Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

SKKN: Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Tập làm văn cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.83 KB, 26 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG MÔN TẬP LÀM VĂN
CHO HỌC SINH LỚP 5


MỤC LỤC
Phụ bìa ………………………………………………………….. trang 1
Mục lục …………………………………………………………… trang 2
PHẦN I: ĐẶT vÊn ®Ị
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ……………………………………….

trang 3

II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ………………………………….. trang 4
III. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.………...

trang 4

IV.PHẠM VI NGHIÊN CỨU . …………………………….. …

trang 5

V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ……………………………. trang 5
IV .ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU…………

trang 5

PHẦN II: NỘI DUNG
A. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


B.CÁC GIẢI PHÁP

…………………….. trang 5
…………………….. trang 8

C. KÕt QU¶

…………………….. trang 22
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

A. KẾT LUẬN

……………………..trang 23

B.KIẾN NGHỊ
…………………….trang 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO

……………………trang 30


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn bản (nói
và viết). Nhờ vậy tiếng Việt không chỉ là hệ thống cấu trúc được xem xét từng
phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một cơng cụ sinh động trong q
trình giao tiếp, tư duy, học tập. Nói cách khác, phân mơn Tập làm văn đã góp phần
thực hiện hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học tiếng Việt là dạy
học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri
thức khoa học…

Qua chuyên đề Tập làm văn lớp 5 và qua kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm ở
khối lớp 5, tôi nhận thấy việc việc dạy và học phân môn này đang gặp nhiều khó
khăn, khơng chỉ đối với học sinh mà cả đối với giáo viên cũng cảm thấy băn khoăn
ái ngại. Do đó giáo viên cũng gặp nhiều khó khăn trong việc rèn năng lực viết văn
cho học sinh, không chỉ đối với những em học sinh yếu, kém hay trung bình mà kể
cả các học sinh giỏi cũng vậy.
Bồi d-ỡng học học sinh giỏi là một công việc rất quan trọng đ-ợc tiến hành đồng
thời với công tác dạy học sinh đại trà và phụ đạo học sinh yếu. Trong môn Tiếng
việt, việc dạy phân môn Tập làm văn là một việc làm khó, đòi hỏi sự bài bản và cẩn
thận ở hai phía giáo viên và häc sinh. Trong suốt thời gian d¹y lớp båi d-ìng häc
sinh giái líp 5, một vấn đề có tính nổi cộm đó là việc các em học sinh thường “rất
ngán” học môn Tập Làm Văn. Tại sao vậy?
Để làm được một bài tập làm Văn học sinh phải huy động vốn kiến thức từ
nhiều mặt như: các hiểu biết về cuộc sống, tri thức về văn học, khoa học, xã hội…
Học sinh lại còn phải biết kết hợp hài hòa nhiều kĩ năng như: dùng từ đặt câu, dựng
đoạn, tạo văn bản, kĩ năng phân tích đề, tím ý, lập dàn ý. Do đó Tập làm văn mang


tớnh hình thành tớch cc, ton diện, tng hp. Ngoi ra Tập làm văn mang cịn địi
hỏi mang tính sáng tạo của học sinh. NhiỊu em khơng biết bắt đầu từ đâu, phải nói
và viết những gì, viết như thế nào. Chính vì vậy mà trong các tiết học phân mơn
này các em thường rất lúng túng có em thì viết lan man không đúng trọng tâm đề
yêu cầu, em thì ý nghèo nàn bài viết chỉ mang tính liệt kê khô khan không biết liên
kết câu và lồng cảm xúc của người viết vào...và khi nhận được bài trả thì với những
con số khơ khan 3,4...điểm chẳng nói lên được điều gì, có chăng chỉ là một vài câu
nhận xét quá cụt ngủn: lạc đề, văn nghèo ý, không biết liên kết câu, bài viết lan
man...từ phía giáo viên mà thơi. Điều đó đã làm cho các em chán nản, lo sợ, mất tự
tin, ngại nói và cuối cùng l đạt kết quả không cao ở phân mụn ny.
Th thì nguyên nhân do đâu ? Làm thế nào để khắc phục tình trạng này, giúp các
em lấy lại tự tin hc tt và đạt kết quả cao phân mụn Tập Làm Văn ? Đấy chính là

lí do khiến tơi trn tr. Lúc này đây các em muốn đòi hỏi ở ng-ời thầy cái tâm, cái
tài để truyền cho các em niềm say mê, để động viên bồi d-ỡng các em để trở thành
học sinh có năng khiếu, những nhân tài có tâm hồn văn học. Chính vì những lý do
trên tôi chọn quyết định nghiên cứu đề tài: "Mt số biện pháp nâng cao chất
lượng môn Tập làm văn cho học sinh lớp 5".
II. Mục đích nghiên cứu
RÌn cho học sinh có kĩ năng làm văn, vit vn hay về cỏc thể loại văn trong
ch-ơng trình mụn Tp lm văn lớp 5.
III. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
2.1. Khách thể nghiên cứu
Đó là vấn đề quản lý hoạt động chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy
phân môn Tập làm văn lớp 5 ở trường Tiểu học Văn Tiến .
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Trong đề tài này tôi nhằm nâng cao chất dạy học phân môn Tập làm văn lớp 5 ở
các trường Tiểu học Văn Tiến


IV.PHẠM VI NGHIÊN CỨU .
- Do điều kiện và thời gian nên phạm vi nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm
chỉ gói gọn ở đối tượng giáo viên và học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Văn Tiến
trong năm học 2012 2013
V. Ph-ơng pháp nghiên cứu:
- Ph-ơng pháp đọc tài liệu; tổng hợp hệ thống kiến thức trong ch-ơng tr×nh.
Học hỏi từ kinh nghiệm của đồng nghiệp trong giảng dạy tại trường, sinh hoạt cụm,
trong các tạp chí, sách báo có liên quan mà đặc biệt là kinh nghiệm day học của bản
thân được thể hiện trong từng tiết dạy, ngày dạy và từng năm dạy.
Qua đó tơi sẽ rút kinh nghiệm cho bản thân mình và rút kinh nghiệm cho tiết
dạy. Khắc phục những điểm chưa tốt trong giảng dạy nói chung và trong phân mơn
Tập làm văn núi riờng.
Thực hành điều tra: Đối t-ợng học sinh lớp 5 năm học 2012- 2013 Tr-ờng Tiểu

học Vn Tin.
IV .IM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Việc áp dụng "Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Tập làm văn cho
học sinh lớp 5"ở trường Tiểu học Văn Tiến. Qua đó giúp giáo viên nâng cao chất
lượng dạy học phân môn Tập làm văn lớp lớp 5 ở Trường Tiểu học
PHẦN II: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận.
Tập làm văn là một phân mơn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng hợp
các kiến thức, kĩ năng từ Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,... để viết
nên một bài Tập làm văn.
Theo quan điểm tích hợp, các phân mơn được tập hợp lại xung quanh trục chủ
điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt
chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy - học có hiệu quả Tập làm văn lớp 5 nhất thiết


