Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Lễ hội trò chiềng tại xã yên ninh huyện yên định tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.93 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài: .......................................................................................... 3
1.1.Cơ sở lí luận: ............................................................................................... 3
1.2. Cơ sở thực tiễn: .......................................................................................... 4
2. Sơ lược về cơ sở thực tập. ............................................................................. 4
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của huyện Yên Định: ............................. 4
2.1.1. Đặc điểm về kinh tế, văn hóa- xã hội và con người Yên Định. .............. 5
2.2. KHÁI QUÁT VỀ TRUNG TÂM VĂN HÓA – THỂ DỤC – THỂ THAO
HUYỆN YÊN ĐỊNH......................................................................................... 6
2.2.1. Sự thành lập và chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm VHTDTT huyện
Yên Định. .......................................................................................................... 6
2.2.2 Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lí. ........................................................... 7
CHƯƠNG I: NGUỒN GỐC CỦA LỄ HỘI TRỊ CHIỀNG VÀ CƠNG TÁC
CHUẨN BỊ CHO LỄ HỘI. ............................................................................. 11
1.1. Nguồn gốc của lễ hội Trò Chiềng : .......................................................... 11
1.2. Cơng tác chuẩn bị cho lễ hội Trị Chiềng. ............................................... 12
1.2.1. Những quy định trước lễ hội: ................................................................ 12
1.2.2. Công tác chuẩn bị cho lễ hội: ................................................................ 13
CHƯƠNG II: TRÒ CHIỀNG – MỘT LỄ HỘI PHONG PHÚ, ĐỘC ĐÁO VÀ
HẤP DẪN ....................................................................................................... 15
2.1. Trò rước cỗ vàng: ..................................................................................... 16
2.2. Trị rước cỗ gà: ......................................................................................... 16
2.3. Trị rước Thành hồng: ............................................................................ 17
2.4. Trò đội Thiên vương: ............................................................................... 18
2.5. Trò múa hát chèo:..................................................................................... 19
2.6. Trò kén rể: ................................................................................................ 20
2.7. Trò chọi voi: ............................................................................................. 22
2.8. Trò tẩu mã: ............................................................................................... 23
1



2.9. Trò chọi rồng: ........................................................................................... 23
2.10. Trò giáo tàu: ........................................................................................... 24
2.11. Trị đốt pháo bơng: ................................................................................. 24
2.12. Trị kỳ lễ, kỳ phúc: ................................................................................. 25
CHƯƠNG III: TÌNH HÌNH BẢO TỒN, KHƠI PHỤC LỄ HỘI TRÒ
CHIỀNG CỦA ĐỊA PHƯƠNG HIỆN NAY .................................................. 27
3.1. Sự gián đoạn và nguy cơ bị mai một của lễ hội Trò Chiềng. .................. 27
3.2. Những thành quả đạt được của địa phương trong q trình khơi phục lễ
hội Trò Chiềng: ............................................................................................... 28
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 31

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1.Cơ sở lí luận:
Văn hóa là sản phẩm do con người tạo ra, có từ thuở bình minh của xã
hội loại người. Văn hóa được hình thành trong một q trình, được tích lũy
qua nhiều thế hệ, mang tính lịch sử, có bề dày, chiều sâu phục vụ chính đời
sống con người. Đời sống phong phú và đa diện. Do đó văn hóa cũng được
cấu thành từ nhiều thành tố và bộ phận. Trong đó lễ hội được xem là một loại
hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng đặc sắc của nhân dân có nguồn gốc từ xa
xưa. Lễ hội có cơ sở từ cuộc sống, nảy sinh và hình thành từ những yêu cầu
và tiền đề của hiện thực, đồng thời cũng quay lại tác động vào hiện thực, phục
vụ đời sống văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh của con người. Bằng các giá trị ổn
định và các giá trị đang hình thành, lễ hội tạo nên một hệ thống các giá trị
phục vụ con người. Thông qua lễ hội, đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh, tín
ngưỡng cũng như phong tục, tập quán và đặc điểm tư duy của mỗi vùng, mỗi

