Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự qua thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ QUA THỰC TIỄN
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành:

LUẬT KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ QUA THỰC TIỄN
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành:

LUẬT KINH TẾ


Giảng viên hướng dẫn

: ThS. NGUYỄN VĂN THẠCH

Sinh viên thực hiện

: PHẠM THANH THIỆN

MSSV

: 1511270797

Tp. Hồ Chí Minh - 2018

Lớp: 15DLK08


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô tại khoa Luật Kinh tế của
trường Đại học Cơng Nghệ Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tơi trong
suốt q trình học tập tại trường. Trên thực tế khơng có sự thành công nào mà không
gắn liền với những sự hỗ trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của các
Thầy, Cô và bạn bè. Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại học
đến nay, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý thầy cô, gia đình và
bạn bè.
Với lịng biết ơn sâu sắc nhất, tơi xin gửi lời cảm ơn đến Ths. NGUYỄN VĂN
THẠCH đã hết lịng tạo điều kiện và hướng dẫn tơi hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
Trong q trình thực hiện khóa luận, do chưa có kinh nghiệm thực tiễn nên
khơng tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý của quý Thầy, Cô
cũng như quý đọc giả để tơi có thể rút ra được những kinh nghiệm và ngày càng hồn

thiện bản thân hơn.
Cuối lời, tơi xin kính chúc tồn thể q Thầy, Cơ, gia đình và bạn bè luôn luôn
khỏe mạnh và thành công trong công việc.
Trân trọng cảm ơn!

Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

Phạm Thanh Thiện


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: PHẠM THANH THIỆN, MSSV: 1511270797
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong khóa luận tốt nghiệp này
được thu thập từ nguồn thực tế, trên các sách báo khoa học chuyên ngành (có trích dẫn
đầy đủ và theo đúng qui định);
Nội dung trong báo cáo này do kinh nghiệm của bản thân được rút ra từ q
trình nghiên cứu và thực tế, KHƠNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu, báo cáo khác.
Nếu sai sót tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường và
pháp luật.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

Phạm Thanh Thiện


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
01
02


Tên
Thi hành án Dân sự
Chấp hành viên

Tên viết tắt
THADS
CHV


STT
01
02

Tên hình ảnh minh họa
Hình 1.1 Cuộc họp thống nhất giữa các thành phần tham gia
cưỡng chế
Hình 1.2 Chấp hành viên đọc quyết định cưỡng chế thi hành
án dân sự


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ......................................................................2
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài ....................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................4
5. Kết cấu của khóa luận ....................................................................................5

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ . . 6

1.1 Khái quát về cưỡng chế thi hành án dân sự .................................................6
1.1.1 Khái niệm thi hành án dân sự ...................................................................6
1.1.2 Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự ..................................................8
1.1.3 Đặc điểm về cưỡng chế thi hành án dân sự. ..............................................8
1.1.4 Nguyên tắc cưỡng chế thi hành án dân sự. ..............................................12
1.2 Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ...............................................14
1.2.1 Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự .................................................14
1.2.2 Thẩm quyền cưỡng chế thi hành án dân sự..............................................23
1.2.3 Chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự .....................................................24
1.2.4 Thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự .....................................................27

Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..................................... 36
2.1 Thực trạng cưỡng chế thi hành án dân sự tại Thành phố Hồ Chí Minh.36
2.1.1 Tình hình án phải thi hành và cưỡng chế tại Thành phố Hồ Chí Minh ...36
2.1.2 Những thuận lợi và tồn tại........................................................................37
2.2 Kiến nghị cưỡng chế thi hành án dân sự tại Thành phố Hồ Chí Minh ...50
2.2.1 Về xây dựng pháp luật ..............................................................................50
2.2.2 Về cơ chế phối hợp công tác cưỡng chế thi hành án ...............................52
2.2.3 Về thực hiện các quy định pháp luật cưỡng chế THADS .........................52
2.2.4 Về Chấp hành viên ...................................................................................53
2.2.5 Về quá trình tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS. .................................53
1


2.2.6 Một số đề xuất khác ..................................................................................54

KẾT LUẬN .................................................................................................... 56

2



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Thi hành án dân sự đươ ̣c coi là giai đoa ̣n cuố i cùng để giải quyế t mô ̣t vu ̣
viê ̣c, để thực thi mô ̣t bản án, quyế t định của Tòa án và các cơ quan có thẩ m quyề n.
Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động đưa bản án, quyết định có hiệu lực được
thi hành trên thực tế. Nó tác động trực tiếp đến lịng tin của người dân đối với pháp
luật. Vì vậy, hoạt động thi hành án dân sự thực hiện càng tốt thì càng chiếm được
lịng tin của nhân dân, giúp nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân và làm cho
đời sống xã hội được nâng cao.
Trong thi hành án dân sự, cưỡng chế thi hành án là một trong những biện
pháp mà Chấp hành viên lựa chọn để đảm bảo thi hành các Bản án, Quyết định của
Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được chấp hành,
đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
là biện pháp cứng rắn nhất mang tính quyền lực nhà nước nhằm khôi phục và bảo
vệ các quan hệ xã hội bị xâm hại và thường được Chấp hành viên lựa chọn áp dụng
nhằm thi hành nghĩa vụ trả tiền của người phải thi hành án theo Bản án, Quyết định
của cơ quan có thẩm quyền. Do đó, việc thi hành dứt điểm các bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng thuộc trường hợp
phải thi hành ngay trên thực tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo
trật tự, an tồn xã hội, tính nghiêm minh của pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Cưỡng chế THADS là một biện pháp phức tạp địi hỏi Chấp hành viên
phải có kỹ năng tồn diện, ngồi ra cịn cần sự phối hợp của các ngành, các cấp tổ
chức Nhà nước.
Trong nền kinh tế ngày càng phát triển như hiện nay, với bối cảnh Nhà
nước ta đang xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vô
số các quan hệ giao dịch được phát sinh mang tính phức tạp dẫn đến các tranh chấp
cũng ngày càng tăng với số lượng án đã xử phải thi hành cũng tăng. Tính đến ngày
30/9/2017, tổng số việc các cơ quan thi hành án dân sự trong toàn quốc phải thi