người giáo viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Vì
trong các bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài tập luyện từ - câu thường xuất
hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung miêu tả rất rõ về cảnh vật, thiên nhiên, con
người, đoạn đối thoại, thuyết trình tranh luận...
Bài Tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khơ cứng, góp
nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như
tâm hồn của các tác giả nhỏ tuổi.
Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy và trị phải soạn giảng và học tập
tích cực, nghiêm túc, hiệu quả, mới mong nâng cao một cách bền vững chất lượng
môn Tiếng Việt ở lớp cuối cấp Tiểu học.
§ Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ
năng của Chương trình giáo dục phổ thơng cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến thức, kĩ
năng của từng môn học (ban hành kèm theo quyết định số 16 của Bộ GD-ĐT) và

phù hợp trình độ của từng học sinh trong lớp mà “Hướng dẫn 896” của Bộ GD-ĐT
đã đề ra.
§ Tơi tin rằng đề tài này nếu được áp dụng và vận dụng hợp lý sẽ đem lại hiệu
quả cao cho phân mơn Tập làm văn, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt
lớp 5.
2. Cơ sở thực tiễn
a. Thực trạng học sinh:
Năm nay (2012 – 2013), tôi được phân công phụ trách lớp 5A với 33 học sinh.
Hầu hết 33 học sinh của lớp 5A tôi chủ nhiệm còn rất hạn chế khi làm bài Tập làm
văn.
Các hạn chế của học sinh là:
-

Bài viết của học sinh cịn mắc nhiều lỗi chính tả.

-

Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài cần miêu tả.

- Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng. Nhiều
em chưa biết dừng lại để nói kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật.


- Vốn từ ngữ của các em còn nghèo nàn, khn sáo, quan sát sự vật cịn hời
hợt.
-

Các em chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.
Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm văn


trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên tiểu học. Ý nghĩ cho
rằng Tập làm văn là một phân môn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã là
nhận thức chung của nhiều thầy cô giáo dạy lớp 4, lớp 5.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng Tập làm văn của học sinh
không đạt yêu cầu ? Qua quá trình giảng dạy lớp 5, tôi nhận thấy học sinh học yếu
Tập làm văn là do nhiều nguyên nhân.
b. Nguyên nhân của thực trạng
Theo tôi có sáu nguyên nhân như sau:
1. Học sinh thường lười đọc sách báo hoặc tìm tịi sưu tầm những tài liệu phục
vụ cho kiến thức có liên quan đến mơn học, thiÕu sù quan s¸t tinh tÕ dẫn đến tình
trạng nghèo vốn từ, nghèo vốn sống để có thể đưa đề văn vn vo triển khai bài
viết.
2. Thiu s quan tâm, hỗ trợ động viên của phụ huynh.
3. Học sinh hay quan tâm đến những sở thích khơng phục vụ cho mơn học như:
đọc sách, báo, truyện tranh nhảm nhí; chơi điện tử; xem phim ảnh không phù hợp
với lứa tuổi nên vốn văn học rất hạn chế.
4. Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
5. Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc,
chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật,
về một con người cụ thể nào đó.
6. Nguyên nhân cuối cùng là trách nhiệm của người giáo viên. Phân môn Tập
làm văn là một mơn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay người giáo
viên (nhất là giáo viên lớp 4, lớp 5) chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập
và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lịng u q
Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt


Nam thì phải đọc thơng viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ
đẻ.
c.Về phía giáo viên:

1. Giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp dạy Tập làm văn:
Lập dàn bài rập khuôn dẫn đến bài làm của học sinh giống nhau về ý tưởng, nội
dung.
2. Chưa rèn cho học sinh có thói quen c và chọn lọc các bi vn mu, vn
hay t đó rút ra ý hay; tai hại thay một số giáo viên còn cho học sinh học thuộc
những bài văn mẫu điều đó đã làm mất đi sự sáng tạo và óc tưởng t-ỵng phong phú
của học sinh.
3. Giáo viên chưa linh động sáng tạo khi tổ chức các giờ dạy trên lớp, hình như
tổ chức dạy học đơn điệu: giáo viên hỏi – học sinh trả lời, chỉ những em khá giỏi
nỉi tréi h¬n mới có thể tham gia trả lời cịn những học sinh kh¸c thì cảm thấy lo sợ
nếu bị gọi đến tên! Từ đó làm cho häc sinh cảm thấy nhàm chán, mất hứng thó học
tập.
4. Chưa xử lý kịp thời, chính xác các phát sinh dẫn đến tình trạng giáo viên
đánh giá chưa đúng ý kiến của học sinh.
5. Trên đây là một số những tồn tại mà tôi thường thấy ở nhiều GV khi day
Tập làm văn. Thế thì làm thế nào để khắc phục hiện trạng trên? Cá nhân tơi sau
nhiều lần thí nghiệm tại lớp mình và gãp ý cïng một số ®ång nghiÖp ë mét sè lớp
khác đã thấy rất khả thi.
* Sau đây là một số biện pháp giải quyết.
II.CÁC GIẢI PHÁP
1. Đối với Giáo viên:
* Người Giáo viên có vai trị rất quan trọng và ảnh hưởng vơ cùng to lớn đối
với häc sinh vì họ là những người chủ đạo tổ chức việc học của häc sinh, chính vỡ
th bn thõn ngi Giỏo viờn cn phi:
1. Tạo động cơ học tập bền vững ở học sinh để cho các em có hứng thú, có
một nội lực thúc đẩy liên tục trong học tập nói chung và trong học tập môn tập làm
văn nói riêng.
2. Theo tôi, ng-ời giáo viên cần xác định rõ: vấn đề cơ bản đầu tiên trong công



