Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

sang kien kinh nghiem

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.99 KB, 14 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>MỤC LỤC</b>



Nội dung Số trang


I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu


3. Đối tượng viết đề tài và phạm vi nghiên cứu
4. Nhiệm vụ nghiên cứu


5. Phương pháp nghiên cứu
6. Nội dung đề tài


II. Nội dung đề tài


Chương I: Cơ sở lý luận
1. Cơ sơ pháp lý


2. Cơ sở lý luận
3. Cơ sở thực tiễn


Chương II: Thực trạng của việc phát huy năng lực tự học của học sinh
đối với bộ môn lịch sử


1. Khái quát phạm vi và thực trạng của đề tài nghiên cứu
2. Nguyên nhân


Chương III: Một số biện pháp giúp học sinh nâng cao khả năng tự học
1. Cơ sở đề xuất giải pháp



2. Các biện pháp chủ yếu
3. Tổ chức, triển khai thực hiện
III. Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận


2. Kiến nghị:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:</b>


<b>HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ HỌC MÔN LỊCH SỬ</b>
<b>I. PHẦN MỞ ĐẦU:</b>


<i><b>1. Lý do chọn đề tài:</b></i>


Dân tộc ta vốn có truyền thống hiếu học. Cha ơng chúng ta đã để lại cho chúng
ta nhiều tư tưởng giáo dục với cốt lỗi là: <i>“lấy việc học làm gốc”</i> ngang tầm với những
tư tưởng giáo dục hiện đại như <i>“học để hành, hành để học”, “Học một biết mười”</i>…
Hiện nay việc học với thói quen truyền thụ kiến thức một chiều cho học sinh chiếm ưu
thế và ảnh hưởng khơng nhỏ đến hiệu quả đào tạo. Do đó địi hỏi người dạy phải thay
đổi phương pháp dạy và học theo hướng <i>“lấy học sinh làm trung tâm”</i>, phát huy tối
đa năng lực tự học của học sinh để đạt được mục tiêu giáo dục.


<i><b>2. Mục đích nghiên cứu:</b></i>


Đặc trưng của q trình giáo dục, hướng và mục đích của quá trình này – mục
tiêu đào tạo, là người học phải tự vận động, phải tự học. Đối tượng của quá trình giáo
dục là con người, dù điều kiện tác động từ bên ngồi có tốt đến mấy nhưng nếu con
người không nổ lực bản thân để tự học tự biến đổi mình đến mức cần thiết, thì mục
tiêu đào tạo mong muốn không trở thành hiện thực, ngược lại nếu có sự cố gắng bền
bỉ, thì dù điều kiện học chưa đầy đủ, giá trị gia tăng ở người học do giáo dục mang lại


sẽ hình thành. Vì vậy đề tài đưa ra một số biện pháp nhằm giúp học sinh tự học và một
số phương pháp giúp học sinh tự học môn lịch sử.


<i><b>3. Đối tượng viết đề tài và phạm vi nghiên cứu:</b></i>


Căn cứ vào thực trạng dạy và học bộ môn lịch sử ở trường THCS Trường
Chinh, căn cứ vào trình độ chuẩn và đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh THCS
và căn cứ vào tình hình cụ thể của gia đình và địa phương nơi học sinh cư trú.


<i><b>4. Nhiệm vụ nghiên cứu:</b></i>


Qua nghiên cứu đề tài đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa năng lực
tự học của học sinh đối với bộ mơn lịch sử, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.
<i><b>5. Phương pháp nghiên cứu:</b></i>


Vận dụng những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, phương pháp thu thập và xử lý tài liệu, phương pháp so sánh, phương pháp
loogic.


<i><b>6. Nội dung đề tài:</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI:</b>


<i><b>Chương I:</b></i><b> CƠ SỞ LÝ LUẬN</b>


<i><b>1. Cơ sơ pháp lý:</b></i>


Nghị quyết TW 2 khóa VIII: <i>“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào</i>
<i>tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo cho người học.</i>
<i>Từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến hiện đại vào quá trình dạy – học, bảo đảm</i>


<i>thời gian và điều kiện tự học tự nghiên cứu cho học sinh”</i>


<i>“Trong nhà trường, điều chủ yếu không phải là nhồi nhét cho học trò một mớ kiến</i>
<i>thức hỗn độn, tuy rằng kiến thức là cần thiết. Điều chủ yếu là giáo dục cho học trò</i>
<i>phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp diễn tả, rồi đến phương</i>
<i>pháp nghiên cứu, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề”(</i>Phạm Văn
Đồng, <i>“Hãy tiến mạnh trên mặt trận khoa học và kỹ thuật”,</i> NXB Sự Thật, Hà Nội,
1969)


Những chủ trương đổi mới giáo dục và đào tạo: Nghị quyết trung ương 4 khóa
VII về việc phát triển mạnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng
khắp trong nhân dân.