hành là 869.430 việc, đã thi hành xong là 549.415 việc, còn 320.015 việc (chiếm
20,75% tổng số việc phải thi hành) chưa thi hành được do người phải thi hành án
chưa có điều kiện thi hành án, không tự nguyện thi hành án dẫn đến cơ quan thi
hành án dân sự phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự (trong
năm 2017, các cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định cưỡng chế có huy động
1


lực lượng là 5.549 trường hợp)1. Hoạt động THADS nói chung và biện pháp cưỡng
chế THADS nói riêng mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững
trật tự xã hội, kỷ cương phép nước và đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thi hành
trên thực tế. Bên cạnh đó, các đề tài nghiên cứu về biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự cịn bị bó buộc trong một khuôn khổ nhất định không thể phát huy được một
cách tồn diện góc nhìn từ khoa học đến thực tiễn của một vấn đề. Mặt khác, đề tài
này sẽ là một sự cập nhật những quy định mới của pháp luật, giúp đọc giả có thể
nhìn nhận một cách rõ ràng và chính xác nhất.
Đối với pháp luật chuyên ngành, biện pháp cưỡng chế THADS cũng được
các nhà làm luật khá quan tâm, bởi đã định hình được tầm quan trọng của các biện
pháp cưỡng chế thi hành án, thậm chí nó cịn được xem như bộ phận không thể tách
rời của ngành THADS nước ta.
Xuất phát từ tầm quan trọng của biện pháp cưỡng chế và những bất cập còn
tồn tại trong hệ thống pháp luật THADS nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác
ngành thi hành án thì việc góp ý hồn thiện pháp luật về biện pháp cưỡng chế
THADS là một yêu cầu tất yếu, khách quan. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Pháp luật
về Cưỡng chế thi hành án dân sự” làm đề tài nghiên cứu và thực hiện khóa luật tốt
nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Thực tế cho thấy rằng đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về hoạt động
thi hành án dân sự cũng như các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Vì vậy,
việc tiếp cận đề tài khơng gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, các văn bản quy phạm về

biện pháp cưỡng chế THADS có số lượng khá lớn và gia tăng theo từng ngày, nên
địi hỏi phải ln có sự cập nhật một cách liên tục.
Mặc khác, hoạt động cưỡng chế thi hành án tác động trực tiếp đến quyền và
nghĩa vụ của các bên đương sự. Có nghĩa là, việc tiếp cận các quy định pháp luật
khơng khó nhưng tiếp cận các vấn đề thực tế thì vơ cùng khó khăn và phức tạp.
Trước những địi hỏi mang tính khách quan của cơng tác THADS, đã có những
cơng trình nghiên cứu về vấn đề này:

1

Báo cáo thống kê – Cổng thông tin điện tử Tổng Cục Thi hành án Dân sự-Bộ tư pháp

2


Đề tài: “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” ,
Luận án Tiến sĩ Luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
của tác giả Nguyễn Thanh Thủy, năm 2008.
Đề tài: “Cưỡng chế thi hành án dân sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn”
khoá luận tốt nghiệp của tác giả Dương Thu Hương, năm 2010.
Đề tài: “Biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản trong thi hành án dân sự” luận
văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thanh Phong, năm 2011.
Đề tài: “Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự” luận văn thạc sĩ luật học
của tác giả Phan Huy Hiếu, năm 2012.
Đề tài: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật Việt
Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội” luận văn thạc sĩ luật học của tác giả
Lê Xuân Tùng, năm 2016.
Đề tài: “Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam” ,
Luận án Tiến sĩ Luật học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả
Bùi Đức Tiến, năm 2018.

Về tổng quan, các tình hình nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ một số vấn đề
về lý luận lẫn thực tiễn ở một số địa bàn trên cả nước về hoạt động ngành thi hành
án dân sự nói chung và biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng. Tuy
nhiên, các văn bản quy phạm về biện pháp cưỡng chế THADS gia tăng theo từng
ngày, nên địi hỏi phải ln có sự cập nhật một cách liên tục.
Khóa luận đi sâu vào nghiên cứu, phân tích về các hoạt động cưỡng chế thi
hành án dân sự trên cơ sở lý luận từ các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Từ đó đánh giá thực trạng, thực tiễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự trong quá trình tổ chức cưỡng chế của Cơ quan thi hành án dân sự tại Thành
phố Hồ Chí Minh. Để thực hiện mục tiêu này, em đã đi sâu vào nghiên cứu và lập ra
2 nhiệm vụ chính để làm rõ.
Thứ nhất, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản và pháp lý về
cưỡng chế thi hành án dân sự.
Thứ hai, đánh giá tình hình áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
tại Thành phố Hồ Chí Minh, phân tích những kết quả đã đạt được và những hạn chế,
3


tồn đọng trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế trên địa bàn từ thực tiễn. Từ
đó, đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự.
Bài viết sẽ mang đến cho người đọc cái nhìn tồn diện về hoạt động thi
hành án của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, với sự cập nhật những
quy định pháp luật mới nhất. Bên cạnh đó, tác giả đã nghiên cứu, tiếp thu , kế thừa
và đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự hiện nay
để từ đó xác định những yếu tố để góp ý, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật
về cưỡng chế thi hành án dân sự và bảo đảm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
cải cách tư pháp, cải cách hành chính ở nước ta trong thời gian tới. Hi vọng bài viết
sẽ đem lại những thơng tin bổ ích đến cho người đọc.

