Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

PL về bồi THƯỜNG THIỆT hại KHI NHÀ nước THU hồi đất THEO LUẬT đất ĐAI 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.04 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ KIM HOA

BåI THƯờNG THIệT HạI KHI NHà NƯớC THU HồI
ĐấT
THEO LUậT ĐấT §AI N¡M 2013

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ KIM HOA

BåI THƯờNG THIệT HạI KHI NHà NƯớC THU HồI
ĐấT
THEO LUậT ĐấT §AI N¡M 2013
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các
mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Kim Hoa


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GPMB:

Giải phóng mặt bằng

UBND:


Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai dưới góc độ kinh tế- xã hội hay pháp lý đều có vai trị và ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Đất đai là một nhân tố khơng thể thiểu trong q
trình phát triển đời sống xã hội, phát triển kinh tế, đặc biệt là trong việc đầu tư
và thu hút đầu tư ở Việt Nam. Qúa trình đổi mới, hội nhập vào nền kinh tế
quốc tế, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước địi hỏi nước ta
phát huy, khai thác và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực tự nhiên, nguồn nhân
lực, khoa học kỹ thuật, trong đó đất đai có ý nghĩ hết sức to lớn, là nội lực
quan trọng đóng góp cho q trình phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo quốc
phòng, an ninh, ổn định xã hội, an ninh lương thực, bảo vệ môi trường. Đi
liền với quá trình này là nhu cầu về thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, cùng với
bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho người dân cũng ngày càng tăng.
Hệ thống pháp luật đất đai phù hợp với q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước là công cụ pháp lý quan trọng để phát huy nguồn lực đất đai,
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước
đã ban hành nhiều chính sách về lĩnh vực đất đai, các văn bản pháp luật để
điều chỉnh các quan hệ liên quan đến đất đai nói chung cũng như liên quan
đến lĩnh vực thu hồi đất, bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất nói
riêng. Mặc dù các văn bản pháp luật liên tục được sửa đổi, bổi sung nhằm đáp
ứng kịp thời hoàn cảnh và nhu cầu thực tế, song trên thực tiễn công tác thu
hồi đất và bồi thường thiệt hại, hỗ trợ cho người dân có đất bị thu hồi hoặc
chịu ảnh hưởng do quá trình thu hồi đất cịn gặp phải nhiều khó khăn. Đặc
biệt, q trình thu hồi đất để phục vụ các dự án phát triển kinh tế thường phát
sinh nhiều mâu thuẫn giữa các bên bao gồm người dân, cơ quan có thẩm
quyền thu hồi đất, thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và chủ đầu tư. Các
bên không đạt được sự đồng thuận, nhất trí dẫn đến hiệu quả triển khai thấp,


1


hàng loạt đơn thư khiếu nại của người dân liên quan đến vấn đề bồi thường,
GPMB, thậm chí nhiều địa phương còn phải điều chỉnh lại quy hoạch, sửa đổi
thiết kế dự án. Hệ quả kéo theo đó là tiến độ dự án bị ảnh hưởng, gây thiệt hại
về kinh tế cho doanh nghiệp, chủ đầu tư có nhu cầu sử dụng đất được thu hồi
và cho Nhà nước; làm mất ổn định chính trị- xã hội ở các địa phương. Thực tế
này địi hỏi chính sách về đất đai, nhất là chính sách về bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư cần phải khơng ngừng được hồn thiện hơn nữa nhằm nâng cao
hiệu quả của công tác thực thi pháp luật trong thực tế.
Xuất phát từ nhu cầu trên, tôi chọn đề tài: “Bồi thường thiệt hại khi
Nhà Nước thu hồi đất theo luật đất đai năm 2013” để nghiên cứu làm Luận
văn Thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất là một trong những chế
định quan trọng của pháp luật đất đai. Do đó vấn đề này đã và đang được các
nhà khoa học, các nhà quản lý rất quan tâm. Đã có một số cơng trình nghiên
cứu chủ yếu sau:
Các bài viết gồm có: “Bàn về giá đất theo quy định của Luật đất đai
năm 2003” của Ths. Phạm Xn Hồng- Tạp chí nghiên cứu lập pháp số
07/2004; “Bàn về giá đất khi bồi thường nên cao hay thấp” của Ths. Đặng
Anh Quân- Tạp chí Tài ngun và Mơi trường số 08/2005; “Giải phóng mặt
bằng cịn nhiều khiếu kiện” của GS.TSKH. Đặng Hùng Võ- Báo kinh tế và
Đơ thị số ra ngày 09/10/2006; “Bình luận các quy định về thu hồi đất và bồi
thường khi thu hồi đất trong dự thảo Luật đất đai (sửa đổi)” của TS.
Nguyễn Quang Tuyến- Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 12/2008; “Vấn đề
thu hồi đất và bồi thường khi thu hồi đất trong Dự thảo Luật đất đai (sửa
đổi, bổ sung)” của TS. Nguyễn Quang Tuyến- Tạp chí Luật học số 12/2008;

“Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ”

2


của Ths. Lê Ngọc Thạnh- Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 6/2009;
“Pháp luật về thu hồi đất khi thực hiện quy hoạch và chế định trưng dụng
đất trong pháp luật Việt Nam” của tác giả Phan Trung Hiền- Tạp chí Luật
học số 03/2011; “Vấn đề lý luận xung quanh khái niệm bồi thường thiệt hại
khi Nhà nước thu hồi đất” của PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến- Tạp chí Luật
học số 01/2009; “Công khai minh bạch để bảo vệ quyền lợi của người bị thu
hồi đất” của Ts. Nguyễn Quang Tuyến- Tạp chí Luật học số 03/2012; v.v.
Các bài viết chủ yếu bàn về vấn đề thu hồi đất, giá đất và vấn đề bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nói chung.
Các đề tài nghiên cứu khoa học, báo cáo hay luận văn nghiên cứu các
vấn đề lý luận, thực tiễn về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất,
gồm: Luận văn Thạc sĩ Luật học của Ths. Dương Tấn Vinh về “Khía cạnh
pháp lý về hoạt động bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi
đất để thực hiện dự án- Thực trạng và giải pháp” năm 2006; Luận văn Thạc
sĩ Luật học của Ths. Nguyễn Duy Thanh về “Tìm hiểu pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thông qua thực tiễn áp
dụng của Hà Nội” năm 2008; Luận văn Thạc sỹ Luật học của Ths. Nguyễn
Thị Tâm về “Pháp luật về thu hồi đất trong việc giải quyết mối quan hệ giữa
Nhà nước- nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi” năm 2012; Luận văn Thạc
sĩ Luật học của Ths. Bùi Bảo Tuấn về “Áp dụng pháp luật trong giải quyết
khiếu nại về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội” năm 2012; Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp trường của TS. Nguyễn Thị Nga về “Pháp luật bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất- thực trạng và hướng hoàn
thiện” năm 2013; Luận án Tiến sĩ Luật học của TS. Phạm Thu Thủy về
“Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp”

năm 2014.
Một số hội thảo khoa học như: Hội thảo “Tiếp tục đổi mới chính sách,

3


pháp luật đất đai trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” tổ
chức tại Hải Phịng ngày 28-29/6/2011; Hội thảo “Tài chính đất đai, giá đất
và cơ chế, chính sách trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư” do Viện Nghiên
cứu chiến lược Tài nguyên và Môi trường- Tổng cục Quản lý đất đai (Bộ Tài
nguyên và Môi trường) tổ chức tại Hà Nội ngày 12/7/2011.Hội thảo “Thi
hành pháp luật về đất đai ở Việt Nam- thực trạng và những giải pháp hoàn
thiện” tổ chức tại Thừa Thiên Huế ngày 27-28/8/2012, trong đó nổi bật là các
tham luận liên quan tới bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất như
“Những điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện chính sách, pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất- thực trạng và kiến
nghị” của PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến; “Định giá đất và phân cấp trong
việc định giá đất; cập nhật, quản lý hệ thống thông tin về giá đất, đáp ứng
yêu cầu quản lý của Nhà nước và góp phần phát triển thị trường bất động sản
ở nước ta” của TS. Trần Kim Chung.
Các cơng trình nghiên cứu trên của các nhà khoa học ở mức độ nhất
định đã có nghiên cứu về thu hồi đất và bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu
hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế- xã hội vì lợi ích
quốc gia, cơng cộng, tuy nhiên các nghiên cứu này cịn dừng ở góc độ chung
hoặc ở một địa phương cụ thể mà chưa nghiên cứu chuyên sâu pháp luật về
bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phịng, an
ninh, phát triển kinh tế- xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng, đặc biệt là sau
khi Luật đất đai 2013 được ban hành và có hiệu lực.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứ đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
cơ bản của pháp luật về bổi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Trên cơ
sở đó, đánh giá thực trạng qui định của pháp luật về bồi thường thiệt hại khi