<i><b>2. Cơ sở lý luận</b></i>


Dạy tự học là kết quả của sự kết hợp truyền thống hiếu học, tự học và tư tưởng
<i>“lấy việc học làm gốc”</i> của dân tộc với tư tưởng và thành tựu giáo dục thế giới hiện
đại đặc biệt là các phương pháp giáo dục hiện đại lấy người học làm trung tâm.


“<i>Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học”</i> tức là khéo léo kết hợp quá
trình dạy của thầy với quá trình tự học của học sinh thành một quá trình thống nhất
biện chứng: quá trình dạy tự học.


Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy<i>: “Cách học tập: phải lấy tự học làm cốt”.</i> Qúa trình
tự học như thế có thể hiểu là : <i>“sự chuyển quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo</i>
<i>dục”</i>


Nền giáo dục hiện đại thế giới, ở thế kỉ XXI đã <i>“đặt việc học, người học vào</i>
<i>trung tâm của nền giáo dục”</i>, với một số đặc điểm của nền giáo dục như: <i>“học tập</i>
<i>thường xuyên, suốt đời”</i>: học để <i>“biết”,</i> để <i>“làm”,</i> để <i>“làm người”</i> và để “<i>cùng sống</i>


<i>với nhau”,</i> xây dựng một <i>“xã hội học tập”.</i>


Đai-ri nhà giáo dục Liên Xô cũ đã từng nói: <i>« Dạy lịch sử cũng như bất cứ</i>
<i>dạy cái gì địi hỏi người thầy phải khêu gợi cái thơng minh chứ khơng phải là bắt</i>
<i>buộc các trí nhớ làm việc, bắt nó ghi chép rồi trả lại ». Như vậy mục đích của việc</i>
dạy học Lịch sử ở trường là người giáo viên không chỉ giúp cho học sinh hình dung
được những kết quả của quá khứ biết và ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng của Lịch sử
mà quan trọng hơn là hiểu được lịch sử tức là phải nắm được bản chất của sự kiện.
Trong phát triển tư duy của học sinh việc sử dụng các thao tác lơ gic có ý nghĩa rất
quan trọng.


<i><b>3. Cơ sở thực tiễn</b><b> : </b></i>


Từ thực tiễn của việc giảng dạy bộ môn lịch sử ở trường phổ thơng cịn mang
nặng tính truyền thụ do thói quen dạy và học của giáo viên và học sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

yếu. Đa số các em chưa độc lập suy nghĩ để trả lời một câu hỏi mà phải đọc nguyên xi
trong sách giáo khoa hay chỉ nêu được mốc thời gian mà không diễn tả được thời gian
đó nói lên sự kiện gì ... Bởi vậy bản thân các em nên có một phương pháp tự học như
thế nào để chiếm lĩnh kiến thức từ bài giảng của giáo viên. Mặt khác giáo viên giảng
dạy bộ mơn lịch sử ở trường một phần nào đó hướng dẫn học sinh phương pháp tự
học. Nhằm giảm bớt số lượng học sinh yếu kém và nâng cao chất lượng dạy bộ
môn lịch sử.


<i><b>Chương II:</b></i><b> THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÁT HUY NĂNG LỰC TỰ HỌC</b>
<b>CỦA HỌC SINH ĐỐI VỚI BỘ MÔN LỊCH SỬ</b>


<i><b>1. Khái quát phạm vi và thực trạng của đề tài nghiên cứu:</b></i>


Chất lượng của việc học học sinh tự mình chiếm lĩnh một số tri thức trong quá


trình nghiên cứu tự do và bằng một số cố gắng tự phát, sẽ làm cho tri thức đó nhiều
hơn, cho phép học sinh nắm được một số phương pháp phục vụ mình suốt đời, và mở
rộng khơng ngừng sự tị mị, tập cho học sinh tự mình suy luận và tự mình xây dựng
lấy khái niệm một cách tự do. Tuy nhiên thực tế ở trường phổ thông việc tự học của
học sinh chỉ dừng lại ở việc đối phó đối với những câu hỏi do giáo viên đặt ra. Học
sinh chưa thực sự chủ động tích cực trong vai trị của người học. Việc giảng dạy bộ
mơn lịch sử của giáo viên theo hướng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng <i>“lấy</i>
<i>học sinh làm trung tâm”</i> cịn nhiều điểm bất cập, mang tính hình thức.