3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Trong sự giới hạn nội dung của một Khóa luận tốt nghiệp, tác giả sẽ phân
tích về các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự từ cái nhìn pháp lý đến cái nhìn
thực tế. Trong phần quy định của pháp luật về biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự, đối tượng nghiên cứu là tổng hợp các quy định pháp luật hiện hành trong Luật
thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014 và các thơng tư, nghị định của Quốc
Hội, Chính Phủ, Cơ quan Thi hành án Dân sự Việt Nam về hoạt động thi hành án
nói chung và biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng. Bên cạnh đem đến
cho đọc giả những quy định hiện hành của pháp luật về biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự, tác giả sẽ kết hợp phân tích các vấn đề về hoạt động cưỡng chế thi
hành án dân sự trên thực tiễn từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật thi hành án dân sự và hạn chế một số bất cập trong công tác thực hiện cưỡng
chế thi hành án dân sự.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận tốt nghiệp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp với đối
tượng và nội dung nghiên cứu của đề tài trong điều kiện Việt Nam hiện nay, đó là:
Phương pháp kế thừa; Phương pháp đối chiếu với văn bản pháp quy phạm pháp
luật; Phương pháp thống kê; Phương pháp phân tích, so sánh và một số phương
pháp kết hợp khác.

4


Thơng qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam, có sự so
sánh, đối chiếu, khóa luận tốt nghiệp hướng tới mục đích nghiên cứu một cách có
hệ thống và đầy đủ các quy định về vấn đề Biện pháp cưỡng chế THADS. Để thực
hiện được mục đích nêu trên thì trước hết khóa luận tốt nghiệp có những mục tiêu
cụ thể sau:
Một là, nghiên cứu các quy định của pháp luật về các biện pháp cưỡng chế
THADS, trong đó tập trung vào các quy định pháp luật đang hiện hành.

Hai là, phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng, thi hành pháp luật về các
biện pháp cưỡng chế THADS trong các trường hợp cụ thể.
Ba là, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
các biện pháp cưỡng chế THADS.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần Mở đầu và Kết luận, bố cục khóa luận tốt nghiệp được chia làm
hai chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về cưỡng chế thi hành án dân sự
Chương 2: Thực tiễn về hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự và kiến
nghị.

5


Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ .
1.1 Khái quát về cưỡng chế thi hành án dân sự
1.1.1 Khái niệm thi hành án dân sự:
Thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định về dân
sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được
thi hành ngay trên thực tế. Theo quy định của Luật thi hành án dân sự và các văn
bản hướng dẫn thi hành, việc tổ chức thi hành án dân sự phải tuân thủ các trình tự,
thủ tục một cách nghiêm ngặt ngay từ khâu thụ lý, ra quyết định thi hành án đến quá
trình tổ chức thi hành. Luật thi hành án dân sự ra đời đáp ứng nhu cầu của các quan
hệ dân sự trong đời sống xã hội. Trên cơ sở này, hoạt động thi hành án dân sự nhằm
bảo vệ quyền và nghĩa vụ của đương sự, quyết định dân sự có hiệu lực của Toà án
phải được đảm bảo thi hành theo những trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Trên
tinh thần của Điều 106 luật Hiến pháp 2013 có đề cập “Bản án, quyết định của Toà
án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng;
cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.” đã nêu được

tầm quan trọng và cần thiết của hoạt động thi hành án dân sự, mang tính quyền lực
nhà nước để bảo đảm cho hoạt động thực thi pháp luật và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự trước sự chây ỳ, chống đối.
Thuật ngữ “thi hành án” xuất hiện nhưng khơng được định nghĩa cụ thể.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này do các nhà nghiên cứu đưa ra
nhưng những ý kiến đó đều được thể hiện rõ ở hai quan điểm.
Thứ nhất, quan điểm thứ nhất cho rằng thi hành án là một hoạt động của cơ
quan nhà nước, điều chỉnh và xử lý các bản án do cơ quan có thẩm quyền ban hành.
Trên tinh thần, có thể hiểu quan điểm này muốn đề cập đến một chuỗi hoạt động xét
xử vụ án của các cơ quan nhà nước, các hoạt động này có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau trong một thể thống nhất và xét xử là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố
tụng, cho nên bản án, quyết định của toà án là kết quả cuối cùng đánh dấu sự kết
thúc của quá trình tố tụng. Cơ quan thi hành án thi hành các bản án, quyết định đã
có hiệu lực của Tòa án thuộc giai đoạn kế tiếp và khơng thuộc q trình tố tụng.
Đồng tình với quan điểm này, GS.TS Lê Minh Tâm cho rằng “Thi hành án có mục
đích khác với mục đích của tố tụng, tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của vụ việc
đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở đó đưa ra phương án giải quyết vụ việc theo đúng
6


quy định của pháp luật còn thi hành án là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm
thực hiện các bản án, quyết định của Tịa án dã có hiệu lực pháp lực" 2
Thứ hai, quan điểm này lại cho rằng thi hành án là một giai đoạn của tố
tụng vì "Có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên cơ sở của của công
tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của q trình bảo vệ lợi ích
của đương sự".3 Quan điểm này thừa nhận không phải mọi hoạt động trong quá
trình thi hành án và quyết định của tòa án đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của
Luật tố tụng nhưng lại cho rằng thi hành án "thực chất là hoạt động tố tụng của Tòa
án, của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm bảo đảm cho bản án và quyết
định của tòa án được thi hành một cách chính xác, kịp thời".4 Vì vậy, có thể nói