tác bồi d-ỡng học sinh giỏi không phải là cung cấp kiến thức, mà là xây dựng cho
các em một ph-ơng pháp học tập, cách tiếp cận và chiếm lĩnh kiến thức một cách
khoa học, từ đó các em có một nhÃn quan biện chứng để học tốt không chỉ phân
môn tập làm văn mà còn cả các môn học khác thậm chí cả cách làm việc và suy
nghĩ.
3. Luụn học hỏi đồng nghiệp và tự học để nâng cáo trình độ bản thân và nâng
cao tay nghề.
4. Phải đầu tư thật kĩ bài dạy trước khi lên lớp.
5. Phải hết sức nhạy bén và ứng xử kịp thời các tình huống phát sinh khi giảng
dạy bằng cách chú ý lắng nghe ý kiến của häc sinh t×m ra ưu khuyết điểm chính của
học sinh để nhận xét tổ chức sa cha, gúp ý ỏnh giỏ.
6. Giáo viên cng cn rÌn cho häc sinh kĩ năng nhận xét bài bạn để từ đó nhận
biết được những chỗ hay hoặc chưa hay khi làm bài của mình. Ví dụ: chỉ cần chØ rõ
bài b¹n hay là vì b¹n biết dùng từ ngữ liên kết câu, b¹n biết sử dụng các hình ảnh
so sánh, nhân hóa..., bạn biết lồng cảm xúc của mỡnh vo bi vit v iu quan
trng l giáo viên cần phải giúp häc sinh chỉ rõ ra những từ ngữ, câu hay cho lớp
tham khảo. Điều này vừa động viên được những em làm bài hay, vừa khơi dậy cho
häc sinh những ý tưởng, sáng tạo mới, häc sinh cảm thấy có thêm nguồn động
lựcđể thi đua học tập, để bài của mình được cơ và các bạn đọc trước lớp như vậy.
Bên cạnh đó những hạn chế trong bi ca học sinh, giáo viên cng cn t nh khi
nhận xét. Tuyệt đối không dùng những câu đại loại; ý nghÌo nàn qu¸, bài đủ ý, bài
yếu hoặc em khơng có chuẩn bị bài sao ?...Điều đó sẽ làm cho các em như bị dội
gáo nước lạnh vào mặt. Ngi giáo viên cn thn trng, trc tiờn cn tỡm cho bằng
được những ưu điểm trong bài làm của bé dù nó chỉ là nhỏ nhoi để tuyên dương
trước lớp rồi từ từ cho các em chỉnh sửa, bổ sung cho cõu vn hay hn, hon chnh
hn.
7. Ngi giáo viên cần thay đổi nhiều hình thức học tập để tạo cơ hội cho nhiều
häc sinh cùng được tham gia trình bày ý kiến của mình.
VD: Tổ chức học nhóm 4 để các em được nói cho nhau nghe ý kiến của mình (
vì có những em rất ngại nói trước lớp và ngại nói cho giáo viên nghe, trái lại khi

cùng tham gia vói các bạn mình thì các em rất tích cực ). Trong lúc này giáo viên
cần đến tận nơi, từng bàn để lắng nghe và gợi ý, định hướng cho các em xây dựng


bài...Được tham gia phát biểu, dần dần những em nhút nhát sẽ cảm thấy mạnh dạn
và tự tin hơn khi đứng nói trước lớp. Bên cạnh đó phương tiện trực quan, các hình
thức tổ chức trị chơi, thi đua... cũng khơng kém phần lơi cuốn HS học tập tích cực
hơn.
8 .Khi chấm bài giáo viên cũng cần có sự nhận xét cụ thể về những lỗi sai của
học sinh để định hướng cho học sinh khắc phục trong lần sau.
9. Nên tập cho các em có thói quen học tập các ý hay trong bài văn mẫu, đoạn
hay, bài làm hay của bạn, từ sách báo tham khảo và được tạo thói quen ghi chép lại
trong sổ tay văn học của mình.
2. Đối với học sinh:
- Hết sức chú ý nghe giảng, có sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
- Cụ thể hoá những ý nghĩ chung của bạn thành ý riêng của mình bằng cách
tự lập một hệ thống dàn bài riêng của mình phù hợp với yêu cầu của đề.
- Mạnh dạn, tự tin phát biểu ý kiến để các bạn xây dựng cho mình.
- Tập cho mình có thói quen đọc sách báo hàng ngày để cập nhật thơng tin bổ
sung cho bài làm của mình thêm sâu sắc hơn. Tuyệt đối tránh máy móc rập khuôn
theo bài mẫu.
3. Làm thế nào để viết được một bài văn hay?
1.Thế nào là một bài văn hay?
Một bài văn hay phải đạt được 3 yêu cầu: Nội dung, hình thức và cách trình bày.
a) Nội dung:
- Ý tưởng phải ăn khớp với đề bài.
- Ý tưởng phải đúng, mới và đặc biệt.
- Ý tưởng phải súc tích ( chứa nhiều ý trong một hình thức diễn đạt ngắn gọn).
- Ý tưởng phải xếp đặt có thứ tự và mạch lạc.
- Ý tưởng cuối cùng (ở phần kết bài) phải khái quát được các ý đã nêu ra.

b) Hình thức:
- Viết đúng từ vựng (sử dụng đúng từ ngữ).
- Viết đúng nội dung (đặt câu đúng ngữ pháp, có đủ CN, VN).
- Viết đúng dấu câu (sử dụng đúng các dấu câu đã được học).
c) Trình bày:


Chữ viết phải rõ ràng, ngay ngắn, đẹp; viết hoa đúng chỗ, các đoạn văn được
phân bố
hợp lí (khơng nên quá dài hoặc quá ngắn).
2. Làm thế nào để viết được một bài văn hay?
Để viết được một bài văn hay, các em cần lưu ý một số điểm sau:
a)Về cách dùng từ:
- Phải dùng từ cho chính xác, lựa chọn từ ngữ nào hay nhất để làm cho câu
văn có hồn.
VD: Tả bơng hoa:
àNụ hoa chúm chím nở như như hớp từng giọt sương.
àNhững cánh hoa nhỏ xíu đung đưa trong làn gió sớm.
- Muốn dùng từ đượchay, các em phải ln ln có sự liên tưởng các sự vật
với nhau, so sánh hiện tượng, sự vật này với hiện tượng, sự vật khác để chọn lựa
được những từ ngữ có hình ảnh và gợi cảm. Các em nên sử dụng nhiều từ láy (từ
tượng thanh, tượng hình) và từ ghép.
b) Về cách đặt câu:
- Khi viết câu, cần linh hoạt, không nhất thiết cứ phải viết theo một cơng
thức đơn điệu mà có thể thay đổi cách diễn đạt (dùng biện pháp đảo ngữ).
VD1: Trước mắt em là thảm lúa xanh bao la.
Có thể đổi lại là:Thảm lúa xanh như mở rộng dần ra trước mắt em.
VD2: Hai bên đường vàng rực hoa cúc.
Đổi lại là: Vàng rực hai bên đường là những thảm hoa cúc.
- Muốn viết được câu hay,còn phải sử dụng cách so sánh, nhân hố.