<i><b>2.Ngun nhân:</b></i>


Do thói quen của cách dạy học theo kiểu <i>“thầy đọc, trò chép</i>” để học sinh <i>“học</i>
<i>vẹt”, “học tủ”, “học thuộc lịng”</i> mà khơng hiểu, khơng kích thích học sinh suy nghĩ
tìm tịi, rèn luyện trí thơng minh.


Giáo viên khơng chú ý khai thác khả năng tự học
Tính thụ động ỷ lại giáo viên của học sinh


Thiếu lòng tin vào khả năng tự học ở học sinh và đặc biệt là đối với học sinh
yếu kém.


<i><b>Chương III:</b></i><b> MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH NÂNG CAO KHẢ NĂNG</b>
<b>TỰ HỌC</b>


<i><b>1. Cơ sở đề xuất giải pháp:</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Tự học là tự mình động não suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so
sánh, phân tích, tổng hợp … ) cùng các phẩm chất của mình và cả tình cảm, động cơ,
nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân
loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình.



<b>2. Các biện pháp chủ yếu:</b>


<i><b>2.1. Giáo viên dạy học sinh tự học:</b></i>


<b>* Giáo viên dạy học sinh tự học:</b> Thành cơng trong tự học là mục đích cuối
cùng của giáo viên: <i>“tất cả vì năng lực sáng tạo của học sinh thân yêu”</i>, giáo viên dạy
thế nào cho học biết cách tự học, tác động dạy bên ngoài của giáo viên vật chất hóa
thành hoạt động tự học bên trong của học sinh. Tức biến quá trình dạy thành quá trình
tự học. Dạy và tự học là một quá trình thống nhất đó là q trình dạy tự học.


* Thầy hướng dẫn cho học sinh tự tìm ra kiến thức thông qua phương pháp dạy
học nêu vấn đề, thông qua hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh tự tìm ra kiến thức cơ
bản của mục, bài, chương. Đó là những kiến thức cơ bản nhất, quan trọng nhất không
thể thiếu được mà nhờ chúng học sinh có thể khơi phục lại bức tranh chân thực của
quá khứ lịch sử, đương nhiên với những đường nét chunh nhât điển hình nhất. Kiến
thức đó bao gồm: thời gian, địa điểm, nhân vật lịch sử, kết quả, ý nghĩa tiêu biểu. Nếu
thiếu một trong những sự kiện đó thì học sinh khơng thể hiểu được sự kiện lịch sử. Do
đó giáo viên hướng dẫn cho từng cá nhân học sinh về các tình huống học, về các vấn
đề cần phải giải quyết, về các nhiệm vụ phải thực hiện trong tập thể học sinh. Học
sinh tự nghiên cứu, tìm tịi cách xử lý các tình huống cách giải quyết vấn đề để tự
mình tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình. Qua đó rèn luyện được kỹ
năng cho học sinh, nhất là kỹ năng tư duy lịch sử. Đó là tư duy tái tạo trí tưởng tượng
ghi nhớ kiến thức ghi nhớ và tư duy logic, biết đánh giá so sánh sự kiện, hiện tượng
lịch sử, đặc biệc, biết thực hành một số kỷ năng để nhận thức lịch sử như sử dụng lược
đồ, bản đồ, sơ đồ, bản biểu. Hình thành được thái độ cảm xúc lịch sử của học sinh
dưới các sự kiện, hiện tượng. Vì vậy bài học lịch sử sẽ sinh động và tạo được khơng
khí lịch sử ở học sinh.


<b>* Giáo viên tổ chức cho học sinh tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn:</b>


Tổ chức các cuộc tranh luận trao đổi trò – trị, trị – thầy, thơng qua các hình thức thảo
luận nhóm, sinh hoạt nhóm, các hoạt động tập thể trong và ngoài nhà trường nhằm
tăng cường mối quan hệ giao tiếp trò – trò, trò – thầy và sự hợp tác cùng nhau tìm ra
kiến thức. Thầy là người tổ chức các hoạt động đó là trọng tài, cố vấn, kết luận, kiểm
tra các cuộc tranh luận, đối thoại, khẳng định về mặt khoa học kiến thức do học sinh
tìm ra. Vấn đề đưa ra thảo luận phải là vấn đề trọng tâm và khó địi hỏi phải có sự hợp
tác, thảo luận của học sinh mới giải quyết được vấn đề.


<i><b>2.2. Thầy dạy học, chuyên gia về việc học, hướng dẫn học sinh biết tự học:</b></i>


Người thầy là chuyên gia về việc học và tự học, là người tổ chức hướng dẫn
quá trình tự học, quá trình kết hợp cá nhân hóa với xã hội hóa việc học của người học.