cơng tác xét xử một vụ án của Tịa án là việc đi tìm chân lý và chân lý đó chỉ được
thể hiện trên văn bản, giấy tờ. Muốn nó trở thành hiện thực thì phải thơng qua hoạt
động thi hành án. Quá trình đi tìm chân lý và hiện thực hóa chân lý trải dài trong
suốt quá trình tố tụng đến khi chân lý được khẳng định trên thực tế thông qua hoạt
động thi hành án.
Theo quan điểm của tác giả, khái niệm thi hành án dân sự được thể hiện rất
rõ ràng và mang tính liên kết chặt chẽ thông qua quan điểm thứ hai. Thi hành án là
một giai đoạn tố tụng và là một sâu chuỗi liên kết với các cơ quan tố tụng để đưa
một bản án, quyết định có hiệu lực trở nên hiện thực hóa và kết thúc một vụ việc.
Nếu tách hoạt động thi hành án ra khõi một quá trình tố tụng thì sẽ khơng thực hiện
được mục tiêu chung của tồn bộ q trình tố tụng. Cơ quan thi hành án phải tác
động vào người phải thi hành án để đối tượng này tự giác thực hiện nghĩa vụ của
mình, trong trường hợp người phải thi hành án khơng có thiện chí, tự nguyện trong
việc thi hành án thì bị áp dụng biện pháp cưỡng chế. Từ đó có thể đưa ra kết luận
rằng “Khi chân lý được làm sáng tỏ thể hiện trong bản án, quyết định của Tịa án
thì mới dừng lại ở việc làm rõ đúng hay sao, phải hay trái trên văn bản, giấy tờ.
Muốn nó thực hiện trên thực tế, cần phải chờ ở hiệu quả của cơng tác thi hành án.
Vì vậy, thi hành án dân sự là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử. Ở giai đoạn
này, cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp được pháp luật quy định để đưa

2

Lê Minh Tâm (2001), Cưỡng chế thi hành án dân sự, khóa luận cử nhân luật, tr.1.

Nguyễn Cơng Bình - “Mấy vấn đề về thi hành án dân sự trong việc soạn thảo bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí luật học,
tr.43, 44.
4
Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường đại học luật Hà Nội, Nxb. CAND, Hà Nội 2000, tr.282.
3


7


chân lý trở thành hiện thực trong đời sống thực tế. Quá trình đi tìm chân lý kéo dài
suốt quá trình tố tụng cho tới khi chân lý được khẳng định trên thực tế.”5
1.1.2 Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự:
Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên trong q trình tổ chức thi hành án có
thể sử dụng nhiều phương pháp, cách thức để tổ chức thi hành sao cho đạt được
hiệu quả cao nhất. Nếu như tự nguyện thi hành án là một biện pháp đầu tiên, quan
trọng để các Chấp hành viên thi hành bản án, quyết định của Tịa án, nó chứa đựng
sự tự nguyện của các đương sự trên cơ sở kỹ năng giải thích, thuyết phục… của
Chấp hành viên thì cưỡng chế thi hành án lại chứa đựng những nội dung rất phức
tạp, đòi hỏi Chấp hành viên phải sử dụng tổng hợp nhiều kỹ năng và phải tuân theo
những trình tự, thủ tục chặt chẽ.
Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan
thi hành án do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc đương sự
(người phải thi hành án) phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo
bản án, quyết định của Tòa án được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành
án không tự nguyện thi hành án khi hết thời gian tự nguyện, hoặc trong trường hợp
cần ngăn chặn người phải thi hành án hủy hoại, tẩu tán tài sản.6
Cưỡng chế thi hành án dân sự là một biện pháp nghiêm khắc, thể hiện
quyền lực nhà nước, được Chấp hành viên áp dụng trong quá trình tổ chức thi hành
án để buộc người phải thi hành án thi hành bản án, quyết định mà tịa án đã tun,
đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay, việc tổ chức cưỡng chế không hề đơn
giản, thường vấp phải sự khiếu kiện của người dân. Vì vậy địi hỏi Chấp hành viên
cần nắm vững quy trình, kỹ năng tổ chức cưỡng chế cũng như nắm vững các quy
định của Luật thi hành án dân sự và pháp luật có liên quan.
1.1.3 Đặc điểm về cưỡng chế thi hành án dân sự:
Thứ nhất, cưỡng chế THADS là một biện pháp mang tính quyền lực nhà

nước. Nó mang tính chất quyền uy thể hiện qua việc bắt buộc người phải thi hành
án phải thực hiện nghĩa vụ của mình được quy định trong bản án có hiệu lực. Hoạt
Thơng tin Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (chuyên đề: Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thi hành án
hiện nay), tr.8-9.
6
Điều 46, Luật thi hành án dân sự 2008
5

8


động thi hành án dân sự mang tính hành chính – tư pháp nhằm thực hiện nhiệm vụ
của nhà nước thông qua các quy định pháp luật trong lĩnh vực tư pháp, bảo đảm
việc bản án được hiện thực hóa trên thực tế và các quyết định của Tòa án. Hoạt
động này được thực hiện bởi cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên là chủ
thể thực hiện quyền lực Nhà nước để thi hành bản án, quyết định theo quy định. Để
minh họa cho tính quyền lực của cơ quan thi hành án dân sự, tác giả xin đưa ra một
bản án đã được áp dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh:
“ Tại HĐ 052122 (Hợp đồng có biện pháp bảo đảm) có nêu vợ chồng ông
Lai vay ông Tuệ 1,2 tỷ đồng, có biện pháp bảo đảm là thế chấp căn nhà 93/44 Lũy
Bán Bích (số mới 44 Trần Văn Cẩn); HĐ 052123 (Hợp đồng khơng có biện pháp
bảo đảm), vợ chồng ơng Lai vay ông Tuệ 2,762 tỷ đồng. Cả hai Hợp đồng trên đều
có kỳ hạn 12 tháng và lãi suất 1,5%/tháng. Đến ngày 19/11/2011 hết hạn hợp đồng,
vợ chồng ông Lai không thanh toán hết số vốn và lãi của khoản vay trên nên ông
Tuệ khởi kiện ra TAND quận Tân Phú. Theo bản án sơ thẩm số 191/2014/DS-ST
(bản án số sơ thẩm), ngày 22/5/2014 của TAND quận Tân Phú đã tuyên chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc vợ chồng ơng Lai thanh tốn số
tiền gốc và lãi của cả hai Hợp đồng vay tiền nêu trên (tổng cộng 3.915.730.000
đồng). Tuy nhiên, hết thời hạn tự nguyện thi hành án nhưng vợ chồng ông Lai vẫn
không chịu thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Ngày 02/8/2017 Chi cục THADS quận Tân

