng
chỉ là trách nhiệm của nhà trường, gia đình mà là của tồn xã hội. Vì vậy, đây là
động lực để những ai đang làm công việc “trồng người” ln cố gắng tìm ra được
những tồn tại và ngun nhân làm cho chất lượng phụ đạo học sinh yếu chưa đạt

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

3


hiệu quả cao. Và từ đó sẽ có những biện pháp khắc phục phù hợp. Đây cũng
chính là mục đích của đề tài này.
2. Nhiệm vụ:
- Khảo sát tình hình học yếu của học sinh khối 2 hiện nay
- Tiếp cận với học sinh, các thầy cô trong khối, các bậc phụ huynh học sinh để
tìm ra những biện pháp có hiệu quả nhất trong việc phụ đạo học sinh yếu.
- Rút ra kết luận và những kinh nghiệm để giải quyết một số khó khăn (nếu có)
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục

III . PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Đọc tài liệu liên quan đến đề tài.
- Thực nghiệm sư phạm.
-

Tổng kết kinh nghiệm

IV . ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1 Khách thể nghiên cứu:
Giáo viên, học sinh Khối Hai và phụ huynh học sinh.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Là học sinh lớp 2 trường tiểu học Trung Sơn số 2
Tổng số 23 em: Tất cả 23 đều có tính cách . Trong đó có 16 em nữ và 7 em
nam, đa số các em có cùng lứa tuổi tập trung ở thơn Võ Xá – Trung Sơn.
V. PHẠM VI ĐỀ TÀI:
- Qua tìm hiểu sơ bộ từ những phụ huynh học sinh , học hỏi những kinh nghiệm
quý báu của các anh chị em đồng nghiệp.
- Nghiên cứu thực trạng học sinh trong lớp.
PHẦN II: NỘI DUNG
I . CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận
- Việc HS học yếu là vấn đề đau đầu từ các cấp lãnh đạo cho đến giáo viên dạy
lớp, nhiều giáo viên mất ăn mất ngủ để tìm được những giải pháp có thể giúp một
HS yếu tiến bộ. Và cũng khơng có gì vui hơn khi nhìn thấy HS mình học tập
ngày càng tiến bộ.

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

4



- Qua nghiên cứu từ thực tiển và kinh nghiệm dạy học của giáo viên thời gian
qua. Chúng ta tạm thời định nghĩa HS yếu như sau:
*Thế nào là HS yếu?: Là những HS bằng kiến thức, kĩ năng, kinh
nghiệm của bản thân mình, dưới sự hướng dẫn của giáo viên không tự giải quyết
được những mâu thuẩn trước mắt để tự chiếm lĩnh tri thức của bài học, hoặc bị
hụt hẫng, chậm chạp trong vận dụng các kiến thức kĩ năng cơ bản phải có ở HS
để giải quyết một bài tập hay một yêu cầu được đặt ra trong quá trình dạy và học
2. Cơ sở thực tiễn :
a . Thuận lợi
Đối với học sinh lớp 2 là lớp bắt đầu tập tự thân mình làm mọi hành động của
bậc tiểu học nên ý thức, động cơ học tập của các em tương đối cao
Học sinh lớp 2 có thể tiếp nhận sự giúp đỡ trong học tập từ nhiều phía. Trong
đó, bạn học với vai trị “ Đôi bạn cùng tiến” đã giúp các em học sinh yếu giảm
bớt phần nào khó khăn trong học tập
Đội ngũ giáo viên khối nhiệt tình, thân thiện ln quan tâm đến từng đối tượng
học sinh đặc biệt là học sinh yếu. Sự quan tâm, phối hợp của Ban Giám Hiệu và
Đoàn thể nhà trường.
Hiện nay, việc thực hiện đổi mới cơng tác dạy và học theo hướng khốn nội
dung chương trình cho phép giáo viên chủ động thời lượng trong từng phân mơn,
từng bài học. Vì vậy, việc giúp đỡ các em trên lớp dễ dàng hơn, chủ động hơn
b. Khó khăn;
Như đã nêu, đối tượng học sinh yếu có những khác biệt. Và hơn thế nữa, trong
từng cá nhân của đối tượng này cũng là sự khác biệt về phong cách nhận thức.Vì
vậy, mỗi dạng đối tượng cần có sự tác động khác nhau.
Theo qui định về đánh giá xếp loại học sinh hiện nay, một môn học xếp loại yếu
khi điểm học lực môn dưới 5. Nhưng trong thực tế, những học sinh yếu mơn
Tốn, Tiếng Việt thì những môn học khác cũng bị ảnh hưởng. Điều này địi hỏi
sự nỗ lực kiên trì của thầy và trị rất cao


Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

5


Đối tượng học sinh yếu thường là những em có hồn cảnh khó khăn về kinh tế,
cha mẹ ly hơn, cuộc sống khơng ổn định hoặc là gia đình người đồng bào dân tộc
thiểu số, ít quan tâm đến việc học tiếng Việt.
Ngoài ra, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục.
- Đội ngũ giáo viên
- Cơ sở vật chất
Trường ln đứng trước khó khăn về cơ sở vật chất. Trước những thách thức
đó địi hỏi người thầy phải nỗ lực bản thân, kiên trì, bền bỉ cùng nhà trường khắc
phục khó khăn và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục.
II. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH: :
Ngay từ đầu năm học, khi bắt đầu nhận lớp, tôi đã tiến hành
khảo sát chất lượng học của các em, cụ thể như sau ::
- Học giỏi:

6 em

- Học khá:

7 em

- Học trung bình:

5 em

- Học yếu:


5 em

Căn cứ vào kết quả khảo sát, tôi nhận thấy chất lượng đọc của
lớp còn thấp. Qua tìm hiểu, tôi đã nắm được một số nguyên nhân
sau :
* Ngun nhân dẫn đến học sinh yếu .
a. Về phía học sinh: Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức thì
nguyên nhân học sinh yếu có thể là do:
Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân nhận thấy rằng các em học
sinh yếu là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc
học, về nhà thì khơng xem bài, khơng chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách
đến trường. Cịn một bộ phận nhỏ thì các em khơng xác định được mục đích của
việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào
những nội dung đã học sau đó về nhà lấy tập ra “ học vẹt” mà khơng hiểu được
nội dung đó nói lên điều gì. Học sinh khơng có thời gian cho việc tự học: Ở một
số vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người thì ngồi

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

6


thời gian học trên lớp, khi ở nhà các em phải phụ giúp gia đình việc đồng áng,
chăn trâu, chăn bò.
Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều khơng thể phủ nhận với
chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến một phần lỗi của
giáo viên là chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh
b . Về phía giáo viên: Ngun nhân học sinh học yếu khơng phải hồn tồn là ở
học sinh mà một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì

mới có trị giỏi. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong cơng tác giảng dạy thì địi
hỏi giáo viên phải khơng ngừng học tập nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ.
Tuy nhiên, ở đây khơng phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp
giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà ở đây giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy
học nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và với từng nội dung kiến thức.
Qua q trình cơng tác bản thân nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên
chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. Chưa
tìm tịi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của
học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hồn cảnh gia đình của từng học
sinh. Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu mà bản
thân nhận thấy trong q trình cơng tác. Qua việc phân tích những ngun nhân
đó, bản thân đưa ra một số biện pháp để giáo dục, phụ đạo học sinh yếu. Trong
phạm vi của bài viết, bản thân chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh yếu ở
hai mơn cơng cụ: Tốn và Tiếng Việt.
III. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
a. Những biện pháp chung
+ Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện
Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả
cao. Thơng qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm
giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong
cuộc sống của bản thân mình

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

7


Giáo viên ln tạo cho bầu khơng khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh
mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy
sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương u và tơn trọng mình

Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích
cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những
việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Hoặc có
thể dùng các phiếu thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc làm của các
em như: “Biết giúp đỡ người khác”, “ Thái độ nhiệt tình và tích cực”
+ Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh
Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm
vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và
riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém,
khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát
Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong
cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng
của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua
đặc trưng này.
Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm
tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. Ví dụ
khi học bài: Một phần 2 (Tốn–lớp 2), đối với các em học sinh yếu thì các em chỉ
cần nắm mục tiêu thứ nhất: “ Nhận biết 1/2” là đạt yêu cầu rồi.
Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho
đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các
em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích
thực của mình trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các em
này có thể hồn thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em.
Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện
pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1
đến 2 buổi trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

8



hình thức vui chơi nhằm lơi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải,
nặng nề..
+ Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:
Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú
trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy
giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng
và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và
say mê khám phá tìm tịi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hồn cảnh gia
đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trị
chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên
trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời,
giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện
nay, có một số phụ huynh ln gị ép việc học của con em mình, sự áp đặt và quá
tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Bản thân giáo viên cần phân tích để các bậc
phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình,
thầy cơ sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.
+ Kèm cặp học sinh yếu
Ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh
yếu là bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo. Như lớp 2 mà bản thân chủ nhiệm, sau
khi thi khảo sát chất lượng đầu năm thì có 5 học sinh yếu và bản thân đã lên kế
hoạch phụ đạo cho các em.
Lập danh sách học sinh yếu (theo mẫu dưới đây) và chú ý quan tâm đặc biệt
đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên
trả lời câu hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng,…
DANH SÁCH HỌC SINH YẾU LỚP …

STT


Họ và tên TIẾNGVIỆT

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

TỐN

Con
ơng

Nơi ở

9


(bà)
Đọc

Viết

Khơng

Tính

yếu

yếu

biết tính


yếu

1
2


Chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học của học sinh, cùng với phụ huynh
tìm biện pháp khắc phục.
b. Những biện pháp cụ thể:
* Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Tiếng Việt và biện pháp
khắc phục:
+ Tập đọc: Dù là học sinh lớp 2, nhưng trong lớp còn một số em đọc rất yếu.
Như em Lệ, Thành, Hồng , Tình, Tài. Ngun nhân đọc yếu ở các em là ngắt
nghỉ hơi chưa đúng dấu câu, cụm từ, không phân biệt được các dấu câu (em
Tình), chưa đạt được tốc độ đọc của học sinh lớp 2, với những từ có vần khó thì
phải đánh vần thật lâu, tùy tiện lượt bớt hoặc thêm từ vào khi đọc. Bên cạnh đó,
khả năng đọc trơi chảy, đọc hiểu và , một văn bản cịn hạn chế.
+ Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy, các em đọc yếu
thường cũng viết yếu. Nguyên nhân các em viết yếu là do không hiểu và nắm
nghĩa của từ, không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc lỗi
do phát âm chưa đúng nên dẫn đến.
+ Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu.
+ Tập làm văn: Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng
lời, diễn đạt khi viết. Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu biết
của các em. Vì vậy, các em gặp khó khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc sống

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

10



theo các chủ điểm đã học thông qua các kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý, quan
sát, viết đoạn
* Biện pháp
+ Tập đọc:
Đối với những học sinh đọc yếu thì giáo viên cần:
Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc như: thường xuyên
gọi các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho các
em luyện đọc lại từ sai nhiều lần. Nếu thời gian của tiết học khơng đủ thì giáo
viên có thể tranh thủ cho các em luyện đọc thêm vào giờ giải lao 5 hoặc 10 phút.
Dặn các em về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn bản, một bài
tập đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải kiểm tra và
nhận xét đánh giá việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp thời.
Bên cạnh đó, thỉnh thoảng một hoặc hai tuần giáo viên có thể đến nhà gặp phụ
huynh học sinh để xem cách học ở nhà của các em như thế nào, nếu thấy cần thiết
thì giáo viên đưa ra biện pháp giúp đỡ.
Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện cổ
tích đọc vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện
giọng đọc của mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn
nhận xét, đánh giá về sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta
sẽ tạo được niềm tin nơi các em rất nhiều, là động lực thúc đẩy các em say mê
rèn đọc.
Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện đọc trơi chảy
thơng qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng
vốn từ và hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một số
từ trong bài đọc, từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc.
+ Chính tả:
Đối với những học sinh viết yếu thì giáo viên cần:
Tổ chức cho các em ơn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi ngày
viết khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, giáo viên đọc cho