Bao giờ giáo viên cũng là người khởi xướng, tổ chức hướng dẫn chương trình
tự học, tự nghiên cứu của học sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>*Giáo viên chuẩn bị các tình huống chủ yếu thong qua việc xây dựng hệ</b>
<b>thống câu hỏi ở trên lớp:</b> Trong quá trình giảng dạy ở trên lớp, giáo viên cần phải
biết đặt ra và giúp học sinh giải quyết các câu hỏi có tính chất nhận thức kiến thức.
Một hệ thống câu hỏi tốt nêu ra trong qúa trình giảng dạy phải phù hợp với khả năng
của các em, kích thích tư duy phát triển. Đồng thời tạo ra mối liên hệ bên trong của
học sinh và giữa học sinh với giáo viên. Tức là mỗi câu hỏi đưa ra, mỗi học sinh và
cả giáo viên phải thấy rõ vì sao trả lời được ? Vì sao khơng trả lời được ? Câu hỏi quá
khó hay chưa đủ sự kiện, tư liệu để các em trả lời .


Trong sách giáo khoa, thường sau mỗi mục, mỗi bài có từ 1 đến 3 câu hỏi ,
những câu hỏi này là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức trong sách , đồng thời bổ
sung để xây dựng hệ thống câu hỏi của bài. Câu hỏi phải có sự chuẩn bị từ khi sọan
giáo án, phải có dự kiến nêu ra lúc nào ? Học sinh sẽ trả lời như thế nào ? Đáp án ra
sao? Rõ ràng việc sử dụng câu hỏi trong dạy học còn là một nghệ thuật. Những câu hỏi


đặt ra bắt buộc học sinh phải suy nghĩ, phải kích thích được lịng ham hiểu biết , trí
thơng minh, sáng tạo của học sinh. Đặc biệt là giúp học sinh yếu kém tích cực hoạt
động và dần dần hình thành kiến thức cơ bản cho các em qua hệ thống câu hỏi , từ đó
các em có hứng thú học tập và xây dựng bài hơn.


Thơng thường trong q trình giảng dạy chúng ta thường đặt ra nhiều loại câu
hỏi, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các kiến thức lịch sử, chúng ta có các loại câu
hỏi. Cụ thể:


*Loại câu hỏi về sự phát sinh các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà chúng ta
thường hỏi về nguyên nhân, bối cảnh hay hoàn cảnh lịch sử của sự kiện, hiện tượng lịch
sử và thường áp dụng cho đối tượng học sinh yếu kém.


*Loại câu hỏi về quá trình, diễn biến, phát triển của sự kiện hiện tượng lịch sử
như diễn biến của các cuộc khỡi nghĩa, diễn biến các cuộc cách mạng.


* Loại câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và ý nghĩa
lịch sử của sự kiện với dạng câu hỏi này cũng dùng cho đối tượng hoạ sinh yếu kém để
các em tự phát hiện và chiếm lĩnh được kiến thức cơ bản và giúp các em hoạt động liên
tục trong quá trình học tập.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

cố ôn tập lại kiến thức cũ vừa tiếp nhận kiến thức mới và áp dụng khi hoạt động thảo
luận nhóm để các em bổ trợ kiến thức cho nhau và cùng nhau giải quyết vấn đề).


Các loại câu hỏi nêu trên tạo thành một hệ thống câu hỏi hoàn chỉnh, giúp cho
học sinh trong quá trình học tập lịch sử phát hiện ra nguyên nhân, diễn biến, kết quả và
ý nghĩa của một sự kiện hay một quá trình lịch sử. Những câu hỏi đó giáo viên vận
dụng nhuần nhuyễn trong các tiết dạy không chỉ cho các em biết được các sự kiện mà đi
sâu hiểu bản chất của sự kiện, nó khơng chỉ địi hỏi học sinh nhớ các sự kiện lịch sử cơ
bản mà phải suy nghĩ nhận thức sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử.



Là người khởi xướng tổ chức các mối quan hệ trò – trò, cho từng cá nhân
người học tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn: tổ chức người học hợp tác và học
hỏi lẫn nhau trên cơ sở phát huy tính tự lực chủ động tham gia hoạt động tập thể của
người học. Giáo viên là người đạo diễn dẫn chương trình hoạt động tự học, trị là diễn
viên tích cực sắm vai trong các tình huống học. Giáo viên kích thích học sinh hoạt
động và tự điều khiển hoạt động tập thể, can thiệp đúng lúc cần thiết cho các cuộc
tranh luận và hoạt động đi đúng hướng hoặc để đặt lại vấn đề, nêu các tình huống mới
nảy sinh trong tiến trình học tập tạo điều kiện thuận lợi cho mọi sinh đều thể hiện
mình và tự rút ra những bài học kinh nghiệm cụ thể qua các hoạt động nhóm, tổ hay
lớp để tự điều chỉnh làm cho kiến thức cá nhân tự tìm ra mang tính xã hội, khách quan
hơn khoa học hơn.