VD: + Nhìn từ xa, cánh đồng như một thảm lúa xanh khổng lồ...
+ Những bông hoa ngả nghiêng cười đùa hớn hở...
* Một yêu cầu cuối cùng khi viết văn đối với học sinh giỏi là phải hết sức
tránh sự cẩu thả về chữ viết, về cách trình bày, tránh các sai sót về chính tả. Muốn
thế, trong khi viết, chúng ta phải hết sức chú ý suy nghĩ và vận dụng cho đúng,


trình bày cho sáng sủa. Đặc biệt, khi viết xong bài, phải dành thời gian đọc lại để
sửa lại những sai sót (nếu có thể).
4. Các giải pháp cụ thể:
a. Dạy Tập làm văn qua giờ Luyện từ & câu.
- Các em ít tham gia phát biểu trong giờ học Tập làm văn là do không biết
thể hiện ý tưởng của mình bằng những câu như thế nào bởi lẽ vốn từ của các em
quá ít.
- Phạm vi vốn từ cần cung cấp cho học sinh ở tiểu học chủ yếu xoay quanh
các chủ đề về thế giới xung quanh công việc của học sinh ở trường và ở nhà, tình
cảm gia đình và vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người...chúng ta cần làm
giàu nhận thức, mở réng tầm mắt cho HS, giúp em nhận thấy vẻ đẹp của quê
hương, đất nước, con người, dạy các em biết u q và trân trọng tình cảm đó.
- Ở chương trình SGK mới này khơng cung cấp sẵn vốn từ mới cho các em
mà thông qua hệ thống bài tập học sinh phải cùng suy luận và cùng nhau tìm tịi, bổ
sung và làm giàu vống từ cho mình. Sau đó GV có thể cung cấp thêm tư liệu cho
HS ( tư liệu cung cấp cần thực tế và gần gũi nằm trong sự hiểu biết của các em ).
Sau đó GV cũng cần giúp các em HS làm rõ một số từ cần thiết, đó là nhiệm vụ
sống cịn trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Việc dạy nghĩa từ được tiến hành
trên tất cả các giờ học, bất cứ ở đâu cũng cung cấp từ ngữ thì ở đó có dạy nghĩa của
từ địi hỏi GV phải nắm rõ nghĩa của từ và giải thích cho phù hợp với ngữ cảnh, với
nội dung bài học với hoàn cảnh thực tế với đối tượng học sinh. Tuy nhiên việc giải
nghĩa hết tất cả các từ là không thể và kh«ng cần thiết, GV phải có sự chọn lọc từ
để giải nghĩa. Những từ được chọn lọc phải là những từ trung tâm có vai trị quan

trọng trong hoạt động nói của HS trên một đề tài đã xác định, phải để cho các em
giải nghĩa lấy ( kích thích tư duy HS làm cho HS lúc nào cũng cảm thấy mới lạ –
Tạo hứng thú cho HS trong học tập ) cũng cần lưu ý rằng: từ nào GV nắm rõ nghĩa
thì hãy giải thích cịn nếu từ nào chưa rõ nghĩa thì khơng nên giải thích vì giải thích
qua loa, sơ sài sẽ làm cho HS chán nản vì khơng đáp ứng nhu cầu tị mị của trẻ
thậm chí làm cho trẻ hiểu sai lệch nghĩa của từ và khi vận dụng vào bài viết của
mình sẽ không hiệu quả, làm sai lệch ý muốn diễn đạt.
* GV có thể áp dụng một số phương pháp giải nghĩa của từ sau đây:
- Giải nghĩa bằng trực quan: đưa ra các vật thật, hình ảnh, sơ đồ...


- Giải nghĩa thông qua ngữ cảnh: GV cần được giải nghĩa vào câu hoàn chỉnh
để làm rõ nghĩa từ đó.
- Giải nghĩa bằng cách đối chiếu: GV so sánh nghĩa từ cần được làm rõ nghĩa
với từ khác.
VD: giải nghĩa từ “ ao” bằng cách so sánh với nghÜa từ “hồ” -> ao nhỏ hơn
hồ.
- Giải nghĩa từ bằng cách tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa:
VD : Gần nghĩa với “lười biếng” là “biếng nhác”
Trái nghĩa với thông minh là “đần độn”
- Giải nghĩa từ bằng cách phân tích từ thành các từ tố ( tiếng )
VD : giải nghĩa từ “tâm sự” – (tâm:lòng ; sự:nỗi ) -> tâm sự:nỗi lòng của
một người.
- Giải nghĩa bằng định nghĩa: là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội dung
nghĩa, bằng một định nghĩa:
VD : Quê hương là nơi sinh mình ra và lớn lên.
b. Dạy tập làm văn qua giờ tập đọc:
Trong giờ tập đọc, GV phải làm cho HS hiểu nghĩa một số từ cần thiết trong
bài. Hiểu được nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa “văn chương” của từ ngữ, điều này sẽ
có ích cho HS khi vân dụng từ. GV có thể kết hợp với những bài tập điền từ thích

hợp.
VD : chọn từ “náo nức” hay từ “rộn ràng” điền vào chỗ trống cho thích hợp:
Chúng em..................chào đón ngày khai trường.
Trong phần tìm hiểu bài, GV gợi ý khuyến khích HS trả lời câu hỏi theo ý
mình, hạn chế dần cách trả lời rập khuôn câu văn trong SGK. Nhất là đối với những
bài học d¹ng thơ, nên cho HS sinh diễn đạt thành lời văn hoàn chỉnh ( nếu đề khơng
u cầu tìm câu thơ ). Điều này tạo điều kiện cho HS vận dụng tối đa vốn từ sẵn có
của mình, đồng thời giúp GV nắm được lượng từ có được ở mỗi HS để từ đó có
biện pháp thích hợp cung cấp từ mới cho các em.
c. Dạy Tập Làm Văn qua giờ Chính tả
Để viết đúng chính tả HS phải nắm được nghĩa của từ.
VD : Học sinh phải phân biệt được nghĩa của từ “lượng” và “lượn”
- Lượn : bay lượn, lượn lờ.....


- Lượng : trọng lượng, khối lượng, chất lượng.....
Giáo viên nên vận dụng những bài tập để mở réng vốn từ cho HS. Ví dụ bài
tập ghép từ.
VD : Tìm từ ghép với “ mến” : mến yêu, mến thương, thân mến...
Trong những giờ dạy Chính Tả so sánh là lúc GV khai thác và cung cấp
thêm nguồn từ mới cho HS. Đối với dạng bài này, HS càng phải nắm rõ nghĩa
của từ để phân biệt các từ phát âm sai của địa phương so với chuẩn.
VD : Tuú từng địa ph-ơng các em th-ờng phỏt õm thiu chớnh xác các cặp từ
có âm đầu là l/n ; ch/tr; d/gi/r...
d. Dạy tập làm văn qua giờ kể chuyện:
Khi nghe chuyện HS phải hiểu truyện, muốn thế trước hết HS phải hiểu từ.
Chỉ cố diễn đạt câu truyện qua giọng nói, điệu bộ khơng thì chưa đủ mà GV cần
cho HS nêu ra những từ ngữ các em chưa hiểu và hãy để các em đi tìm câu giải đáp
cho chính mình, tất nhiên phải có sự gợi ý của GV. Nếu là những từ có nghĩa
khơng rõ ràng GV có thể đưa vào ngữ cảnh để từ đó HS có thể nắm được nghĩa của