khu vực được phản ánh một cách sinh động, đậm nét.
Là một trong những cái nơi của lồi người. n Định nói riêng và
Thanh Hóa nói chung đã để lại một kho tàng văn hóa phong phú, đặc biệt là lễ
hội. Hình thành từ đầu thế kỷ X, khoảng thời gian gắn liền với bao chiến cơng
oanh liệt và đóng góp to lớn cho lịch sử, văn hóa dân tộc của triều đại nhà Lý,
lễ hội Trò Chiềng là một di sản văn hóa phi vật thể quý giá của dân tộc. Trị
Chiềng vừa mang sắc thái văn hóa, vừa mang dấu ấn lịch sử, xã hội sâu sắc,
vừa mang bản sắc chung của lễ hội Việt lại vừa có những nét độc đáo riêng
mà khơng nơi nào có được. Có thể nói lễ hội Trị Chiềng là nơi hội tụ của tinh
hoa nguồn cội, của nét đẹp văn hóa dân gian Việt Nam, không lặp lại, không
lạc hậu mà độc đáo, đa dạng, mới mẻ, hấp dẫn.

3


Lễ hội Trò Chiềng là niềm tự hào của người dân Yên Ninh. Nói đến
Yên Ninh người ta nhớ ngay đến lễ hội Trị Chiềng cũng như nói đến Trị
Chiềng là người ta nhớ ngay đến quê hương Yên Ninh. Văn hóa chung và lễ
hội Trị Chiềng nói riêng là niềm tự hào như máu thịt đã ăn sâu vào tiềm thức
của mỗi người dân nơi đây. Lễ hội và văn hóa làm nên hình ảnh của một vùng
đất, làm nên biểu tượng cho nét đẹp con người nơi đây và là nỗi nhớ cho
những ai đã một lần được thưởng thức.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Trò Chiềng là một lễ hội tương đối lớn được diễn ra vào tháng Giêng
hàng năm. Cứ mỗi độ Xn về, cùng với khơng khí tết sôi động, tươi vui,
nhân dân Yên Ninh lại nô nức chuẩn bị vào hội. Với nhiều trò diễn đặc sắc,
độc đáo, lễ hội đã thu hút sự quan tâm, hưởng ứng và tham gia nhiệt tình của
nhân dân Yên Ninh cũng như bà con các vùng lân cận.
2. Sơ lược về cơ sở thực tập.
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của huyện Yên Định:

Yên Định là một huyện bán sơn địa nằm dọc theo sông Mã, cách thành
phố Thanh Hóa 28 km về phía tây bắc, phía bắc và phía tây giáp huyện Cẩm
Thủy và huyện Vĩnh Lộc, phía đơng giáp huyện Vĩnh Lộc (lấy sơng Mã làm
ranh giới), phía tây giáp huyện Ngọc Lặc, phía tây và tây nam giáp huyện Thọ
Xuân phía nam giáp huyện Thiệu Hóa (lấy sơng Cầu Chày làm ranh giới).
Diện tích: 210,24 km2 Dân số: 172,527( 2003) Hành chính: bao gồm 3 thị
trấn( Quán Lào, Kiểu, thống Nhất) và 27 xã ( Quý Lộc, Yên Bái, Yên Hùng,
Yên Giang, Yên Lạc, Yên Lâm, Yên Ninh, Yên Phong, Yên Phú, Yên Tâm,
Yên Thái, Yên Thịnh, Yên Thọ, Yên Trung, Yên trường, Định Bình, Định
Cơng, Định Hải, Định Hịa, Định Hưng, Định Liên, Định Long, Định Tăng,
Định Tân, Định Thành, Định Tiến, Định Tường).
Lịch sử: Gần hai ngàn năm trước, đây là vùng đất tạo nên các huyện
Từ Phố và Võ Biên thuộc quận Cửu Chân, sau đó đổi tên thành các huyện
Quân An và Ninh Duy. Thời thuộc Ðường, hợp lại thành huyện Quân Ninh.
4