Cuối cùng khi cá nhân và tập thể lớp đứng trước một tình huống khơng giải
quyết được lúc đó vai trị khơng thể thiếu được của người thầy là trọng tài khoa học,
kết luận có tính chất khẳng định về mặt khoa học các cuộc tranh luận ở tập thể lớp và
xử lý đúng đắn các tình huống phức tạp nổi lên trong quá trình dạy tự học. Kết luận
của giáo viên là bài học cho học sinh song không phải là bài học lịch sử có sẵn trong
SGK, mà là bài học tổng kết từ những người học đã tìm ra với sự hợp tác của các bạn.
kết luận của giáo viên là sản phẩm khoa học của cả trò – thầy – lớp. Căn cứ vào kết
luận giáo viên học sinh tự kiểm tra đánh giá tự điều chỉnh làm cơ sở cho giáo viên
thực hiện chức năng kiểm tra đánh giá việc học của học sinh.


<i><b>2.3. Học sinh tự học, tự mình chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên</b></i>
<i><b>qua hoạt động tích cực của người học thể hiện ở các bước sau:</b></i>


<b>*Bước 1, học sinh tự nghiên cứu:</b> Học sinh tự tìm tịi quan sát, miêu tả, giải
thích, phát hiện vấn đề, định hướng giải quyết vấn đề tự tìm ra kiến thức mới (mới đối
với người học), và tạo ra sản phẩm ban đầu, sản phẩm thơ có tính chất cá nhân. Đó là
q trình học sinh tự tìm hiểu bài mới thơng qua hệ thống câu hỏi do giáo viên giao


cho hoặc qua hệ thống câu hỏi lịch sử trong sách giáo khoa, qua các tài liệu tham
khảo. Học sinh sẽ học cách học, cách làm, cách phát hiện và giải quyết vấn đề, cách
xử lý các tình huống, nắm cho được nguyên lý cốt lỗi, cách tiếp cận, cách ứng xử để
vận dụng linh hoạt thơng qua việc tự học, tự tìm hiểu bài mới cũng như ôn tập bài cũ,
giải quyết các bài tập lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

khách quan khoa học thật sự. Đó là con đường học sinh tự thể hiện mình để hợp tác
với các bạn khác trong cộng đồng lớp học.


Nghiên cứu cá nhân: theo hướng dẫn giáo viên học sinh tự đặt mình vào vị trí
của người tự nghiên cứu, tự tiến hành khám phá ra các tri thức mới bằng cách tự lực
suy nghĩ xử lý các tình huống giải quyết các vấn đề do giáo viên đạt ra theo trình tự
thao tác sau:


1. Nhận biết vấn đề, phát hiện vấn đề
2. Định hướng giải quyết vấn đề
3. Thu thập thông tin


4. Xử lý thông tin


5. Tái hiện kiến thức, xây dựng các cách giải quyết, xử lý tình huống
6. Thử ngiệm các giải pháp kết quả


7. Đưa ra kết luận


8. Ghi lại kết quả và cách nghiên cứu (sản phẩm ban đầu)


<b>* Bước 2, học sinh tự thể hiện:</b> học sinh tự thể hiện mình bằng văn bản, bằng
lời nói, tự sắm vai trong các tình huống, vấn đề trình bày, bảo vệ ý kiến của mình, tự
thể hiện qua sự hợp tác trao đổi, đối thoại, giao tiếp với các bạn và thầy tạo ra sản


phẩm có tính chất xã hội của cộng đồng lớp học. Học sinh tự thể hiện mình và hợp tác
với các bạn, học bạn: Học cá nhân đi đôi với học bạn, học bạn là bước cần thiết cho
học sinh biết học <i>“mọi người, mọi lúc, mọi nơi và bằng mọi cách”</i> tức là xã hội hoá
việc học.


Nơi học bạn hằng ngày là lớp học trở thành môi trường xã hội trung gian giữa
giáo viên và học sinh và đó là tác động hợp tác <i>“suy nghĩ tức là hành động” “hành</i>
<i>động tức là hợp tác”</i>


Tri thức vừa là kết quả hành động cá nhân học sinh vừa là sản phẩm của xã hội
lớp học trước khi trở thành thật sự khoa học.