Phú ra Thông báo số 2985/TB-CCTHADS thông báo về việc cưỡng chế thi hành án
vào sáng ngày 11/8/2017, Chi cục THA Dân sự quận Tân Phú đã tiến hành cho lực
lượng cưỡng chế giao nhà số 93/44 Lũy bán Bích (số mới 44 Trần Văn Cẩn) để giao
nhà đất cho người mua trúng đấu giá là ông Nguyễn Đức Huy”.7
Thứ hai, hoạt động cưỡng chế THADS được tiến hành theo những thủ tục
chặt chẽ và phù hợp với quy định của pháp luật. Theo một quy trình tiến hành áp
dụng biện pháp cưỡng chế THADS, Chấp hành viên cần phải lên kế hoạch chặt chẽ
và kỹ lưỡng trước khi tiến hành biện pháp này. Các thủ tục được quy định tại Điều
72 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung 2014 như sau:
“Một là, trước khi tiến hành cưỡng chế thi hành án, Chấp hành viên phải
lập kế hoạch cưỡng chế, trừ trường hợp phải cưỡng chế ngay.
Hai là, kế hoạch cưỡng chế thi hành án bao gồm các nội dung chính sau
đây:
7

Thi hành án dân sự Ông Trương Hữu Lai, />
9


-

Biện pháp cưỡng chế cần áp dụng;

-

Thời gian, địa điểm cưỡng chế;

-

Phương án tiến hành cưỡng chế;


-

Yêu cầu về lực lượng tham gia và bảo vệ cưỡng chế;

-

Dự trù chi phí cưỡng chế.

Ba là, kế hoạch cưỡng chế phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát, cơ quan
Công an cùng cấp, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế hoặc cơ quan, tổ
chức có liên quan đến việc cưỡng chế thi hành án.
Bốn là, căn cứ vào kế hoạch cưỡng chế của cơ quan thi hành án dân sự, cơ
quan Cơng an có trách nhiệm lập kế hoạch bảo vệ cưỡng chế, bố trí lực lượng,
phương tiện cần thiết để giữ gìn trật tự, bảo vệ hiện trường, kịp thời ngăn chặn, xử
lý hành vi tẩu tán tài sản, hành vi cản trở, chống đối việc thi hành án, tạm giữ
người chống đối, khởi tố vụ án hình sự khi có dấu hiệu phạm tội.”
Biện pháp cưỡng chế THADS là một biện pháp khắt khe và liên quan trực
tiếp đến quyền nhân thân. Vì vậy, Chấp hành viên phải nắm vững chuyên môn nghề
nghiệp, sử dụng tổng hợp nhiều kỹ năng và phải tuân theo những trình tự, thủ tục
chặt chẽ.
Thứ ba, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được áp dụng linh hoạt ở
những thời điểm, địa điểm khác nhau nhằm ngăn chặn việc tẩu tán tài sản trong quá
trình thi hành án “Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu
tán, huỷ hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền
áp dụng ngay các biện pháp quy định tại Chương IV của Luật này.”8 hoặc hết thời
hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án vẫn chây ỳ, khơng có thiện chí
thực hiện “Thời hạn tự nguyện thi hành án là 15 ngày, kể từ ngày người phải thi
hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án."9. Trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều 45 có đề cập đến thời hạn là 15 ngày để người phải

thi hành án thực hiện nghĩa vụ của mình đã được sửa đổi thành 10 ngày trong luật
thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung 2014. Đây là một điểm bất hợp lý vì thời hạn thi
hành án bị giảm đi dẫn đến việc tạo áp lực và gây khó khăn cho người phải thi hành
án thực hiện nghĩa vụ của mình. Với khoảng thời gian là 10 ngày, người phải thi
hành án chưa đủ điều kiện để thi hành bản án thì sẽ bị cơ quan thi hành án dân sự có
8
9

Khoản 2, Điều 45, Luật thi hành án dân sự 2008
Khoản 1, Điều 45, Luật thi hành án dân sự 2008

10


thẩm quyền dùng biện pháp để cưỡng chế. Để hiểu rõ hơn về thời điểm áp dụng
biện pháp cưỡng chế THADS, tác giả xin nêu ra một ví dụ minh họa để làm rõ vấn
đề này:
“Bà X là nguyên đơn dân sự trong vụ kiện tranh chấp tài sản. Vụ án đã
được Tòa án xét xử và tuyên buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tài sản cho bà
X. Bà X đã có đơn yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án.
Trong khi chờ thực hiện việc thi hành, bà phát hiện bị đơn có giao dịch chuyển
quyền sử dụng tài sản phải thi hành án là xe ô tô và nhà xưởng. Ngay lúc này, đại
diện cơ quan THADS là Chấp hành viên K đã ra quyết định yêu cầu tạm dừng việc
chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản phải thi hành án (căn cứ
Điều 69 Luật THADS 2008).”10
Thứ tư, Chấp hành viên là người có thẩm quyền ra quyết định thực hiện
biện pháp cưỡng chế THADS “Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm
vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án
dân sự.”11. Chấp hành viên mang một trọng trách cực kì lớn vì thực hiện biện pháp
cưỡng chế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của đương sự. Để có được