4


Nhà nước thu hồi đất, nhất là các qui định của Luật đất đai năm 2013 về bồi
thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất; đánh giá thực tiễn thực hiện các qui
định này trong đời sống xã hội. Từ đó, rút ra các ưu điểm và hạn chế các qui
định của Luật Đất đai năm 2013 về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi
đất cũng như những kết quả đạt được và hạn chế trong thực hiện các qui định
này trong thực tế đời sống sau khi Luật Đất đai năm 2013 được ban hành; đề
xuất các giải pháp hồn thiện pháp luật đất đai nói chung, các qui định pháp
luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng, nhằm đáp ứng
có hiệu quả các yêu cầu do thực tiễn cuộc sống, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện
nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu tổng quát trên đây, luận văn có những mục tiêu
cụ thể sau:
- Nghiên cứu làm sáng rõ một số vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về
bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất như: làm rõ khái niệm, đặc
điểm, vai trò, các yếu tố chi phối tới pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất, nội dung của pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước
thu hồi đất;
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất, đặc biệt qui định của Luật Đất đai năm 2013 về bồi
thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất;
- Nghiên cứu đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt

hại khi Nhà nước thu hồi đất, nhất là thực tiễn thực hiện sau khi luật đất đai
năm 2913 được ban hành. Qua đó chỉ ra được các quy định phù hợp, chưa phù
hợp của pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, cũng như
những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện và nêu nguyên nhân của
tình trạng này;

5


- Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật đất
đai, pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất; giải pháp nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi
đất trong thực tế đời sống kinh tế- xã hội.
4. Đối tương, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan hệ pháp luật về bồi
thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, thực trạng các qui định pháp luật
về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, nhất là các qui định về bồi
thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất theo luật đất đai năm 2013 và thực
tiễn thực hiện các qui định pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước
thu hồi đất.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn ở việc nghiên cứu, hệ thống
hóa một số vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về bồi thường thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất; thực trạng cũng như thực tiễn thực hiện của pháp luật
về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sau khi luật đất đai năm 2013
được ban hành. Cụ thể luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về bồi
thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho mục đích quốc phịng,
an ninh, để phát triển kinh tế-xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng theo luật
đất đai năm 2013.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên các phương pháp luận của Chủ nghĩa

Mác- Lenin, cụ thể là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy
vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường. Đây
là phương pháp luận được sử dụng trong toàn bộ luận văn để giải quyết những
vấn đề nghiên cứu mà đề tài luận văn đặt ra.
Bên cạnh phương pháp luận nêu trên, luận văn còn sử dụng các phương

6


pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp điều tra, thu thập số liệu, tài liệu: sử dụng để thu thập
thôn tin tư liệu về công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp tại một số dự án phực vụ cho mục đích đánh giá
- Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá: chủ yếu sử
dụng trong việc tổng hợp các số liệu trong các quyết định của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại khi Nhà nước
thu hồi đất, cũng như thực tiễn áp dụng. Phương pháp này cịn được sử dụng
để có được các nhận xét, đánh giá trình bày trong luận văn.
- Phương pháp so sánh: áp dụng trong việc so sánh, đối chiếu các quy
định của pháp luật, tìm ra các điểm bất cập, chưa phù hợp, chưa thống nhất
trong hệ thống pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất,
thơng qua đó rút ra được những điểm mới, tiến bộ cũng như đánh giá tính
thống nhất của các văn bản pháp luật liên quan đến bồi thường thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là cơng trình chun khảo có hệ thống và tồn diện, góp phần
hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật về bồi thường thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã
hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Thông qua các giải pháp đề tài đề xuất góp

phần hồn thiện hơn nữa hệ thống lý luận cũng như cung cấp thông tin cho
các cơ quan, cán bộ, cơng chức có thẩm quyền trong đổi mới, nâng cao hiệu
quả của công tác thu hồi đất, bồi thường thiệt hại cho người dân khi Nhà nước
thu hồi đất vì mục đích quốc phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi
ích quốc gia, công cộng.
Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các cơ quan Nhà nước trong việc
xây dựng kế hoạch phát triển đô thị, quản lý và sử dụng đất đai có hiệu quả;
ngăn ngừa và hạn chế nguyên nhân phát sinh khiếu nại, đưa ra các giải pháp

7


nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước
thu hồi đất.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, cấu trúc
luận văn bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về bồi thường
thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước
thu hồi đất và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

1.1. Khái niệm về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1. Nhà nước thu hồi đất và thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất
Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, là tài sản thuộc sở hữu toàn
dân mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Đất đai nếu được quản lý và sử
dụng hợp lý sẽ trở thành một nguồn lực quan trọng trong sự phát triển của đất
nước. Tuy Nhà nước không trực tiếp sử dụng đất đai mà giao đất, cho thuê đất
cho các hộ gia đình, tổ chức, cá nhân để sinh sống, sản xuất, kinh doanh và
khi cần sử dụng đất vào mục đích quốc phịng an ninh, phát triển kinh tế- xã
hội, phục vụ lợi ích cộng đồng hoặc trong trường hợp người sử dụng đất vi
phạm quy định pháp luật đất đai thì Nhà nước ra quyết định thu hồi đất.
Thu hồi đất không chỉ là biện pháp pháp lý mà thơng qua đó, Nhà nước
chấm dứt quyền sử dụng đất của chủ thể đang sử dụng đất để phục vụ cho một
mục đích nhất định, mà thông qua việc thu hồi đất, Nhà nước thiết lập một
quan hệ sử dụng mới phù hợp với lợi ích của cộng đồng và xã hội.
Giáo trình Luật Đất đai năm 2006- Trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra
định nghĩa về thu hồi đất như sau:
Thu hồi đất là văn bản hành chính của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền nhằm chấm dứt một quan hệ pháp Luật Đất đai để phục
vụ lợi ích của Nhà nước, của xã hội hoặc xử lý hành chính hành vi
vi phạm pháp Luật Đất đai của người sử dụng đất [19].
Có quan điểm cho rằng thu hồi đất là việc:
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất
của người vi phạm quy định về sử dụng đất để Nhà nước giao cho
người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ sử đụng đất hợp pháp.