Thơng qua q trình tự học học sinh tìm ra sản phẩm ban đầu có tính chất cá
nhân nhưng chưa mang tính khách quan khoa học đầy đủ. Thơng qua việc trình bày và
bảo vệ sản phẩm của mình ở tập thể lớp học, trao đổi tranh luận với các bạn trong lớp
kiến thức chủ quan của học sinh mới giảm được phần chủ quan phiến diện, tăng thêm
tính khách quan khoa học. Học bạn, hợp tác với các bạn, học sinh mới có thể nâng cao
mình lên trình độ mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

của các bạn, tranh luận đúng, sai, tự rút ra kết luận, bài học cho bản thân qua các hoạt
động tập thể. Học sinh khơng thụ động nghe bạn nói, nhìn bạn làm mà phải tích cực
chủ động thể hiện mình theo trình tự các thao tác sau đây:


1. Tự đặt mình vào tình huống, tự tập sự sắm vai, sắm vai, đưa ra cách xử lý
tình huống, giải quyết vấn đề.


2. Tự thể hiện mình bằng văn bản, ghi lại kết quả xử lý của mình
3. Tự trình bày giới thiệu, bảo vệ đến cùng sản phẩm ban đầu của mình


4. Tỏ rõ thái độ của mình trước chủ kiến của bạn: đúng, sai, hay, dở, tham gia


tranh luận


5. Tự ghi lại ý kiến của các bạn theo nhận thức của mình


6. Khai thác những gì đã hợp tác với bạn, bổ sung điều chỉnh sản phẩm ban đầu
của mình thành một sản phẩm tiến bộ hơn.


Tuy nhiên cả cá nhân và lớp học có thể gặp những vấn đề nan giải, những tình
huống khơng xử lý được, những cuộc tranh luận không tài nào kết luận được, những
tri thức mà chưa ai biết đến phải nhờ đến giáo viên. Trong lúc học giáo viên học sinh
cũng giữ vai trò chủ thể, tích cực chủ động, khơng thụ động nghe giáo viên kết luận,
giảng giải mà tích cực học giáo viên và biết cách học giáo viên, bằng cách hành động
của chính mình, theo trình tự các thao tác sau:


1.Tự lực xử lý tình huống, giải quyết vấn đề theo sự hướng dẫn của giáo viên
2.Chủ động hỏi giáo viên và biết cách hỏi giáo viên về những gì mình có nhu
cầu, nhất là về cách học


3.Tự ghi lại chính xác ý kiến kết luận của giáo viên trong giờ thảo luận hay
hoạt hoạt động của lớp


4.Học cách ứng xử của giáo viên trước tình huống gây cấn nổi lên trong q
trình hoạt động tập thể, cách phân tích tổng hợp các ý kiến khác nhau để đi đến kết
luận


5.Đưa vào kết luận của giáo viên, tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh sản
phẩm ban đầu của mình thành sản phẩm khoa học.


 <i>Học sinh cần tiến hành tự kiểm tra điều chỉnh theo các thao tác sau đây:</i>



1.So sánh đối chiếu kết luận của giáo viên và ý kiến của các bạn với sản phẩm
ban đầu của mình


2.Kiểm tra lý lẽ, tìm kiếm luận cứ, thâm nhập thực tiễn, để có cơ sở chứng
minh đúng – sai


3.Tổng hợp thêm lý lẽ chốt lại vấn đề


4.Tự sửa chữa, tự điều chỉnh: bổ sung những gì cần thiết vào sản phẩm ban
đầu, tự sửa chữa những chỗ sai sót


5.Tự rút kinh nghiệm về cách học, cách xử lý tình huống, cách giải quyết vấn
đề của mình


Giáo viên kiểm tra đánh giá căn cứ vào kết quả tự đánh giá, tự điều chỉnh của
học sinh. Sự đánh giá của giáo viên có tác dụng giáo dục thật sự, tức hổ trợ cho học
sinh tự đánh giá, tự điều chỉnh, thực hiện các thao tác trên đây và tự học có hiệu quả


<b>* Bước 3: học sinh tự kiểm tra, tự điều chỉnh:</b> sau khi thể hiện mình qua sự
hợp tác, trao đổi với các bạn và giáo viên, sau khi giáo viên kết luận, học sinh tự kiểm
tra, tự đánh giá sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa sai, tự điều chỉnh kiến thức lịch sử
của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Đứng trước một nhiệm vụ học hay tình huống học, học sinh thấy mình trong
tình huống cao hơn trình độ phát triển của mình song khơng cao hơn nhiều lắm, trên
sức mình một ít và tìm cách tự vươn lên trình độ cao đó. Học sinh phải có điểm tựa để
vươn lên: đó là những gì đã biết, kinh nghiệm sống, sự hợp tác với bạn, hướng dẫn
của giáo viên