học sinh viết một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng ta có

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

11


thể cho các em viết vào giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở riêng
để luyện viết và giáo viên phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét đánh giá kịp
thời.
Nếu có điều kiện thì u cầu các em đến nhà của giáo viên để luyện viết thì các
em sẽ tiến bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần các em
sẽ viết đúng chính tả.
Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài chính tả trong sách giáo
khoa, giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết từ khó nhiều lần, nhiều
từ. Có thể cho các em có chọn từ để luyện viết thêm.
Đối với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với u cầu nên có
thể chấp nhận em viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích viết đúng
chính tả.
+ Luyện từ và câu:
Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày.Hướng dẫn các em
tra từ cách đặt câu, tạo cơ hội cho các em được nêu lên những câu văn đúng giúp
các , tạo sự ham thích tìm hiểu.
+ Tập làm văn:
Nhận dạng thể loại, xác định nội dung, viết đoạn.
Giáo viên chỉ ra lỗi cụ thể trên bài làm của học sinh.
Học sinh tự viết lại.
Cần tạo điều kiện để các em nhận xét bài của bạn, ghi chép lại ý hay nếu thích.
Khuyến khích các em trình bày bài viết trước lớp.
Gợi mở, tạo hứng thú cho các em bằng cách thay đổi những đề bài tập làm văn

thành những tình huống, nhằm tạo ra cho các em một hồn cảnh giao tiếp. Nhờ
có hồn cảnh giao tiếp, các em dễ bày tỏ suy nghĩ của mình hơn.
Ví dụ:
Với đề bài : Viết về người thân ( Sách Tiếng Việt lớp 2 – tập 2 )
Giáo viên có thể chuyển thành tình huống: Trong gia đình em ai cũng yêu mến
và chăm sóc em , em hãy viets nói về người mà em quý mên .

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

12


Giáo viên có thể gợi mở thành nhiều tình huống khác nhau nhằm gây hứng thú,
cảm xúc, sự quan tâm ở các em để giúp các em hình dung ra điều mình sẽ tả.
c. Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ mơn Tốn và biện pháp
khắc phục
Trong lớp bản thân chủ nhiệm có em Trương Quốc Thành thì hầu như là khơng
biết tính khi học tốn. Ngun nhân thì có rất nhiều, bản thân chỉ xin nêu một số
nguyên nhân tiêu biểu: Không nắm được các phép tính cộng, trừ trong phạm vi
100 có nhớ, Vì vậy, các em cũng khơng nắm được các phép tính cộng, trừ, trong
phạm vi 1000. có nhớ . Khơng nắm được lí thuyết bài ( quy tắt).
Khơng nắm được cấu tạo số tự nhiên (hàng, lớp, cách đặt tính)… Từ chỗ không
nắm được cấu tạo số tự nhiên nên các em cũng không nắm được cấu tạo số trong
phạm vi 1000. Mà đối với học sinh lớp 2, các em phải làm rất nhiều bài tập về
các số co 2,3 chữ số
Vậy, đối với những học sinh khơng biết tính thì giáo viên cần: Hướng dẫn để các
em hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi thực hiện các phép tính
cộng, trừ, giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, nắm,
sờ vào và thực hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và
biết cách tính. Đối với những em khơng thuộc bảng nhân, chia thì giáo viên gọi

lên kiểm tra thường xuyên vào sinh hoạt 15 phút đầu giờ, giáo viên có thể lấy
nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo thành các tình huống liên quan đến các
phép tính nhân, chia cho học sinh thực hiện.
Ơn lại các hàng, lớp và cách đặt tính số tự nhiên. Giáo viên cho học sinh làm các
bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt tính
các số có các chữ số thuộc cùng một hàng.
Ví dụ: 125 +213
Sau đó, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số lệch hàng.
Ví dụ: 56 +102
Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến lớn
hoặc từ lớn đến nhỏ. Tương tự như số tự nhiên thì khi dạy số thập phân, giáo viên