9


Trường hợp cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người
sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phịng, an ninh, lợi ích

quốc gia, lợi ích cơng cộng [36].
Mặc dù có đề cập đến các trường hợp Nhà nước thu hồi đất như thu hồi
do người sử dụng đất vi phạm quy định của pháp luật đất đai và thu hồi đất để
sử dụng vào mục đích quốc phịng, anh ninh, lợi ích quốc gia, cơng cộng
nhưng định nghĩa này chưa bao qt mang tính bao quát và thể hiện đúng bản
chất của hoạt động Nhà nước thu hồi đất nên đây chưa thể coi là một định
nghĩa rõ ràng, cụ thể.
Thu hồi đất là biện pháp pháp lý quan trọng nhằm thể hiện quyền sở
hữu toàn dân đối với đất đai mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, làm phát
sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp Luật Đất đai. Nhà nước với tư cách
là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý đất đai, có quyền phân bổ, điều
chỉnh quy hoạch sử dụng đối với đất đai; vì mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội,
Nhà nước có quyền phân bổ, điều chỉnh đất đai, có quyền lập kế hoạch và
thực hiện xác lập, thay đổi, chấm dứt quyên sử dụng đất của đối tượng này để
xác lập cho đối tượng khác. Việc này cũng được quy định tại Hiến pháp 2013,
đó là “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường
hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phịng, an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng….”.
Theo pháp luật đất đại hiện hành, Luật đất đai 2013 quy định “Nhà
nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của
người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử
dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai” [26, Điều 4, Khoản 11].
Vậy có thể hiểu Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định thu hồi lại
đất và quyền sử dụng đất trước đó đã giao cho các chủ thể sử dụng đất theo
quy định của pháp luật về đất đai. Hệ quả của việc thu hồi đất là chấm dứt

10


quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân, hộ gia đình đang khai thác, sử

dụng trên mảnh đất đó. Thu hồi đất xuất phát từ nhu cầu của Nhà nước và xã
hội. Nhà nước ra quyết định thu hồi đất của tổ chức, cá nhân trong trường
hợp việc sử dụng đất theo pháp luật đã chấm dứt, chủ thể đang sử dụng đất
tự nguyện trả lại đất, hoặc việc sử dụng đất có nguy cơ đe dọa tính mạng con
người. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng tiến hành thu hồi đất khi người sử dụng
đất có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai, không tuân thủ các quy định của
Nhà nước về quản lý và sử dụng đất, vi phạm với mức độ và quy mô nghiêm
trọng dẫn tới hậu quả là Nhà nước cần chấm dứt quyền sử dụng đất của họ.
Ngoài ra, trên thực tế, đa số các trường hợp Nhà nước ra quyết định thu hồi
đất vì mục đích quốc phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích
quốc gia, cơng cộng
Vậy có thể hiểu Thu hồi đất vì mục đích quốc phịng, an ninh; phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng là việc Nhà nước ra quyết
định thu hồi lại đất và quyền sử dụng đất trước đó đã giao cho các chủ thể sử
dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai để phục vụ mục đích quốc
phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng mà
hệ quả là chấm dứt quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân, hộ gia đình đang
khai thác, sử dụng trên mảnh đất đó.
Thu hồi đất vì mục đích quốc phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội
vì lợi ích quốc gia, cơng cộng trên cơ sở quyết định thu hồi đất của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền gây ra những thiệt hại khơng nhỏ, nó khơng chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến người dân đang sử dụng đất bị thu hồi mà cịn có ảnh
hưởng cả cộng đồng. Thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc
phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng là
những thiệt hại mà người dân phải gánh chịu có nguồn gốc trực tiếp hoặc gián
tiếp từ hoạt động thu hồi đất. Quá trình thu hồi đất được tính từ khi kế hoạch