Dạy như thế nào cho sức tự vươn lên nói trên của học sinh được kích thích


được duy trì và tăng cường đến mức học sinh có thể tự mình chiếm lĩnh tri thức mới


Giáo viên phải đề ra mục tiêu vừa sức tự vươn lên. Việc đạt mục tiêu hay một
khả năng mới bao giờ cũng tương ứng với khó khăn cần phải khắc phục, mục tiêu
tương ứng với vật cản đặc trưng cần phải vượt qua trong tình huống học, từ đó xuất
hiện khái niệm: mục tiêu vật cản.


Khái niệm mục tiêu vật cản bao hàm cả mục tiêu cần đạt được và vật cản, khó
khăn vượt qua để đạt được mục tiêu.


Học là từ bỏ và vượt qua vật cản


Đưa mục tiêu vật cản vào tình huống học có vấn đề là trạng tâm lý khó khăn về
trí tuệ xuất hiện ở học sinh khi xử lý tình huống học mà khơng thể giải thích một sự
kiện mới bằng tri thức đã có trước đây phải tìm cách thức hành động mới


Quá trình dạy tự học bắt đầu bằng tự nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của giáo
viên qua các bước tự thể hiện, hợp tác với các bạn và giáo viên, tự kiểm tra, tự điều
chỉnh, rồi trở lại tự nghiên cứu ở trình độ cao hơn trình độ ban đầu, để dần dần kiến
tạo cho bản thân mình một trình độ nghiên cứu nhấ định, một năng lực tự học và thói
quen tự học suốt đời


Quá trình tự học của học sinh khơng phải được đặt trước những kiến thức có
sẵn trong SGK hay bài giảng được chuẩn bị sẵn của giáo viên mà tự đặt mình trước
các tình huống, vấn đề thực tế, cụ thể và sinh động của cuộc sống, từ đó thấy có nhu
cầu hay hứng thú phát hiện và giải quyết những vật cản, mâu thuẫn trong nhận thức
của tự mình để tìm ra cái chưa biết, cái cần khám phá, cái mới tự mình đặt vào tình
huống người học, người học quan sát, suy nghĩ tự nghiên cứu, đặt vấn đề tự mình tìm
ra kiến thức, chân lý cùng với cách xử lý tình huống người học, người học quan sát,
suy nghĩ tự nghiên cứu, đặt vấn đề để tự mình tìm ra kiến thức, chân lý cùng với cách


xử lý tình huống, cách giải quyết vấn đề.


Quá trình lĩnh hội chân lý của học sinh cũng là quá trình hành động làm theo
một phần nào đó (kiểu của trị) con đường của những bật tiền bối đã phát minh ra theo
chân lý đó. Tri thức và phương pháp học sinh tự khám phá khơng rập khn theo
khuon mẫu sẵn có, đều là phương pháp tri thức mới (chỉ mới đối với học sinh), do đó
hoạt động tự lực đi tìm cái chưa biết mang tính sáng tạo đối với người học. Khó khăn,
vật cản, sai sót cần phải khắc phục trong quá trình tự mình tìm ra cái chưa biết chỉ là
những mục tiêu vật cản vừa sức tự vươn lên có thể giúp học sinh hiểu đầy đủ chân lý
hơn và nắm được cách tìm ra chân lý.


Nhà trường đã đem lại cho học sinh phương pháp học và sự ham học, sự cần thiết phải
học. Nó giúp học sinh sau khi ra đời vẫn muốn và có thể tiếp tục tự học mãi.


<i><b>2.6. Dạy tự học trong gia đình</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

lịng trước khi hiểu đầy đủ những kiến thức lịch sử. Đồng thời gia đình giúp học sinh
nhận thầy được tầm quan trọng của bộ môn lịch sử, xây dựng thái độ đúng đắn của
các em trong học tập bộ mơn lịch sử. Qua đó tạo cho học sinh thế chủ động trong học
tập.