Ðến thời Ðại Việt tự chủ, huyện được gọi là An Ðịnh rồi Yên Ðịnh. Sau Cách
mạng Tháng Tám (năm 1945), Yên Ðịnh vẫn là đơn vị hành chính cấp huyện
thuộc tỉnh Thanh Hố, bỏ đơn vị hành chính trung gian là cấp tổng và thành
lập đơn vị hành chính cấp xã. Trong đó có 6 xã được bắt đầu bằng chữ Yên
(Phong, Phú, Ninh, Thọ, Khang, Quý) và 6 xã bằng chữ Ðịnh (Hoà, Thanh,
Tân, Hưng, Long, Tường). Ðến năm 1949 - 1950, 12 xã được tách thành 24
xã. Khi thực hiện giảm tô (1954 - 1955) huyện được chia thành 28 xã. Năm
1976 còn 27 xã do hai xã vùng Yên (Yên Quý và Yên Lộc) nhập thành xã
Quý Lộc. Ngày 18-11-1996, Chính phủ ra Nghị định số 72/CP tái lập lại các
huyện cũ. Huyện Yên Ðịnh trở lại tên gọi truyền thống với 27 xã, hai thị trấn:
Quán Lào và Nông trường Thống Nhất.
2.1.1. Đặc điểm về kinh tế, văn hóa- xã hội và con người Yên Định.
- Tốc độ tăng trưởng GDP: 9 - 10%/năm. Trong đó:

+ Nơng nghiệp: 6,0 - 7,0%/năm
+ Cơng nghiệp - xây dựng 17 - 19%/năm
+ Dịch vụ - thương mại: 9%/năm
- GDP bình quân đầu người: tăng gấp 1,5 lần so với năm 2005
- Sản lượng lương thực: 150 nghìn tấn
- Năm 2010, hoàn thành nâng cấp hệ thống y tế cơ sở, 100% trạm y tế xã có
bác sĩ.
- Năm 2010, 80% số làng, 100% số gia đình đạt gia đình văn hố. Huyện
được biết đến với khu di tích lịch sử nổi tiếng” Đền Đồng Cổ” thuộc thôn Đan
Nê, xã Yên Thọ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa… Yên Định là mảnh đất
giàu truyền thống văn hóa. Ngay từ buổi đầu lập đất, cư dân đã đoàn kết dưới
sự tổ chức, hướng dẫn của những nhà tri thức, những nhà kinh tế văn hóa tài
năng. Mỗi khi đặt chân đến nơi đây hẳn ai cũng không thể quên được lòng
hiếu khách của người dân Yên Định.

5


2.2. KHÁI QUÁT VỀ TRUNG TÂM VĂN HÓA – THỂ DỤC – THỂ
THAO HUYỆN YÊN ĐỊNH.
2.2.1. Sự thành lập và chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm
VHTDTT huyện Yên Định.
Trung tâm Văn hóa- Thể Dục- Thể thao là đơn vị sự nghiệp văn hóa,
thơng tin, thể thao, trực thuộc UBND huyện; tham mưu giúp UBND huyện tổ
chức các hoạt động văn hóa- văn nghệ, thể dục- thể thao nhằm đáp ứng nhu
cầu sang tạo, hưởng thụ văn hóa, thể thao của nhân dân địa phương.dấu và
được mở tài khoản theo quy định của pháp luật. Trung tâm văn hóa- thể dụcthể thao huyện Yên Định thực hiện những chức năng sau:
- Tổ chức các hoạt động văn hóa- tể dục- thể thao nhằm đáp ứng nhu cầu
sang tạo, hưởng thụ văn hóa, thể thao của nhân dân địa phương.
- Tuyên truyền- cổ động phục vụ chính trị- kinh tế, văn hóa- xã hội theo

đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà Nước.
- Hướng dẫn về chuyên môn,nghiệp vụ cho cán bộ cơng tác văn hóa, thơng
tin thể thao cơ sở.
- Tổ chức các dịch vụ công về văn hóa, thơng tin và thể thao.
- Đối tượng phục vụ của Trung tâm Văn hóa- thể thao cấp huyện trên địa bàn
Nhiệm vụ và quyền hạn.
- Căn cứ chương trình phát triển kinh tế, văn hóa- xã hội của địa phương và
kế hoạch của phịng văn hóa và thể thao, xây dựng kế hoạch hoạt động ngắn
hạn, dài hạn và tổ chức thực hiện sau khi được UBND cấp huyện phê duyệt;
- Tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã
hội của địa phương.
- Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, TDTT, vui chơi, giải trí, câu lạc
bộ, nhóm sở thích, lớp năng khiếu về văn nghệ, kỹ năng ngành nghề và các
loạt hoạt động khác phù hợp với nhiệm vụ được giao;