11



sử dụng đất hàng năm được cơ quan quản lý Nhà nước ở cấp huyện công bố,
đến khi người dân, người có diện tích đất bị thu hồi ổn định cuộc sống tại nơi
ở mới (nếu có di chuyển chỗ ở). Như vậy, kể từ thời điểm công bố kế hoạch
sử dụng đất hàng năm, điểm xuất phát của thiệt hại (nếu có) có thể phát sinh
từ thời điểm này; tuy nhiên, khi kết thúc quá trình thu hồi đất, tức là quyết
định thu hồi đất có hiệu lực thì vẫn có thể chưa phải là thời điểm chấm dứt
các loại thiệt hại. Các thiệt hại phát sinh từ việc Nhà nước thu hồi đất có thể
liệt kê như sau: Thiệt hại về đất; Thiệt hại về tài sản trên đất; Thiệt hại về các
chi phí đầu tư vào đất; Thiệt hại về sinh kế của người có đất bị thu hồi; Thiệt
hại về tinh thần.
Thứ nhất, thiệt hại về đất. Hiện nay đất ở Việt Nam được phân thành
ba nhóm đất: đất nơng nghiệp, đất phi nơng nghiệp và đất chưa sử dụng. Có
thể thấy mục đích “nơng nghiệp” là tâm điểm khi pháp luật lấy mục đích sử
dụng đất làm căn cứ để phân loại đất. Sở dĩ có tính chất quan trọng như vậy vì
tính đến năm 2014, diện tích nhóm đất nơng nghiệp ở Việt Nam là hơn 26
nghìn ha, chiếm khoảng 80% trong tổng diện tích đất tự nhiên [4]. Như vậy,
khơng chỉ là một diện tích đất của người nơng dân bị ảnh hưởng, thu hẹp hoặc
mất đi mà khi Nhà nước thu hồi đất, đặc biệt đất nông nghiệp là tác động trực
tiếp đến tư liệu sản xuất của người nơng dân. Ngồi ra đất đai còn là nơi sinh
sống của người dân, như vậy khi Nhà nước thu hồi đất là làm mất đi hoặc
giảm không gian sống, sinh hoạt của người dân. Nếu thu hồi tồn bộ diện tích
đất đồng nghĩa với tồn bộ khơng gian sống, sinh hoạt của người dân bị mất
đi, họ sẽ phải tìm một nơi định cư mới hoặc được Nhà nước hỗ trợ, sắp xếp
cho nơi định cư mới. Nếu chỉ thu hồi một phần diện tích, so với trước đó,
khơng gian sống của người dân đã bị giảm sút, thu hẹp lại, hoặc trường hợp
khơng gian sống, sinh hoạt cịn lại khơng đủ để tiếp tục sử dụng thì cũng gây
nên thiệt hại đối với người bị thu hồi. Ngồi ra, đất cịn là địa điểm kinh

12



doanh, là nơi đặt trụ sở, nhà máy, kho hàng, xưởng sản xuất của các doanh
nghiệp, là nơi kinh doanh, bn bán của các hộ kinh doanh, hộ gia đình, cá
nhân. Việc đất bị thu hồi khơng chỉ diện tích đất bị mất đi mà còn ảnh hưởng
đến thu nhập. Bởi theo phong thủy của người Việt, đất đai đóng vai trò rất
quan trọng trong đời sống thường nhật cùng với hoạt động làm ăn, kinh doanh
của họ. Tính ổn định, bình an trong cuộc sống, doanh thu kinh doanh, sự phát
triển của công việc được tin là phụ thuộc nhiều vào yếu tố phong thủy của
mảnh đất họ ở và kinh doanh. Nên việc thu hồi đất, buộc họ phải di dời đến
nơi ở, kinh doanh mới có thể gây ra ảnh hưởng khơng nhỏ. Nhìn chung, khi
Nhà nước thu hồi đất, thiệt hại về đất là loại thiệt hại dễ dàng nhận thấy và là
thiệt hại đầu tiên mà người đang sử dụng đất phải gánh chịu, kéo theo đó là
rất nhiều các thiệt hại khác.
Thứ hai, thiệt hại về tài sản gắn liền với đất, bao gồm thiệt hại về nhà,
cơng trình xây dựng trên đất, vật kiến trúc; và thiệt hại về cây trồng, vật nuôi
trên đất.
Với thiệt hại về nhà, cơng trình xây dựng, vật kiến trúc, các văn bản
pháp luật về xây dựng chưa khái niệm hóa “vật kiến trúc” để phân biệt rạch
rịi với “cơng trình xây dưng” tuy nhiên do các cơng trình này đa số gắn
liền với đất (ngoại trừ nhà tiền chế...) nên chắc chắn sẽ thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi diện tích đất có cơng trình đó. Thiệt hại ở đây có thể tồn bộ
cơng trình hoặc một phần cơng trình, thực tế cho thấy, thiệt hại có thể là
tồn bộ cơng trình nếu như phần cịn lại khơng cịn sử dụng được so với
mục đích sử dụng ban đầu, cũng có thể là thiệt hại một phần diện tích thiệt
hại vì nếu phần cịn lại có thể sửa chữa cải tạo với đúng mục đích ban đầu.
Trường hợp này pháp luật đất đai hiện hành cũng đã có dự liệu tại Luật Đất
đai 2013, đó là:
Đối với nhà ở, cơng trình phục vụ sinh hoạt gắn liền với đất