từ đó.
VD : Trong truyện “ Lời hứa của sâu róm” ( truyện đọc lớp 3 ), các em cần
hiểu nghĩa của các từ : sâu róm, kén, sửng sốt. GV có thể giải thích nghĩa của
từ “ sửng sốt” bằng cách đưa ra một câu trong đó có từ “ sửng sốt”.
- Tơi vơ cùng sửng sốt về kết quả học tập của cậu ấy.
Từ VD này, HS sẽ dễ hiểu hơn nghĩa của từ “sửng sốt”: hết sức ngạc nhiên,
lấy làm lạ...
e. Sử dụng từ ngữ trong miêu tả:
Sau khi học sinh đã có một vốn từ nhất định, giáo viên giúp học sinh các cách
sử dụng vốn từ trong miêu tả như: sử dụng từ láy, sử dụng tính từ tuyệt đối (đỏ
mọng, đặc sệt, trong suốt...), sử dụng các biện pháp nghệ thuật (so sánh, nhân hố,
ẩn dụ...).
Ví dụ 1: Cho các từ “ríu rít, líu lo, liếp chiếp, rộn ràng, tấp nập, là là, từ từ...”
Hãy chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau: “Tiếng chim...
báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Ơng mặt trời... nhơ lên sau luỹ tre xanh. Khói bếp


nhà ai... bay trong gió. Đàn gà con... gọi nhau,...theo chân mẹ. Đường làng đã...
người qua lại.”
Ví dụ 2: Hãy chọn từ ngữ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống để được các
câu văn có hình ảnh so sánh phù hợp nhất (tiếng chuông, chùm sao, thuỷ tinh, dải
lụa, giọng bà tiên).
- Hoa xoan nở từng chùm trông giống như... ( những chùm sao )
- Nắng cứ như...xối xuống mặt đất.

( thuỷ tinh )

- Giọng bà trầm ấm ngân nga như...

( tiếng chng )


Ở ví dụ 1 và ví dụ 2, cho số từ nhiều hơn số chỗ trống cần điền, buộc HS phải
suy nghĩ kĩ hơn khi chọn từ.
g. Vận dụng các phương pháp theo hướng chủ động khi dạy Tập Làm văn:
- Sử dụng mạng ý nghĩa trong viết đoạn: Học sinh sẽ tìm ý dưới dạng sơ
đồ hình trịn. Mạng ý nghĩa thường dùng trong giai đoạn trước khi viết văn. Những
từ ngữ học sinh tìm được thường tập trung ở phần thân bài nên đây là một lợi điểm
cho việc phát triển ý từ thành đoạn văn hồn chỉnh.
Ví dụ:
Lá rập rình lay động
Cao lớn
Từng cánh

Thân sần sùi bạc

hoa rực lửa

phếch theo tháng năm

- Sử dụng sơ đồ khung trong viết đoạn : Thường được dùng trong miêu tả
cây cối (tả bộ phận hay tả từng giai đoạn phát triển). Sơ đồ khung sẽ giúp cho học
sinh dễ nhận ra cấu trúc của mỗi kiểu bài.
- Dùng thẻ từ phối hợp với tranh ảnh : Thường được sử dụng khi học sinh
lựa chọn những chủ đề chưa tận mắt thấy hay chưa từng được quan sát.
- Trong bài “ Cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật” thay vì trả lời đơn thuần các
câu hỏi:
+ Tìm các phần mở bài, kết bài. Mỗi phần ấy nói điều gì?
+ Phần thân bài tả cái cối theo trình tự nào?
à Giáo viên sẽ dùng những thẻ từ cho HS ghi vào đó những từ chỉ đặc điểm



của từng phần trước khi nêu ý nghĩa của các phần đó.
- Giáo viên có thể kết hợp sơ đồ khung để xác định bài văn miêu tả đồ vật.
- Chúng ta thường đặt câu hỏi “Vì sao lại có những bài văn giống nhau?”ở
đây chúng ta không bàn đến vấn đề GV bắt học sinh học thuộc mà chúng ta sẽ phân
tích theo hai sơ đồ dưới đây :
+ GV nêu từ à Gợi ý đặt câu mẫu à Sản phẩm của học sinh đa phần sẽ
giống nhau.
+ Học sinh tìm từ à Đặt nhiều câu khác nhau à Sẽ có nhiều đoạn văn khác
nhau.
- So sánh hai cách làm trên, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy việc làm mẫu của
giáo viên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu nhÇm đó là mẫu hay nhất.

Tuy

nhiên,

khơng vì thế mà giáo viên khơng làm mẫu, do đó phải u cầu và nhắc nhở học
sinh khi tả chọn mẫu câu, đề tài khác giáo viên.
- Giáo viên cần tập cho học sinh thãi quen lập dàn ý trước khi viết bài và cần
phải viết nháp trước, sau đó chỉnh sửa trước khi viết bài hồn chỉnh. Trên thực tế,
vì sợ thiếu giờ nên chính giáo viên khơng u cầu học sinh làm nháp. Điều này dễ
làm mất khả năng tư duy và khả năng nhớ của trẻ. Trong quá trình làm bài nháp,
giáo viên cần luôn nhắc học sinh trú trọng ý tưởng mới nảy sinh không quá tập
trung vào lỗi chính tả, ngữ pháp ở giai đoạn này.
- Q trình chỉnh sửa nên tạo điều kiện cho học sinh làm theo nhóm đơi
(hoặc có thể làm theo trình độ của học sinh ...) để các em phát huy hết khả năng
nhận xét, cũng như có điều kiện để giúp đỡ và học tập lẫn nhau. Học sinh được đọc
nhiều đoạn văn khác, điều này cũng sẽ làm nảy sinh ý tưởng mới cho các em khi
được lắng nghe và đọc bài của bạn. Giai đoạn này cần được trau dồi về ngữ pháp và

trình bày bài viết để học sinh có thể lưu trữ sản phẩm của mình.
- Việc tổ chức các phong trào hỗ trợ cho việc viết văn như dành một góc học
tập để các em có thể trưng bày những sản phẩm của mình (những bài văn hay) để
cả lớp cùng tham khảo.
- Rèn cho học sinh kỹ năng nói trong Tập làm văn rất quan trọng. Giáo viên
cần khuyến khích HS “tự do nói”, nghĩ được điều gì thoải mái diễn đạt ra điều ấy,
điều này giúp HS mạnh dạn phát biểu đưa ra ý kiến của mình. Thường thì các em
mang nặng tâm lý đứng lên lỡ nói sai sẽ bị thÇy cơ mắng hoặc các bạn chê cười. Để