Trình độ của học sinh chênh lệch và có nhiều em quá kém so với u câu của
chương trình, có ảnh hưởng đến chất lượng của nhiều mơn khác, địi hỏi một q trình
học tập chu đáo, cơng phu. Nhà trường rất khó giải quyết được chênh lệch này. Qua
việc giúp học sinh tự học tốt ở trường, gia đình hiểu rõ thêm thế nào là phương pháp
tự học. Nhờ đó gia đình có điều kiện thuận lợi và hợp tác với nhà trường thực hiện quá
trình dạy tự học, theo tinh thần “<i>tất cả vì năng lực tự học sáng tạo của con em chúng</i>
<i>ta”</i>


<i><b>3.Tổ chức, triển khai thực hiện.</b></i>



Mặc dù thời gian rất hạn chế nhưng tôi đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào
các tiết dạy và đã đạt được kết quả khả quan. Trước hết bản thân đã nhận thấy rằng
những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách giáo khoa mới và với
những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ
động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực
hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng. Khơng khí học tập sơi nổi ,nhẹ
nhàng và học sinh u thích môn học hơn. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng đề tài
này học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt học sinh sẽ u thích
mơn học này hơn.


<b>III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:</b>
<b>1Kết luận:</b>


Phương pháp đã khêu gợi, kích thích, địi hỏi học sinh biết suy nghĩ tìm tịi và
phát huy tư duy đến mức cao nhất để có thể giải quyết được vấn đề đặt ra. Phương
pháp này giúp học sinh nhận thức được mình, giúp học sinh phát hiện ra những khả
năng, những sở trường, là phương pháp giúp học sinh phát huy trí tuệ tập thể một cách
rộng lớn và sâu xa, có thể nói là vơ cùng. Bởi vì tư duy là vơ cùng. Phương pháp giúp
học sinh đào sâu suy nghĩ, tìm tịi, phát huy khả năng của họ và lúc đó học sinh nhớ
lâu, nhớ cái mà học sinh hỏi, nhớ cái mà học sinh địi. Khi gặp một nhóm học sinh vừa
phải thơi nhưng nếu biết đặt câu hỏi khêu gợi thì đây là cơ hội để phát huy tiềm năng,
tư duy trí tuệ, lối suy nghĩ của học sinh và từ đó tổ chức tranh luận làm sao mọi học
sinh không chỉ tranh luận lúc ấy mà khi về nhà học sinh vẫn cần tranh luận với chính
mình. Vì vậy người giáo viên phải biết đặt câu hỏi và nắm được đối tượng để đặt câu
hỏi và nắm được đối tượng để đặt cho đúng và khêu gợi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<b>2.Kiến nghị:</b>


Tuy nhiên việc hướng dẫn học sinh tự học đòi hỏi phải bảo đảm thời gian và


điều kiện cho người học tự học, tự nghiên cứu và đối thoại với các bạn và giáo viên.
Mơ hình này cũng địi hỏi một số điều kiện nào đó như sách tự học, tổ chức lại khơng
gian lớp học. Do đó cần có sự phối hợp và tạo điều kiện giữa 3 môi trường giáo dục.
Gia đình, nhà trường, xã hội.


Hiện nay trong các nhà trường đã được cấp rất nhiều các thiết bị dạy học.Tuy
vậy đối với mơn lịch sử thì các đồ dùng thiết bị cịn q ít, vì vậy muốn đạt được kết
quả cao trong bộ môn này theo tôi cần có những yêu cầu sau:


*Các cơ quan thiết bị trường học cần có đầy đủ tranh ảnh về các di tích lịch sử
và di sản văn hố hoặc chân dung của các nhân vật lịch sử có cơng với cách mạng.
Nhà trường cần mua một số tư liệu, tài liệu có liên quan đến lịch sử và cách giảng dạy
bộ môn lịch sử.


*Tổ chức các cuộc thi sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học ở tất cả các mơn
trong đó có mơn lịch sử.


*Cung cấp thêm tư liệu tham khảo bộ môn lịch sử cho học sinh ở trường phổ
thông.


Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tơi trong q trình giảng dạy mơn lịch
sử, hiểu biết và kinh nghiệm chắc chắn không tránh khỏi những sai sót, rất mong được
sự góp ý chân thành của các bạn đồng nghiệp.


<i>Hòa Hiệp Bắc, ngày 01 tháng 04 năm 2010</i>
Người viết


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>I.PHẦN ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP </b>


<b>1. ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG :</b>




</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII


2. Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII về việc phát triển mạnh mẽ phong trào tự học,
tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong nhân dân


3. Phạm Văn Đồng, <i>“Hãy tiến mạnh trên mặt trận khoa học và kỹ thuật”</i>, NXB Sự
thật, Hà Nội, năm 1969.


4. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học cơ sở môn lịch sử.


5. Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị, <i>“Phương pháp dạy học lịch sử ”,</i> NXB giáo dục,
năm 2000


6. Phan Ngọc Liên, Trịnh Tùng, Trần Vĩnh Tường, Nghiêm Văn Thái, <i>“Phương pháp</i>
<i>luận sử học”</i> NXB giáo dục, năm 2004


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×