13



của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi
Nhà nước thu hồi đất phải tháo dỡ tồn bộ hoặc một phần mà phần
cịn lại không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp
luật thì chủ sở hữu nhà ở, cơng trình đó được bồi thường bằng giá
trị xây dựng mới của nhà ở, cơng trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương
đương [26, Điều 89, Khoản 1].
Tương tự như đất đai, có trường hợp Nhà nước không thu hồi đất
nhưng chủ thể vẫn bị thiệt hại về nhà, cơng trình xây dựng, vật kiến trúc do
hạn chế khả năng sử dụng hoặc phải thay đổi mục đích sử dụng đối với đất,
trường hợp này pháp luật Việt Nam cũng quy định bồi thường (Điều 94 Luật
Đất đai 2013 và điều 10 nghị định 47/2014/NĐ- CP).
Với thiệt hại về cây trồng, vật nuôi, thiệt hại đối với cây trồng bao gồm
cây trồng hàng năm và cây trồng lâu năm. Suy cho cùng, thiệt hại đối với cây
trồng không chỉ là giá trị của vườn cây tại thời điểm phải bàn giao đất mà
trong một số trường hợp nhất định chính là thiệt hại đối với hoạt động sản
xuất nông nghiệp của người nông dân, mà hoạt đông sản xuất này đã đem đến
thu nhập ổn định cho họ từ trước đến nay. Thiệt hại đối với vật nuôi thông
thường là thiệt hại do thu hoạch sớm đối với vật nuôi là thủy sản. Tương tự
như cây trồng thiệt hại đối với vật nuôi không chỉ là thiệt hại do thu hoạch
sớm, mà quan trọng hơn chính là thiệt hại do thu hẹp hoặc chấm dứt hoạt
động nuôi trồng thủy sản của người nông dân.
Tương tự như đất đai và cơng trình xây dựng, có trường hợp Nhà nước
khơng thu hồi đất nhưng chủ thể vẫn bị thiệt hại về cây trồng, vật nuôi do hạn
chế khả năng sử dụng hoặc phải thay đổi mục đích sử dụng đối với đất. Ví dụ
do làm đường, ngăn sơng dẫn đến khơng cịn mạch nước ngầm, ảnh hưởng
đến việc nuôi trồng thủy sản hoặc trồng cây lâu năm.
Thứ ba, thiệt hại về các chi phí đầu tư trên đất. Trong quá trình sử dụng


14


đất, đặc biệt là đất nông nghiệp, người sử dụng đất đã có những đầu tư để làm
tăng giá trị, hiệu quả bảo vệ, sử dụng, độ màu mỡ của đất… với những chi phí
nhất định phù hợp với mục đích sử dụng đất. Thiệt hại về chi phí đầu tư vào
đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất là các chi phí mà người sử dụng đất đã
đầu tư vào đất phù hợp với mục đích sử dụng đất, nhưng đến thời điểm cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất còn chưa thu hồi hết
Thứ tư, thiệt hại về sinh kế của người sử dụng đất. Sau khi thu hồi đất,
diện tích đất sử dụng của người dân bị ảnh hưởng, có thể là khơng cịn đất sản
xuất hoặc diện tích đất cịn rất ít không đủ để tiếp tục sản xuất, và nhận một
khoản tiền bồi thường thiệt hại, hỗ trợ không đủ để tái lập cuộc sống như
trước đây. Trước khi thu hồi đất, do có ruộng, vườn để sản xuất có thể thu
nhập không cao nhưng đời sống vẫn đảm bảo, giờ đây khi vào khu tái định cư
khơng cịn những nguồn thu nhập đó nữa, người dân có thể cần chuyển đổi
nghề nghiệp. Mặc dù nhận được tiền bồi thường tương ứng với những thiệt
hại mà người sử dụng đất phải gánh chịu do Nhà nước thu hồi đất nhưng họ
vẫn khơng có nghề nghiệp để duy trì, ổn định sinh kế. Người dân cần có chiến
lược, kế hoạch đầu tư, chi tiêu hợp lí để có thể sinh lời hoặc ít nhất có thể
giúp họ đảm bảo cuộc sống ở nơi sinh sống, sản xuất mới. Kết quả là sau một
thời gian ngắn sau khi bị thu hồi đất và đã tiêu hết tiền bồi thường, hỗ trợ, đời
sống lại trở nên bấp bênh bởi khơng có nguồn thu nhập ổn định như trước khi
Nhà nước thu hồi đất.
Thứ năm, thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại tinh thần bao gồm những
thiệt hại do quy hoạch quá hạn kéo dài gây tâm lý bất an cho người dân;
phương án giải phóng mặt bằng định cư dây lo lắng... dân gian có câu “an cư
lạc nghiệp”, vì vậy việc phải giao đất trong điều kiện chưa nhận được nền tái
định cư, hoặc chỉ mới nhận phiếu tái định cư trên giấy và khu tái định cư là
khoảng đất chưa hoàn thành cơ sở hạ tầng xã hội, thiếu những điều kiện tối