6


- Tổ chức liên hoan, hội diễn văn nghệ, TDTT quần chúng, lễ hội truyền
thống. Tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ phương
pháp công tác cho những người làm cơng tác văn hóa, thơng tin ở xã, phường,
thị trấn theo kế hoạch phịng Văn hóa và thông tin.
- Tổ chức các hoạt động thư viện, bảo tàng, giáo dục truyền thống, triễn lãm,
hoạt động nhà văn hóa.
- Biên soạn, xuất bản và phát hành theo quy định của pháp luật các tài liệu
chuyên môn phục vụ cho các hoạt động nghiệp vụ;
- Tổ chức các dịch vụ văn hóa, thơng tin, thể thao phù hợp với chức năng,
nghiệm vụ theo quy định của pháp luật
- Hợp tác; giao lưu, trao đổi về chuyên môn, nghiệp vụ và các hoạt động văn

hóa, thể thao cở sở với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh;
- Thực hiện báo cáo định kỳ và báo đột xuất về hoạt động của trung tâm với
UBND cấp huyện, với phịng Văn hóa Thể dục- Thể thao và cơ quan quản lí
văn hóa theo quy định.
- Quản lí tổ chức, cán bộ, viên chức, tài chính và tài sản của Trung tâm theo
quy định của cấp có thẩm quyền; được ký kết hợp đồng lao động và quản lí
lao động theo quy định của pháp luật;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do UBND và phịng Văn hóa- thể dục- thể
thao huyện giao quy định.
2.2.2 Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lí.
1. Ban Giám đốc Ban Giám đốc gồm có Giám đốc và 03 Phó Giám đốc:
- Giám đốc: bà Nguyễn Thị Mai – Đại học VHTT& DL là người phụ trách
chung, chịu trách nhiệm trước Chủ tịch UBND huyện về các hoạt động sự
nghiệp văn hóa- thơng tin- thể dục thể thao; đi sâu công tác tổ chức, tài chính,
các hoạt động TDTT và thực hiện các nhiệm vụ khác được giao.
- Phó Giám đốc: ơng Trịnh Trọng Định- Đại học Văn hóa Quần chúng; giúp
giám đốc điều hành Trung tâm khi giám đốc đi vắng, phụ trách sự nghiệp văn

7


hóa-thơng tin (thơng tin cổ động, văn nghệ quần chúng), bảo tàng; công tác
thường trực, bảo vệ, nội vụ cơ quan.
- Phó Giám đốc: ơng Lê Văn Tùng– Đại học TDTT là người phụ trách các
hoạt động sự nghiệp TDTT, hoạt động thư viện, vệ sinh, cảnh quan môi
trường các khu vực do Trung tâm quản lí, hoạt động khai thác các dịch vụ của
Trung tâm.
- Phó Giám đốc: ơng Lê Tiến Dũng là người phụ trách mảng thông tin- cổ
động, nhằm tuyên truyền rộng rãi cho quần chúng nhân dân trên địa bàn
huyện bằng các hình thức cổ động trực quan, dễ hiểu, thu hút được sự quan

tâm của người dân.
Ban Giám đốc của Trung tâm đều có trình độ Đại học chính quy, đã được bồi
dưỡng về quản lí hành chính Nhà nước trình độ trung cấp và việc bổ nhiệm,
miễn nhiệm giám đốc, phó giám đốc của Trung tâm được thực hiện theo quy
định về quản lí cán bộ cơng chức.
2. Ngồi ra cịn có các bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ.
- Bộ phận Thông tin- Cổ động: có nhiệm vụ tổ chức các hoạt động tại chỗ và
lưu động về thông tin, tuyên truyền, cổ động, triển lãm, biên soạn, in ấn tài
liệu thông tin, tuyên truyền, tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ về tuyên
truyền, cổ động cho cán bộ nghiệp vụ cơ sở (xã, thị trấn) và thực hiện các
dịch vụ cơng ích về tuyên truyền, cổ động… Về tổ chức: cán bộ quản lí là
đồng chí Lê Tiến Dũng chịu trách nhiệm chính.
- Bộ phận Văn hóa văn nghệ quần chúng: có nhiệm vụ nghiên cứu nhu cầu và
tổ chức các hoạt động liên hoan, hội thi, hội diễn văn nghệ quần chúng, lễ hội
truyền thống, xây dựng các đội văn nghệ quần chúng, các loại hình hoạt động
câu lạc bộ, nhóm sở thích, các lớp năng khiếu về nghệ thuật. Biên soạn, in ấn
các tài liệu nghiệp vụ hướng dẫn phong trào văn nghệ quần chúng ở cơ sở; bồi
dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ về phương pháp công tác văn hóa,
văn nghệ cho cán bộ nhà văn hóa các xã, thị trấn. Về tổ chức: cán bộ quản lí