sự cơng bằng và hiệu quả trong việc thực hiện biện pháp cưỡng chế THADS, đội
ngũ Chấp hành viên phải thường xuyên được tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ
về công tác thi hành án dân sự nhằm thống nhất việc áp dụng pháp luật tại các cơ
quan thi hành án dân sự địa phương trong cả nước; kịp thời tháo gỡ vướng mắc, xử
lý nghiêm những trường hợp vi phạm, góp phần đảm bảo chấp hành đúng pháp luật
và hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ về thi hành án dân sự. “Khi áp dụng biện
pháp cưỡng chế này Chấp hành viên cần phải xem xét, đánh giá tình hình, nghiên
cứu kỹ nội dung bản án, quyết định của tòa án. Nếu thấy những điểm nào chưa rõ
ràng, Chấp hành viên phải tham mưu kịp thời cho Thủ trưởng đơn vị có văn bản
yêu cầu tịa án đã ra bản án, quyết định giải thích. Nếu trong văn bản giải thích của
Tịa án vẫn chưa rõ ràng, thì Chấp hành viên đề xuất Thủ trưởng có văn bản kiến
nghị cơ quan, cá nhân có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục Tái thẩm hoặc Giám
đốc thẩm bản án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người được thi hành án,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.”12. Ngoài ra, cơ quan thi hành án dân sự
phải củng cố, kiện toàn về tổ chức bộ máy, biên chế, nâng cao năng lực, rèn luyện

Báo Pháp Luật (2017), “Chuyển quyền sử dụng tài sản khi đang chấp hành nghĩa vụ thi hành án”
Điều 17, Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014
12
www.vksndtc.gov.vn/tin-chi-tiet-6319
10
11

11


phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ chấp hành viên làm công tác thi
hành án dân sự.
1.1.4 Nguyên tắc cưỡng chế thi hành án dân sự:
Hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự thực sự là một biện pháp nghiêm

khắc nhất trong quá trình xử lý một vụ việc tố tụng. Nó mang tính quyền uy của nhà
nước, bắt buộc người phải thi hành án thực hiện đúng phần nghĩa vụ và trách nhiệm
của mình. Vì vậy, trong quá trình thực hiện biện pháp cưỡng chế THADS địi hỏi
Chấp hành viên phải có trình độ chun mơn nghiệp vụ cao, xử lý tốt tình huống,
khơng được áp dụng tùy tiện mà phải luôn tuân thủ theo những nguyên tắc mà pháp
luật quy định tại Điều 20, 46 Luật THADS và Điều 13 Nghị định số 62/2015/NĐCP. Cụ thể là:
Nguyên tắc thứ nhất, điều kiện để áp dụng biện pháp cưỡng chế là hết thời
hạn tự nguyện thi hành án, người phải thi hành án có điều kiện mà khơng thực hiện
phần nghĩa vụ của mình được quy định trong bản án sẽ bị cưỡng chế “Hết thời hạn
quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện thi
hành án mà khơng tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.”13. Tuy nhiên, Chấp
hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự bất kể lúc nào khi
phát hiện có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc các hoạt động khác nhằm trốn
tránh việc thi hành án của người phải thi hành án “Trường hợp cần ngăn chặn
người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm
trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên áp dụng ngay biện pháp quy định tại
Chương IV của Luật này.”14. Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự tuy nghiêm
khắc, cứng rắn nhưng pháp luật vẫn tôn trọng và đề cao quyền nhân thân, quyền con
người của người bị cưỡng chế. Tính nhân đạo của pháp luật thể hiện qua khoản 2,
điều 13 nghị định 62/2015/NĐ-CP và khoản 2, điều 46 luật THADS 2008, sửa đổi
bổ sung 2014 “Không tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian từ 22 giờ đến
06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật và
các trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định.”. Nói chung, ngun tắc này
quy định rõ ràng và chi tiết các trường hợp cần phải áp dụng biện pháp cưỡng chế,
không được áp dụng tùy tiện, bừa bãi mà phải được thực hiện theo đúng phạm vi
quy định của pháp luật.
13
14

Khoản 1, Điều 46, Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung 2014

Khoản 2, Điều 45, Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung 2014

12


Nguyên tắc thứ hai, việc tổ chức cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với
phần nghĩa vụ của người phải thi hành án căn cứ vào bản án, quyết định và điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nguyên tắc này địi hỏi rất cao về mặt chun mơn nghiệp
vụ của Chấp hành viên. Chấp hành viên phải quyết định đúng đắn và ước tính được
giá trị tài sản làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. Việc tổ
chức cưỡng chế có thuận lợi hay khơng, có đảm bảo tình hình trật tự an ninh xã hội
hay không đều phụ thuộc vào việc Chấp hành viên áp dụng thống nhất và chặt chẽ
nguyên tắc này trên thực tế. Để làm rõ hơn về nguyên tắc này, tác giả sẽ nêu một ví
dụ minh họa để dẫn chứng cho tầm quan trọng của việc tổ chức cưỡng chế thi hành
án phải tương ứng với phần nghĩa vụ của người phải thi hành án:
“A và B cùng mua chung một thửa đất 200m , số tiền mà A và B bỏ ra là
2

bằng nhau. Trong đó, A là người phải thi hành án. Như vậy, ta dễ dàng xác định
được phần sở hữu chung của A là 1/2 giá trị thửa đất. Tuy nhiên, để kê biên 1/2
thửa đất trên là tương đối khó khăn đối với chấp hành viên kể cả trường hợp phân
chia không làm giảm giá trị của thửa đất. Vì để kê biên phần đất của A thì chấp
hành viên phải xác định được phần đất của A ở chỗ nào, tứ cận ra sao. Mặc dù khi
chia thì A và B mỗi người được 100m , nhưng rõ ràng trên thực tế, vị trí hai thửa đất
sẽ có giá trị khác nhau.”15 Xét thấy, việc khiếu nại của A và B rất dễ phát sinh (trừ
trường hợp có thể thỏa thuận được). Chính vì vậy, việc áp dụng biện pháp cưỡng
chế phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải thi hành án thường chỉ
được chấp hành viên áp dụng khi tài sản rõ ràng, dễ phân chia, đã được phân chia
theo bản án, quyết định hoặc do các đương sự thỏa thuận.
2