giải tỏa gánh nặng tâm lý này, tôi thường để các em tự do đưa ra ý kiến của mình
dù cho ý kiến đó chưa sát với yêu cầu của câu hỏi đặt ra. Đừng bao giờ phủ nhận
sạch trơn những suy nghĩ của các em mà nên động viên để các em tự tin hơn khi
phát biểu.
Việc thực hiện “Sổ tay văn học” hay tạo “Thư viện nhỏ cho lớp” là rất cần
và thiết thực. Nó cịn giúp các em hạn chế việc mắc lỗi chính tả khi làm bài. Có
nhiều giáo viên đặt ra câu hỏi tại sao có những em khi viết chính tả khơng hề mắc
lỗi nào nhưng khi viết bài văn lại sai nhiều lỗi như thế ? Nguyên nhân chính là do
khi viết bài văn các em không được nghe cô giáo phát âm từng tiếng như khi viết
chính tả mà bản thân các em phải vận dụng tư duy để diễn đạt lại thành ý. Do đó,
đa số các em thường viết theo những ngôn ngữ phát âm giao tiếp hằng ngày, hoặc
cũng có khi do viết vội, viết câu dài gặp những từ khó thì lười đánh vần, từ đó viết
sai chính tả. Nếu được chuẩn bị bài trước ở nhà (các em có thời gian kiểm tra chính
tả, khơng bị khống chế thời gian làm bài) HS sẽ tự tin hơn và đỡ sai chính tả hơn
khi làm bài.
* Để hỗ trợ cho HS, chúng ta cũng cần cung cấp thêm cho các em một số từ
(theo dạng chủ đề đang học) để các em tham khảo.
VD1: Đối với dạng văn tả người
- Tả vóc dáng : cao, lùn, gầy, mảnh mai, bụ bẫm, lụ khụ, yểu điệu …
- Tả khuôn mặt, diện mạo : bầu bỉnh, rám nắng, xanh xao, trái xoan, hốc hác,

đần độn, ủ rủ, cau có …
- Tả làn da : nhăn nheo, xanh như tàu lá chuối, trắng trẻo, chai cứng, mốc
thếch, da bánh mật…
- Tả mắt : đen huyền, đen láy, bồ câu, ti hí, mắt ốc bươu…
- ...
VD2: Đối với dạng tả cây
- Thân cây: sần sùi, ram ráp, trơn lùi. Đầy gai …
- Lỏ cõy: xanh thắm, xanh mt, xanh uỏ
- ...
Ngoài ra GV cần đặt mua giúp học sinh báo Nhi đồng chăm học và Văn học
tuổi thơ cho học sinh để các em không những có thêm những kiến thức bài học,
kiến thức xà hội bổ ích mà còn tạo khả năng giao tiếp khi các em tham gia viết bµi.


* Nói tóm lại, muốn giúp cho học sinh có được vốn từ tích cực, bền vững
phải luyện cho các em vận dụng từ ngữ vào những dạng bài tuân theo nguyên tắc
xác định và phải vận dụng thường xuyên trong cuộc sống.
5. Phương pháp chung khi làm bài Tập làm văn:
Khi làm một bài Tập làm văn, chúng ta cần hướng cho học sinh làm bài theo 4
bước sau:
1.Đọc kĩ đề bài:
Đọc kĩ đề bài để nắm vững ý nghĩa từng từ, từng câu và tự trả lời 4 câu hỏi sau:
- Đề bài thuộc thể loại văn nào?
- Đề bài đòi hỏi ta giải quyết những vấn đề gì?
- Phạm vi bài làm đến đâu?
- Trọng tâm đề bài ở chỗ nào?
2.Tìm ý - Lập dàn bài:
*Sau khi nắm chắc đề bài (ở bước 1), các em không được vội vàng viết ngay
bài làm, vì như thế ý tưởng sẽ lộn xộn, khó sắp xếp. Cần lập một dàn bài chi tiết
gồm 3 phần: Mở mài, thân bài, kết bài.

*Để lập dàn bài cho một bài văn, các em cần đi theo các bước sau:
- Bước 1: Chuẩn bị một tờ giấy nháp trắng để nhập toàn bộ nội dung của dàn
ý trên cùng một mặt giấy để tiện theo dõi (không nên ghi dàn ý vào 2 mặt của tờ
giấy vì như thế sẽ khó quan sát được tồn bộ các ý chính cần có của bài văn).
- Bước2: Ghi sẵn 3 phần lớn của bài văn: 1.MB / 2.TB / 3.KB (Viết phần 1
xong để cách khoảng 2-3 dòng rồi mới ghi phần 2; phần 3 ghi xuống cuối tờ nháp,
chỉ cần 2-3 dòng là đủ. Các khoảng trắng để ta nhập các ý cần phải có ở mỗi phần
vào.
- Bước 3: Nhớ lại những đặc điểm về thể loại, nhớ lại đặc điểm dàn bài
chung của thể loại, dựa vào ý chính của đề để lập một dàn bài chi tiết cho bài văn
mình chuẩn bị viết.
Tuỳ theo thể loại và ý chính của đề, ta tìm ý có liên quan đến đề bài. Tìm
những ý chính (sẽ nói rõ ở phần chính) và những ý phụ (sẽ nói sơ qua ở phần phụ).
Viết nhanh ra giấy nháp những ý đã tìm hoặc đã suy nghĩ được trong đầu óc.


Ta có thể ví dàn bài của một bài văn giống như một cái sườn nhà. Có dựng
được sườn rồi mới thì mới có thể lợp mái, đóng vách, ráp cửa, tô quét,...
Trong dàn bài, ta sắp xếp các ý cho có thứ tự, điều gì đáng nói trước, điều gì
nên để sau. Tránh những ý nhắc đi nhắc lại. Phần mở bài có những ý gì? Thân bài
có mấy đoạn? đoạn nào trọng tâm?(Trong những ý lớn có những ý nhỏ nào?). Phần
kết bài nên có những ý gì? Ghi nhanh xong dàn bài, đọc lại để sửa hoặc thêm
những ý cần thiết, bỏ những ý thừa.
3.Viết thành một bài văn hoàn chỉnh:
Đây là bước quan trọng nhất và cũng là khâu khó nhất.Trên cơ sở dàn bài
vừa lập, em viết thành một bài văn hoàn chỉnh gồm 3 phần (MB,TB, KB), 3 phần
này nối tiếp nhau tạo nên một văn bản thống nhất từ đầu đến cuối để giải quyết vấn
đề nêu ra ở đề bài. Khi viết, phải viết từng câu, nghĩ 2-3 câu liền rồi mới viết để các
câu đứng cạnh nhau không bị khập khiễng về cách diễn đạt ý. Khi đặt lời văn để
diễn đạt các ý (đã trình bày ở dàn bài chi tiết), các em lưu ý cách diễn đạt có hình

ảnh, gợi cảm và sinh động bằng cách sử dụng các biện pháp tu từ, các từ ngữ gợi tả,
gợi cảm, các từ tượng thanh, tượng hình,...Ý hay là nhờ ở lời văn rõ ràng, mạch lạc.
Vì vậy, chúng ta cần đặt câu đúng ngữ pháp, tránh viét câu quá dài, tạo nên những
câu văncó nhiều ý, ý luẩn quẩn, lộn xộn hoặc khơng rõ ràng. Đặc biệt, trong khi
trình bày, cần đặt các dấu câu đúng chỗ, thể hiện đúng nội dung đang trình bày. Sử
dụng dấu câu hợp lí, đúng chỗ cũng là một yếu tố quan trọng giúp cho bài văn của
chúng ta trở nên rõ ràng, rành mạch, quyết định tới 40% thành công của một bài
văn. Khi trình bày lưu ý khơng viết tắt, khơng viết chữ số, trừ những số về đo
lường và ngày, tháng, năm.
4.Đọc lại bài làm:
Sau khi viết xong, cần đọc lướt lại bài văn để sửa các lỗi (nếu có thể viết
thêm các nét được) về chính tả, dấu câu,...
*Lưu ý :
- Khi soát lại bài trên giấy kiểm tra, tuyệt đối khơng tẩy xố, sửa chữa hoặc
chèn thêm từ hoặc câu vào, vì như thế bài viết trở nên lem nhem, rất mất cảm tình.