8


là đồng chí Trịnh Trọng Định. - Bộ phận Thể dục thể thao: bộ phận TDTT có
các nhiệm vụ:
+ Tổ chức hướng dẫn và thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật về phát triển sự nghiệp thể dục, thể thao; thực hiện chủ trương xã
hội hóa hoạt động thể dục thể thao;
+ Tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển thể thao quần chún; vận
động nhân dân trên địa bàn huyện tham gia phát triển phong trào thể dục thể

thao phù hợp với sở thích, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp;
+ Phối hợp với ngành giáo dục- đào tạo tổ chức thực hiện giáo dục thể chất
và tổ chức Hội Khỏe Phù Đổng trong các nhà trường;
+ Tổ chức các cuộc thi đấu thể dục thể thao, Đại hội thể dục thể thao cấp
huyện, phát triển các môn thể thao đặc trưng, truyền thống dân tộc;
+ Tổ chức thực hiện việc tuyển chọn vận động viên tập luyện tham gia các
giải thi đấu tại tỉnh và khu vực..;
+ Tổ chức thực hiện việc tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ huấn
luyện viên, hướng dẫn viên, cộng tác viên, trọng tài thể dục thể thao.
Về tổ chức: cán bộ quản lí là đồng chí Lê Văn Tùng - Bộ phận Thư viện: có
nhiệm vụ hướng dẫn tổ chức hoạt động của hệ thống thư viện từ huyện đến cơ
sở. Tuyên truyền giới thiệu sách, báo, tạp chí, tư liệu…và tổ chức phục vụ
người đọc.
Về tổ chức: cán bộ quản lí là đồng chí Lê Thị Điệp; - Bộ phận Bảo tàng – Đền
liệt sỹ: có nhiệm vụ nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, giữ gìn các hiện vật có
giá trị lịch sử, văn hóa, truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước, xây
dựng quê hương. Thuyết minh giới thiệu cho mọi người thấy được ý nghĩa,
giá trị của các hiện vật được trưng bày.
Về tổ chức: cán bộ quản lí là đồng chí Trịnh Thị Quế; - Bộ phận Hành chính –
Quản trị - Dịch vụ: có nhiệm vụ thực hiện cơng tác hành chính – quản trị, văn
thư lưu trữ; quản lí cung ứng vật tư, trang thiết bị cho hoạt động của Trung
tâm; xây dựng kế hoạch tài chính – kế tốn; thực hiện cơng tác thống kê, báo
9


cáo và các hoạt động nội bộ của Trung tâm. Khai thác, tổ chức các dịch vụ
theo chức năng, nhiệm vụ trên cơ sở phát huy hiệu quả cơ sở vật chất và trình
độ chun mơn của viên chức Trung tâm.
3.Phương pháp nghiên cứu:
Khi tiến hành đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu :

- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp thống kê, đánh giá.

10


CHƯƠNG I: NGUỒN GỐC CỦA LỄ HỘI TRÒ CHIỀNG VÀ CÔNG
TÁC CHUẨN BỊ CHO LỄ HỘI.
1.1. Nguồn gốc của lễ hội Trị Chiềng :
Bất kì một sự kiện văn hóa, một lễ hội nào cũng đều gắn liền với hiện
thực, có nguồn gốc từ hiện thực, phản ánh ước mơ, thế giới tinh thần của con
người. Lễ hội là một hoạt động văn hóa được phát sinh, hình thành từ chính
những u cầu và khả năng của hiện thực. Nó phản ánh hiện thực đồng thời
cũng quay trở lại phục vụ chính hiện thực mà thực chất là cuộc sống tinh thần
của con người.
Lễ hội Trị Chiềng cũng vậy. Nó không chỉ phản ánh được cuộc sống lao
động, chiến đấu mà phản ánh ước mơ nhân dân, phản ánh lịch sử phát triển
của một vùng đất, đánh dấu dấu ấn quan trọng trong lịch sử và văn hóa. Lễ
hội Trị Chiềng gắn liền với tên tuổi của Tam công Trịnh Quốc Bảo – người
được phong Thành Hoàng làng của làng Trịnh Xá.
Trịnh Quốc Bảo sinh vào khoảng năm 998. Ông làm quan cho triều Lý,
là một vị tướng văn võ tồn tài. Ơng đã hai lần cầm qn đi đánh giặc Tống ở
phía Bắc, hai lần dẹp loạn quân Chiêm Thành ở phía Nam. Năm 1065, ơng
được vua Lý Thánh Tông phong là Phúc thần làng Trịnh Xá, hiệu là Đơng
phương hắc quang Đại vương Tam cơng Đơng Phương Sóc. Trong suốt q
trình làm quan cho nhà Lý, ơng đã lập được nhiều cơng trạng và có nhiều
đóng góp to lớn. Ơng được vua Lý Thái Tơng tấn phong là Phong vinh Quốc
trượng Đại phu.