Nguyên tắc thứ ba, Chấp hành viên chỉ được áp dụng các biện pháp cưỡng
chế được quy định tại Điều 71, Luật thi hành án dân sự 2008. Điều 71 Luật THADS
2008 có quy định rõ ràng sáu biện pháp cưỡng chế THADS. Tùy vào trường hợp và
bản án đã tuyên có hiệu lực, Chấp hành viên căn cứ vào đó để lựa chọn biện pháp
cưỡng chế cho phù hợp với từng loại nghĩa vụ được quy định trong bản án. Việc lựa
chọn biện pháp cưỡng chế THADS là rất quan trọng đối với những trường hợp cần
phải cưỡng chế. Vì vậy, Chấp hành viên cần tuân thủ đúng quy định của pháp luật
để làm căn cứ áp dụng các biện pháp cưỡng chế THADS.
Ví dụ: Trong trường hợp người phải thi hành án có nghĩa vụ phải thanh toán
nợ cho người được thi hành án, nếu Chấp hành viên xác minh được người phải thi
15

/>
13


hành án có mở tài khoản tại ngân hàng và số tiền trong tài khoản đủ để thanh toán
phần nghĩa vụ của người phải thi hành án thì Chấp hành viên sẽ tiến hành áp dụng
biện pháp “Khẩu trừ tiền trong tài khoản” được quy định tại Điều 71 Luật THADS
2008.
1.2 Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.
1.2.1 Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.
Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.
Như đã nói ở phần nguyên tắc, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
mang tính nghiêm khắc, vì vậy Chấp hành viên không được tùy tiện áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án. Chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế thi hành án
phải dựa trên 6 nguyên tắc mà pháp luật đã đề ra. Để giải quyết việc thi hành án thì
Chấp hành viên có thể lựa chọn một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế để thi hành án.
Tại điều 71 Luật thi hành án dân sự 2008 có đề cập rất rõ ràng và chi tiết 6 biện

pháp cưỡng chế thi hành án dân sự như sau:
Một là, khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của
người phải thi hành án.16Biện pháp này được Chấp hành viên áp dụng với mục đích
giải quyết trực tiếp nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án thông qua việc
khấu trừ tiền trong tài khoản hoặc thu hồi trực tiếp tiền của người phải thi hành án.
Chấp hành viên ra quyết định thu tiền nếu có căn cứ xác định được khoản tiền đó là
của người phải thi hành án hoặc khấu trừ trực tiếp vào tài khoản của người phải thi
hành án. Nội dung của biện pháp được quy định tại điều 21 Nghị định
62/1025/NĐ/CP và điều 76, điều 80 Luật thi hành án dân sự 2008. Về biện pháp xử
lý giấy tờ có giá của người phải thi hành án được quy định tại điều 82, điều 83 Luật
thi hành án dân sự 2008 áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có nắm
giữ giấy tờ có giá. Chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế thu hồi giấy tờ có giá
của người phải thi hành án để thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Trường hợp người
phải thi hành án khơng giao giấy tờ có giá thì Chấp hành viên có quyền u cầu cơ
quan có thẩm quyền chuyển giao giá trị của giấy tờ để thực hiện nghĩa vụ thi hành
án.

16

Khoản 1, Điều 71, Luật THADS 2008.

14


Ví dụ minh họa: Chi cục Thi hành án dân sự quận 1 ra quyết định thi hành
bản án của TAND quận I, buộc Công ty cổ phần đầu tư giải trí Phước Sang là ơng
Lưu Phước Sang, bà Phạm Thị Kim Thư và 3 người liên quan khác phải trả cho
Ngân hàng Á Châu (ACB) số tiền hơn 113 tỷ đồng cùng lãi suất phát sinh. Tài sản
bảo đảm là quyền sử dụng đất của các đương sự này tại huyện Long Thành, Đồng
Nai, trong đó có số tiền phát sinh 2,7 tỷ đồng được đền bù quyền sử dụng đất đang

được đứng tên tài khoản bởi Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Long Thành, mở
tại VietinBank Đồng Nai. Do đương sự không tự nguyện thi hành án, Chi cục thi
hành án quận 1 xác minh và tiến hành khấu trừ số tiền này của ông Phước Sang, bà
Kim Thư và ông Thiện Hậu được đền bù từ việc thu hồi quyền sử dụng đất. Ngày
18/5, Chi cục giao quyết định khấu trừ cho phía ngân hàng.17
Hai là, trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.18 Chấp hành viên ra
quyết định cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án đối với các khoản
như: tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động và thu nhập
hợp pháp khác. Việc trừ vào thu nhập của người phải thi hành án được thực hiện
trong các trường hợp: Theo thỏa thuận của đương sự; Bản án, quyết định ấn định trừ
vào thu nhập của người phải thi hành án; Thi hành án cấp dưỡng, thi hành án theo
định kỳ, khoản tiền phải thi hành án không lớn hoặc tài sản khác của người phải thi
hành án không đủ để thi hành án. Mức khấu trừ không được vượt quá 30% tổng số
tiền được nhận hàng tháng, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác. Đối với
thu nhập khác thì mức khấu trừ căn cứ vào thu nhập thực tế của người phải thi hành
án, nhưng phải đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu của người đó và người được
ni dưỡng theo quy định của pháp luật. Cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao động,
Bảo hiểm xã hội nơi người phải thi hành án nhận tiền lương, tiền công, tiền lương
hưu, tiền trợ cấp và các thu nhập hợp pháp khác có trách nhiệm thực hiện quy định
tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.19 Ngoài ra nội dung, thủ tục và hồ sơ cịn được
Thơng tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN quy định
rất rõ ràng tại điều 11, điều 12.
Ví dụ minh họa: Bản án tun ơng A và bà B (là 2 vợ chồng) được hưởng
300m2 đất và phải chịu 3.000.000 đồng án phí (khơng tun là nghĩa vụ liên đới,
không tuyên rõ phần của từng người). Bà B đã chết và khơng có di chúc nên cơ
17