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

13


cũng phải yêu cầu các em thuộc các hàng trong số thập phân, nắm được dấu phẩy
ngăn cách giữa phần ngun và phần thập phân thì mới tính tốn chính xác được.
Bên cạnh những học sinh khơng biết tính thì có những em tính cịn yếu. Ngun
nhân các em tính yếu có thể là do: Khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ, nhân,
chia trong bảng chưa thuần thục dẫn đến tính tốn chậm, thiếu chính xác khi thực
hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngồi bảng.
Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả
theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận
khi giải toán. Các em rất sợ các bài tập về giải tốn vì ảnh hưởng bởi khả năng
đọc hiểu và khơng biết tính hoặc tính thiếu chính xác. Vậy đối với những học
sinh tính yếu thì giáo viên cần:
Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia
mức độ đơn giản.

Khi giải tốn, giáo viên có thể u cầu các bạn khá, giỏi phân tích đề bài, tóm
tắt và trình bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay đổi
một vài con số và yêu cầu các em học yếu làm lại. Các em có thể làm vào giờ ra
chơi hoặc giờ rèn vào buổi chiều. Khi các em làm bài, giáo viên theo dõi, sửa sai
(nếu có) kịp thời.
Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài tốn cơ
bản.
Động viên, giúp đỡ các em hồn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp.
Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em.
Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó khăn
thường trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, thầy giúp đỡ khi cần.
Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai, xem
trước bài mới.
Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn qua vở bài tập để có hướng khắc phục và
động viên kịp thời.
d. Tóm lại:

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

14


Ngoài những giải pháp nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh yếu, biện
pháp lâu dài là tạo ra sự hứng thú trong q trình học tập. Thơng qua những
phương pháp dạy học tích cực, người thầy phải chuyển yêu cầu học tập thành nhu
cầu vì nguồn gốc của tính tích cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi học sinh có nhu
cầu thì tự các em sẽ tìm kiếm tri thức. Đó chính là khả năng tự học.
Hơn nữa, các em học sinh tiểu học là thế hệ Măng non của đất nước. Nên bản
thân luôn luôn hướng các em theo khẩu hiệu “Học vì ngày mai lập nghiệp”. Học
để hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những người công dân có

ích cho xã hội. Bản thân cũng tin tưởng rằng, mình đã đưa ra những biện pháp
thích hợp trong cơng tác phụ đạo học sinh yếu. Đây là yếu tố cần thiết, giúp cho
chất lượng học tập của các em ngày một được nâng cao.
PHẦN III: KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ:
Sự đổi mới công tác dạy và học những năm gần đây ở bậc tiểu học đã tạo điều
kiện cho chúng tôi phát huy sở trường trong dạy học, mạnh dạn trong việc đề ra
những giải pháp trong giảng dạy, giáo dục học sinh phù hợp với từng đối tượng.
Từ đó giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc phục, sửa
chữa những hạn chế của bản thân. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn, đầy
đủ về quan điểm đổi mới để vận dụng vào thực tiễn. Những biện pháp trên có thể
áp dụng cho vào việc đổi mới dạy và phụ đạo học sinh yếu các khối 2,3 đạt hiệu
quả.
Theo dõi bảng số liệu trong năm học của học sinh khối 2, ta sẽ thấy sự tiến bộ
vượt bậc của các em :

TỔNG SỐ

SỐ HỌC SINH YẾU

HS LỚP 2

Số lượng

Tỉ lệ

Đầu năm

22


5

22,7%

Cuối năm

23

0

0

NĂM HỌC

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

15


II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân thiết nghĩ, muốn giúp đỡ đối
tượng học sinh yếu, giáo viên chủ nhiệm cần:
Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến
phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực.
Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đồn thể trong nhà trường,
với chính quyền địa phương, tạo mơi trường giáo dục tốt nhất cho các em.
Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các
phong trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo
viên chủ nhiệm phải ln giữ thái độ bình tĩnh, khơng nóng vội, khơng dùng lời
lẽ nặng nề với các em, hịa hợp với các em, xem học sinh là con em của mình,

chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo
dục phù hợp.
Học sinh lớp2 rất thích được động viên khen thưởng, giáo viên khơng nên dùng
hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em có niềm tin để
các em an tâm học tập.
Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa
học sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong
học tập thì chắc chắn rằng các em là học sinh yếu sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất
nhiều để phát huy khả năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt thành của
người thầy và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân các em thì chúng ta tin
tưởng vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến với các em. Và có lẽ rằng, vai trị của
chúng ta:
“ Người Thầy của mọi Thầy” đã hoàn thành.
Một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng: Đây sẽ là một
tài liệu nhỏ để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình
huống sư phạm thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh yếu là nghĩa vụ, trách
nhiệm của người thầy. Hãy làm hết trách nhiệm bằng cái tâm của người thầy và
hãy nhận lấy trách nhiệm về mình.

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

16


Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ. Thực hiện phương
châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với kinh nghiệm của bản thân và sự
chia sẽ của bạn bè đồng nghiệp, bản thân ln hồn thành tốt việc giúp đỡ đối
tượng học sinh yếu. Đây là một trong những tác động lớn đưa bản thân đến việc
nghiên cứu đề tài thiết thực hơn và thực hiện viết sáng kiến kinh nghiệm đạt kết
quả cao nhất.

Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giúp đỡ học sinh yếu. Trong bài
viết chắc khơng tránh khỏi thiếu sót. Rất mong sự góp ý, giúp đỡ của Ban giám
hiệu, của các anh chị và bạn bè đồng nghiệp cho bản thân tôi được tiếp thu những
cái mới , cái hay trong kinh nghiệm giảng dạy để đưa chất lượng văn hóa nói
chung , chất lượng một lớp học nói riêng ngày một nâng cao.
Tơi xin chân thành cảm ơn !
Trung Sơn, ngày 18 tháng 4 năm 2012
Người viết

Nguyễn Thị Hồng Thắm

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

17


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

I. Bối cảnh đề tài

trang 1

II. Lý do chọn đề tài

trang 1

III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu


trang 2

IV.

Mục đích nghiên cứu

trang 2

V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu

trang 2

PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận

trang 2,3

II. Thực trạng

trang 3

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

18


III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
IV.

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm


trang 4,5.6,7,8,9
trang 9

PHẦN KẾT LUẬN
I. Những bài học kinh nghiệm

trang 9

II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm

trang 10

III. Khả năng ứng dụng, triển khai

trang 10

IV.

Những kiến nghị đề xuất

trang 10

Tuy nhiên việc làm đó khơng chỉ dừng lại một thời gian nhất định mà cịn là một
q trình rèn luyện lâu dài. Bản thân tôi tin tưởng rằng với các giải pháp này chất
lượng và hiệu quả dạy học không những đối với lớp 1,2,3 mà còn đối với lớp 4,5
ngày càng được nâng cao hơn, góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học
trong giai đoạn mới hiện nay.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tôi đúc rút được qua quá
trình nghiên cứu , áp dụng kinh nghiệm sáng kiến vào đổi mới phương pháp dạy

học nói chung và phương pháp dạy giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 1 nói
riêng. Tơi hy vọng sẽ tiếp tục nghiên cứu thành công về đổi mới phương pháp
dạy Toán và nâng cao hiểu biết cho bản thân trong quá trình dạy học ở Tiểu
học.Tuy nhiên do thời gian và năng lực có hạn chắc hẳn sẽ có những thiếu sót .
Rất mong sự góp ý, giúp đỡ của Ban giám hiệu, của các anh chị và bạn bè đồng
nghiệp cho bản thân tôi được tiếp thu những cái mới , cái hay trong kinh nghiệm
giảng dạy để đưa chất lượng văn hóa nói chung , chất lượng một lớp học nói
riêng ngày một nâng cao.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Trung Sơn, ngày 18 tháng 4 năm 2010
Người thực hiện

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

19


Nguyễn Thị Hồng Thắm

Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Thắm

20



×