15


thiểu để có thể định cư được... là những trường hợp gây hoang mang, lo lắng
cho người thuộc diện tái định cư phải di chuyển. Ngoài ra, đất đai là nơi sinh
sống, gắn liền với cộng đồng dân cư, việc thu hồi đất ở của người dân, mặc
dù được tái định cư ở nơi ở mới nhưng điều đó đồng nghĩa với việc họ phải
chuyển đi khỏi môi trường sống, ra khỏi cộng đồng của họ vẫn ở từ trước
đến nay. Như vậy gây nên sự xáo trộn, thiếu gắn kết trong cộng đồng dân cư
và có thể gây ra cú sốc về môi trường sống, về sinh hoạt cho người dân,
Ngồi việc là nơi ở, đất đai cịn gắn tới vấn đề tâm linh khi đó có thể là nơi
chơn cất mồ mả của tổ tiên, cha ơng, vì vậy khi Nhà nước thu hồi đất mà
phải di chuyển mồ mả, có thể gây ảnh hưởng tâm lý khơng chỉ của người có
quyền sử dụng diện tích đất đó mà cịn có thể ảnh hưởng đến tâm lý của họ
hàng, người thân của họ.
1.1.2. Bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất
Quyền sở hữu tài sản hợp pháp của mọi cá nhân, tổ chức luôn được
Hiến pháp và pháp luật bảo vệ, khi Nhà nước thu hồi đất thì tài sản hợp pháp
của cá nhân gắn liền với đất vị thu hồi cũng cần được bồi thường theo giá trị
phù hợp. Đất được coi là tư liệu sản xuất quan trọng đối với đa số người dân,
là nguồn sống, là văn hóa của họ. Khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất để thực
hiện những mục đích nhất định là đã chạm tới quyền lợi của người dân. Do
đó, việc bồi thường, hỗ trợ là thực sự cần thiết.
“Bồi thường” có thể coi là một biện pháp nhằm khôi phục những thiệt
hại do một bên gây ra cho bên kia. Hoặc theo Từ điển tiếng Việt thông dụng,
“Bồi thường là đền bù những tổn hại gây ra” [41]. Về mặt pháp lý, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định theo pháp luật dân sự bao gồm bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo quy định của

Luật dân sự 2015 được áp dụng khi có một bên trong quan hệ hợp đồng vi

16


phạm nghĩa vụ, mà hành vi vi phạm gây thiệt hại cho bên kia. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được áp dụng khi đáp ứng đủ các điều
kiện: có thiệt hại thực tế xảy ra, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật,
có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại, và có lỗi của
bên gây thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được đặt ra khi Nhà
nước đã thực hiện một hành vi trái pháp luật và gây ra thiệt hại. Cụ thể tại
Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước 2009 có quy định về việc Nhà nước
chịu trách nhiệm bồi thường cho tổ chức, cá nhân bị thiệt hại về vật chất, tổn
thất về tinh thần do lỗi của người thi hành công vụ gây ra trong quá trình thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được Nhà nước giao. Tuy nhiên, trong lĩnh vực
pháp Luật Đất đai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất
có bản chất khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ
Luật dân sự 2015 và trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo Luật trách
nhiệm bồi thường Nhà nước 2009.
Trước hết, bản chất của việc thu hồi đất theo quy định của pháp Luật
Đất đai là việc Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu về đất đai, ra
quyết định và thực hiện việc thu hồi đất của tổ chức, cá nhân vì lợi ích của
tồn xã hội. Hơn nữa, mặc dù có thiệt hại xảy ra đối với người sử dụng đất
nhưng đây không phải hành vi trái pháp luật, mà là vì lợi ích chung của
tồn xã hội.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đặt ra khi Nhà nước thu hồi đất
để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì
lợi ích quốc gia, cơng cộng mà gây ra thiệt hại cho người đang sử dụng đất.
Đối với những người sử dụng đất hợp pháp, có lợi ích chính đáng cần được
bảo vệ thì Nhà nước với tư cách là đại diện cho quyền lợi của nhân dân phải

thực hiện khơi phục các quyền lợi đó, khắc phục những thiệt hại xảy ra để
đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người dân, đồng thời tạo điều kiện