/>18
Khoản 2, Điều 71, Luật THADS 2008.
19

Điều 78 Luật thi hành án dân sự 2008

15


quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án mới buộc ông A và 3 người con
(của ông A, bà B) phải thi hành 3.000.000 đồng án phí. Hiện nay ơng A và các con
đều khơng tự nguyện thi hành án. Chấp hành viên xác minh thấy ông A có nhà đất
và lương hưu, các con đều buôn bán nhỏ. Chấp hành viên nhận thấy người phải thi
hành án có tài sản là quyền sử dụng đất có giá trị quá lớn so với nghĩa vụ phải thi
hành án và ơng A có thu nhập ổn định. Vì vậy, Chấp hành viên áp dụng biện pháp
cưỡng chế trừ vào thu nhập của ông A để thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo điểm c
khoản 2 Điều 78 nêu trên.20
Ba là, kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang
do người thứ ba giữ.21. Đây là biện pháp mà Chấp hành viên áp dụng nhằm xử lý,
kê biên tài sản của người thi hành án, kể cả tài sản do người thứ ba giữ để thực hiện
nghĩa vụ thi hành án. Biện pháp này cụ thể là kê biên quyền sử dụng đất được quy
định tại điều 110-113 Luật thi hành án dân sự 2008. Chấp hành viên chỉ được kê
biên quyền sử dụng đất mà người phải thi hành án nắm giữ giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Nếu khơng có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà người phải thi
hành án thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì cơ quan
có thẩm quyền phải cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người phải thi hành
án để tiến hành kê biên theo quy định cấp tại điều 100, điều 101 Luật đất đai 2013.
Nếu người phải thi hành án có tài sản gắn liền với đất bị kê biên thì Chấp hành viên
phải kê biên luôn cả quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Nếu tài sản gắn
liền với đất không thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án thì Chấp hành
viên phải thơng báo cho người sở hữu tài sản đó.
Ví dụ minh họa: Theo Bản án số 305/DSST ngày 03/7/2015 của TAND
huyện X thì bà Nguyễn Thị B, trú tại: thơn V, xã Y, huyện X, phải thanh toán trả bà
Nguyễn Thị A số tiền: 3.000.000.000đ (ba tỷ đồng). Kết quả xác minh điều kiện thi

hành án cho thấy bà B có tài sản là quyền sử dụng đất diện tích 70m2 tại thửa đất số
321, tờ bản đồ số 3 ở thôn V, xã Y, huyện X. Bà Nguyễn Thị B có đơn đề nghị cơ
quan THADS kê biên mảnh đất nói trên để thi hành án trả bà A. Cơ quan THADS
đã tiến hành kê biên quyền sử dụng đất và áp dụng quy định tại Điều 58; Điều 112
Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 tạm giao tài sản kê biên cho người phải thi
hành án (bà Nguyễn Thị B) quản lý.22
20

/>21
Khoản 3, Điều 71, Luật THADS 2008.
22
/>
16


Bốn là, khai thác tài sản của người phải thi hành án.23Biện pháp này được
quy định tại điều 107 Luật thi hành án dân sự 2008 “Chấp hành viên cưỡng chế
khai thác tài sản trong trường hợp tài sản của người phải thi hành án có giá trị quá
lớn so với nghĩa vụ phải thi hành và tài sản đó có thể khai thác để thi hành án hoặc
người được thi hành án đồng ý cưỡng chế khai thác tài sản để thi hành án nếu việc
khai thác tài sản khơng ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba”.
Đối với tài sản khai thác phải thuộc các hình thức được quy định tại điều 108 Luật
thi hành án dân sự 2008 như sau “Tài sản mà người phải thi hành án đang trực tiếp
khai thác hoặc cho người khác khai thác thì người đang khai thác được tiếp tục
khai thác; Trường hợp tài sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất mà chưa khai thác thì
chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án ký hợp đồng khai thác tài sản với tổ
chức, cá nhân có nhu cầu khai thác tài sản”
Ví dụ minh họa: Ông A phải thi hành trả khoản nợ cho ông B là 50 triệu
đồng, trong khi đó ơng A chỉ có tài sản duy nhất là căn nhà có diện tích 300m theo
2


đơn giá do cơ quan tài chính cung cấp và tham khảo mức giá ở địa phương thì tài
sản trên có giá khoảng 500 triệu đồng. Như vậy, giá trị tài sản của ông A lớn hơn rất
nhiều lần nghĩa vụ phải thi hành. Do đó, việc kê biên tài sản sẽ không tương ứng
với nghĩa vụ thi hành án, nên chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế
khai thác tài sản nếu có đủ các điều kiện theo quy định.
Năm là, buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.24 Biện
pháp này buộc người phải thi hành án chuyển giao quyền sử dụng của vật, tài sản
hoặc giấy tờ mà người phải thi hành án sở hữu nhằm thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
Căn cứ vào đối tượng áp dụng biện pháp cưỡng chế là vật để thi hành nghĩa vụ trả
vật theo nội dung được ghi cụ thể trong bản án, quyết định, có thể phân loại thành
04 biện pháp cưỡng chế như:
Thứ nhất, biện pháp chuyển giao vật đặc định được Chấp hành viên yêu cầu
người phải thi hành án, người đang quản lý, sử dụng trả vật cho người được thi hành
án; nếu người đó khơng thi hành thì chấp hành viên thu hồi vật để trả cho người
được thi hành án. Đối với vật cùng loại thì chấp hành viên thực hiện việc cưỡng chế

23
24

Khoản 4, Điều 71, Luật THADS 2008.
Khoản 5, Điều 71, Luật THADS 2008.

17


×