Do vậy, ở khâu viết bài, các em cần trình bày bài cẩn thận, tránh viết cẩu thả (viết
ngoáy), tránh bỏ từ, bỏ tiếng khi viết (lỗi này hay xảy ra với những học sinh hay
viết ngoáy,viết vội vàng)
- Để làm một bài văn đúng trình tự, đầy đủ nội dung, hay về ý tứ lời văn, đẹp
về hình ảnh sống động, dùng từ viết câu chính xác, rõ ràng... địi hỏi học sinh phải
có vốn kiến thức về từ ngữ, kiến thức về câu, về cách xây dựng văn bản.
- Khi học sinh đã được cung cấp những từ ngữ miêu tả rồi, giáo viên cần tổ
chức, hướng dẫn cho các em lập dàn ý, lựa chọn sắp xếp ý để miêu tả. Mục đích
xây dựng dàn ý là giúp học sinh xác định được đúng yêu cầu của từng phần: mở
bài, thân bài, kết bài, xác định thể loại và đối tượng miêu tả để tránh tình trạng học
sinh viết tràn lan, lạc đề và miêu tả không trọng tâm.
- Hoạt động tiếp theo sau khi lập dàn ý là hoàn thiện dàn ý. Đây là bước quan
trọng, cần thiết để có được một bài tập làm văn viết tốt nhất. Khi làm bài vào vở,

học sinh cần chú ý cách trình bày, chữ viết, lỗi chính tả. Đó là những yếu tố giúp
học sinh thành cơng trong quá trình học Tập làm văn. Cuối cùng, khi đã làm bài
xong học sinh cần kiểm tra lại bài viết của mình trước khi nộp bài.
6. Giáo viên chấm bài và trả bài viết
Chương trình Tập làm văn lớp 5 có 3 tiết trả bài tả cảnh, 3 tiết trả bài tả người,
4 tiết trả bài kể chuyện, đồ vật, cây cối, con vật. Ta nhận thấy rằng có chấm bài chu
đáo thì mới có tiết trả bài đạt hiệu quả.
a. Chấm bài:
Khi chấm bài Tập làm văn cho học sinh, mỗi bài tơi đọc qua một lượt để có
cái nhìn chung về bố cục, về diễn đạt của học sinh, xem thử học sinh đã làm bài
đúng thể loại, nội dung và trọng tâm bài viết chưa. Tôi ghi ra sổ chấm bài những
chỗ hay, chưa hay hoặc sai những lỗi gì...của từng HS.
Khi chấm điểm xong cho cả lớp, tôi đánh giá chung kết quả bài làm của học
sinh và rút ra những tiến bộ cần phát huy, và những thiếu sót cần sửa chữa bổ sung
để chuẩn bị cho tiết trả bài sắp tới…..
b. Trả bài viết:


Nội dung, phương pháp lên lớp một tiết trả bài Tập làm văn viết lớp 5, có 3
hoạt động chính:
1. Nghe thầy (cô) nhận xét chung về kết quả bài làm của lớp.
2. Chữa bài.
3. Đọc tham khảo các bài văn hay được thầy (cô) giáo khen để học tập và rút kinh
nghiệm .
Để tiết trả bài viết đạt hiệu quả, giáo viên cần lấy thông tin từ bài viết của học
sinh (đã chấm và ghi ở sổ chấm bài) và thực hiện các hoạt động trả bài một cách
bài bản, có linh hoạt tuỳ theo tình hình chất lượng Tập làm văn của lớp.
ü Hoạt động 1: Nhận xét chung về bài làm của lớp gồm các bước sau:
o Bước 1: Đánh giá việc nắm vững các yêu cầu của đề bài (ghi đề, học sinh
đọc đề bài, xác định 3 yêu cầu: thể loại, nội dung và trọng tâm). Đánh giá

tình hình làm bài của lớp về mặt nhận thức đề (số bài đã đạt 3 yêu cầu của
đề, số bài chưa đạt hoặc đạt chưa đủ 3 yêu cầu. Biểu dương cá nhân, cả
lớp...).
o Bước 2: Đánh giá về nội dung bài viết (cho học sinh nêu dàn ý chung của
kiểu bài tả cảnh,( tả người )… Đọc một vài đoạn văn đã chọn sẵn cho học sinh
nghe và nhận xét, cuối cùng giáo viên đánh giá chung về nội dung đoạn văn đó.
ü Hoạt động 2: Chữa bài:
Nội dung và cách thức thực hiện sửa chữa lỗi diễn đạt:
§ Việc sửa chữa lỗi diễn đạt dựa trên cơ sở bài làm của cả lớp mà trong q
trình chấm bài, GV đã ghi ra các câu có vấn đề về ngữ pháp, các lỗi chính tả …
Đến lúc này GV tổ chức, hướng dẫn cho HS nhận xét, sửa chữa. Định hướng như
vậy sẽ giúp cho việc sửa chữa lỗi sát hợp và kịp thời uốn nắn kĩ năng diễn đạt cho
lớp. Tuy nhiên, sửa như vậy sẽ dẫn đến tình trạng nhàm chán trong HS vì tiết trả
bài nào cũng sửa chữa những lỗi đó.
§ Riêng tôi, ngay từ đầu năm học đã lên kế hoạch sửa lỗi diễn đạt cho lớp, mỗi
tiết trả bài viết tập trung sửa chữa cho một hoặc hai loại lỗi nào đó một cách bền
vững, tức là cần có trọng tâm sửa lỗi cho từng tiết.


* Hoạt động 2 này tiến hành theo 3 bước :
o Bước 1: Tham gia chữa lỗi chung cho cả lớp:
Ví dụ:
Tiết trả bài viết số 1(tả cảnh, tuần 5) : Trọng tâm sửa lỗi là luyện từ -câu và
thực trạng viết câu.
o Bước 2: Học sinh đọc lại bài làm của mình, chú ý những chỗ mực đỏ ghi lời
khen, chê của cơ giáo. ( Ví dụ : câu hay, đoạn hay, hoặc lỗi dùng từ, lỗi viết
câu, lỗi chính tả…)
o Bước 3: Học sinh tự chữa bài vào vở tập làm văn.