17


thuận lợi, nhanh chóng cho q trình thu hồi đất.
Như vậy có thể hiểu, bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất là
việc Nhà nước bù đắp những thiệt hại về đất và tài sản trên đất, cùng với các
thiệt hại khác do hành vi thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phịng, an
ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phịng,
an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng có những đặc
điểm cơ bản như sau:
- Bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc
phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng phát
sinh trên cơ sở quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
nhằm thực hiện chức năng của đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai. Việc
bồi thường này không dựa trên cơ sở một hành vi vi phạm làm cho bồi thường
thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phịng, an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng khác với trách nhiệm bồi
thường do vi phạm hợp đồng và trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng theo
chế định của pháp luật dân sự.
- Chủ thể thực hiện bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vì
mục đích quốc phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
cơng cộng là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
- Đối tượng được bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục
đích quốc phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng
cộng là các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất hợp pháp theo quy định
của pháp luật khi Nhà nước ra quyết định thu hồi đất.

- Phương thức bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục
đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng
cộng được pháp luật quy định cụ thể, bao gồm: bồi thường bằng đất hoặc

18


bằng tiền với giá trị tương đương, hỗ trợ, bồi thường bằng nhà ở (hay còn gọi
là tái định cư).
- Thủ tục bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích
quốc phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng
thơng thường theo thủ tục hành chính mà khơng phải theo sự thỏa thuận của
các bên trong quan hệ pháp luật.
 Phân biệt bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất với hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Việc Nhà nước thu hồi đất gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và
việc làm của người dân bởi người dân cần đất để sinh sống, sản xuất, lao
động. Vì vậy, ngồi việc xem xét bù đắp các thiệt hại của người dân bằng
cách bồi thường, Nhà nước cần lên kế hoạch hỗ trợ người dân để họ mau
chóng ổn định cuộc sống, có chỗ ở đảm bảo và có việc làm. Vì vậy, khi Nhà
nước thu hồi đất vì mục đích quốc phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội
vì lợi ích quốc gia, cơng cộng, ngồi quy định về bồi thường thiệt hại cho
người đang sử dụng đất bị thu hồi, pháp luật cịn có quy định về hỗ trợ và tái
định cư cho người dân.
Bồi thường thiệt hại, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đều là
một trong những chính sách của Nhà nước nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người sử dụng đất. Các biện pháp này thực hiện với mục đích bù
đắp những thiệt hại xảy ra khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất, đồng thời giúp
người dân nhanh chóng ổn định cuốc sống để tập trung sản xuất, dần cải thiện
và nâng cao mức sống. Tuy nhiên, đây vẫn là các biện pháp riêng biệt, được

áp dụng tùy vào từng trường hợp cụ thể theo quy định của pháp luật.
- Bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc
phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng là
hậu quả pháp lý trực tiếp do hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra, nó

19


phát sinh khi có quyết định hành chính về thu hồi đất của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền. Bồi thường thiệt hại được áp dụng cho cả trường hợp
Nhà nước thu hồi đất ở hay thu hồi đất nông nghiệp. Nhà nước có thể bồi
thường bằng đất, bằng tiền hay bằng nhà ở, các phương thức bồi thường
thiệt hại được áp cho từng trường hợp cụ thể được quy định đầy đủ theo
quy định của pháp luật;
- Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người
có đất bị thu hồi để họ mau chóng có thể ổn định đời sống, sản xuất và phát
triển. Nhà nước hỗ trợ người dân trong việc di chuyển nếu họ phải chuyển đi
nơi ở, nơi sản xuất, kinh doanh khác; hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo
việc làm cho người dân nếu họ khơng cịn đất để sản xuất, kinh doanh hoặc
diện tích đất cịn lại sau thu hồi khơng đủ để có thể sản xuất, kinh doanh.
- Tái định cư là một phương thức bồi thường thiệt hại nhưng chỉ áp
dụng trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất ở làm cho người đang sử dụng
đất bị thu hồi khơng cịn đất để ở hoặc diện tích đất cịn lại khơng đáp ứng đủ
điều kiện để ở khiến họ không thể tiếp tục làm ăn, sinh sống tại nơi ở cũ, trên
mảnh đất mà họ có quyền sử dụng đất hợp pháp, mà phải di rời đến nơi ở mới
gây cho họ nhiều thiệt hại.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật về bồi thường thiệt
hại khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về bồi thường thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất

Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, Nhà nước thay mặt
cho nhân dân thực hiện quyền của chủ sở hữu, quan hệ pháp luật về đất đai
phát sinh khi Nhà nước thực hiện việc giao đất, cho thuê đất hay thu hồi đất.
Khi Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng thông qua giao đất,
cho thuê đất, được coi là quyền tài sản và phải được Nhà nước bảo hộ bằng
pháp luật. Quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất

20


×