ü Hoạt động 3:

Đọc tham khảo một số đoạn, hoặc vài bài văn hay của một số em cho cả lớp
nghe để học tập và rút kinh nghiệm.
III. KÕt QU¶
Trong năm học vừa qua, khi vận dụng những phương pháp trên vào giảng
dạy cho HS, tôi nhận thấy rất khả quan khi dạy phân môn này. Thành tích học tập
của các em cao hơn, chất lượng hơn và học sinh học tập cũng tích cực hơn.
Bảng thống kê dưới đây đã chứng minh được điều đó:
Tổng

Giỏi (9 – 10) Khá (7 – 8 ) TB (5 – 6)

Dưới TB (1-4)

33

2

7

19

5

Giữa HKI

33

3

9


18

3

Cuối HKI

33

7

16

10

0

Giữa KHII

33

15

16

2

0

Cuối HKII


33

20

13

0

0

Thời gian

số HS

Đầu năm

Như vậy, cho đến thời điểm này các em đã biết cách trình bày bài văn hợp lí


về bố cục, diễn đạt ý trọn vẹn, câu văn giàu hình ảnh. Một số các em yếu cũng đã
diễn đạt khá tốt ý của mình. Tuy cịn một số bài viết cịn mang tính liệt kê nhưng
bước đầu các em đã biết vận dụng các biện pháp tu từ đã được học để vận dụng vào
bài viết của mình làm cho câu văn trở nên sinh động hơn.
Diễn biến chất lượng phân môn Tập làm văn sau khi áp dụng đề tài này thật
đáng phấn khởi, đây là kết quả của một quá trình phấn đấu của thầy giáo và học
sinh lớp 5A trường Tiểu học Văn Tiến. Chất lượng phân môn Tập làm văn đi lên rõ
rệt đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt của lớp
và của tổ chuyên môn.
Tôi hy vọng với một chút kinh nghiệm nhỏ bé này sẽ phần nào giúp cho đồng

nghiệp gỡ rối trong công tác giảng dạy, båi d-ìng HSG của mình (nhất là với phân
môn Tập Làm Văn).
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
- Để thực hiện những biện pháp như trên, giáo viên cần phải chú trọng phần
chuẩn bị cho bài mới. Chuẩn bị tốt sẽ dạy tốt và học tốt, đặc biệt, khâu học sinh
chuẩn bị ở nhà, giáo viên cần định hướng một cách cụ thể, rõ ràng và khoa học thì
việc chuẩn bị của học sinh mới có kết quả tốt.
- Trong việc tổ chức cho học sinh hoạt động học tập, giáo viên thường xuyên
kiểm tra, phát hiện ra những chỗ “hổng” kiến thức của học sinh để kịp thời giúp các
em bổ sung cho đầy đủ. Nhất là phải thường xuyên cho học sinh ôn luyện, củng cố
những kiến thức đã học một cách linh hoạt, lồng ghép vào các hoạt động tìm hiểu
kiến thức mới nhằm khắc phục tận gốc những sai sót của học sinh.
- Ln tạo bầu khơng khí vui tươi, tự nhiên, thoải mái, kích thích học sinh hứng
thú hoạt động học tập để phát huy khả năng diễn đạt trong văn nói cũng như trong
văn viết.


- Hình thức dạy học phải đa dạng, phong phú tạo cho học sinh mơi trường học
tập tích cực, chủ động và sáng tạo. Học sinh có điều kiện được bộc lộ những khả
năng sẵn có, tích luỹ và phát triển vốn từ ngữ, rèn luyện kĩ năng lựa chọn, sử dụng
từ phù hợp, giàu hình ảnh để có những câu văn hay, đoạn văn hay và bài văn hay.
- Cần khuyến khích học sinh tham khảo những bài văn hay để học cách diễn đạt,
cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh sinh động…thật nghiêm khắc đối với học sinh chép
văn mẫu. Bởi chép văn mẫu, các em sẽ không phải suy nghĩ, khơng phải động não.
Do đó, các em khơng phát triển được khả năng tư duy, óc sáng tạo. dần dần học
sinh có thói quen ỷ lại và lười biếng. Tuy nhiên, giáo viên cần phải giúp học sinh
có những kĩ năng thành thạo trong việc hình thành một dàn bài chi tiết từ dàn bài
chung và từ dàn bài chi tiết để viết ra một bài văn hồn chỉnh bằng chính khả năng
của mình. Giáo viên cũng cần lưu ý chỉ chấm bài, sửa bài đối với những bài văn

thực chất của học sinh, không chấm những bài văn chép từ văn mẫu. Có như vậy
mới giúp các em rèn luyện khả năng tự học, tự bồi dưỡng cho mình.
Chúng ta có thể dạy tốt – học tốt mơn Tập làm văn khi có sự phối hợp đồng bộ
giữa thầy và trò với những yêu cầu cần đạt đã nêu trên. Cũng cần lưu ý rằng, dạy
các em viết văn khơng có nghĩa là dạy các em trở thành nhà văn mà là dạy sao để
các em có thể viết được những điều mình nghĩ đến và những điều mình muốn nói
một cách mạch lạc, gãy gọn, hay nói cách khác là rèn cho HS kỹ năng xâu kết
những ý nghĩ thành một đoạn văn chặt chẽ thể hiện rõ ý mình muốn diễn đạt, đây là
một cơng việc khá khó khăn, tuy nhiên Bác Hồ đã từng nói:
“Khơng có việc gì khó
Chỉ sợ lịng khơng bền …”
* Sau cùng, tôi xin kết thúc bài viết của mình bằng một câu nói của giáo sư
Roach Van Allen để thay cho lời kết :
“Em có thể viết được những gì em nghĩ


Em có thể viết được những gì em nói
Em có thể đọc được những gì em viết và em có thể đọc được những gì người khác
viết cho em.”
II.KIẾN NGHỊ
- LÃnh đạo nhà tr-ờng liên kết, phối hợp với các tr-ờng bạn tạo sự giao l-u
học hỏi giữa các giáo viên, trong cụm.
- Nhà tr-ờng th-ờng xuyên s-u tầm tài liệu, sách tham khảo để tạo điều kiện
cho GV bồi d-ỡng đội tuyển (Đặt mua Toán tuổi thơ, Văn tuổi thơ và Nhi đồng
chăm học...)
- Nhà tr-ờng tạo điều kiện hơn nữa để tôi hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn.
- Th-ờng tổ chức các chuyên đề về môn Tập làm văn nói riêng và các môn
khác nói chung để các ®ång nghiƯp cã thĨ häc hái lÉn nhau nhiỊu h¬n.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân tụi c rỳt ra trong quỏ
trỡnh dạy Tập làm văn ë líp 5. Rất mong sự góp ý chân thành của các bạn đồng

nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn !
Văn Tiến, ngày 18 thán 4 năm 2013
Người viết sáng kiến kinh nghiệm
(Ký, ghi rõ họ tên)

Trần Hồng Hưng


×