Năm 80 tuổi, ông về tĩnh quan ở địa phương, tức làng Trịnh Xá ngày
nay. Là một người học rộng, chí lớn, tài cao và ln canh cánh trong tám lòng
lo cho dân, cho nước nên về tĩnh quan ông vẫn không ngừng nghỉ. Nhằm tái
hiện lại những năm tháng trên quan trường, tái hiện lại quá trình lao động,
chiến đấu của triều đình và nhân dân ta thời Lý, cũng là để cho con cháu sau

11


này không bao giờ quên đi cội nguồn, ông đã tạo dựng nên Trò Chiềng độc
đáo và hấp dẫn.
Với 12 trò diễn, lễ hội Trò Chiềng đã đi vào nhiều chủ đề khác nhau, phản
ánh sinh động, sâu sắc cuộc sống lao động, chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, vui
chơi, giải trí của nhân dân cũng như tưởng nhớ hình ảnh và công lao to lớn
của Tam công Trịnh Quốc Bảo. Chính vì lẽ đó, Trị Chiềng vừa phong phú,
hấp dẫn, độc đáo lại vừa khỏe khắn, tươi vui và không lạc hậu.
Cùng với sự ra đời của lễ hội Trị Chiềng, theo thời gian, dần dần các cơng
trình kiến trúc: đình, chùa, đền, nghè...được xây dựng rất độc đáo, điêu luyện
và tinh xảo. Vì những cơng lao to lớn như trên, Tam công Trịnh Quốc Bảo
được tôn là Thành hoàng làng Trịnh Xá, hai lần được sắc phong Thượng đẳng
thần. Có thể nói, Thành hồng Trịnh Quốc Bảo được xem là linh hồn của lễ
hội Trị Chiềng. Ơng mất năm 1085, thọ 87 tuổi.
1.2. Công tác chuẩn bị cho lễ hội Trò Chiềng.
Trò Chiềng là một lễ hội tương đối lớn. Để bước vào lễ hội đúng quy củ, trình
tự làng đã được đặt ra những quy định và phân công việc tỉ mỉ, chặt chẽ, huy
động tất cả các dòng họ trong làng tham gia.
1.2.1. Những quy định trước lễ hội:
Lễ hội bao giờ cũng có những nguyên tắc và ý nghĩa riêng. Tùy theo
nội dung và bản chất của lễ hội mà có trình tự tổ chức sao cho hợp lý, đồng
thời cùng với đó là những quy định buộc cộng đồng phải thực hiện nhằm thể

hiện bản sắc văn hóa và nét đẹp riêng của từng địa phương. Trước khi lễ hội
Trò Chiềng được diễn ra, làng có những quy định chung như sau :
- Quy định đầu tiên là việc chia mạn, lễ hội diễn ra có sự góp mặt của
hai mạn : mạn Nhất và mạn Nhì. Mạn Nhất là dịng họ Trịnh, lấy đình Nhất
làm nơi tụ họp, tế lễ. Mạn Nhì gồm các dòng họ : Lê, Nguyễn, Lưu, Đỗ và
mạn này lấy đình Nhì làm nơi tụ họp, tế lễ. Làng cũng dành riêng ra hai mẫu
đất để làm bãi diễn trò.

12


- Quy định thứ hai, con trai , con gái trong làng chư có gia đình từ 16
tuổi trở lên là những con trị chính. Cịn nếu đã có gia đình thì phải tách riêng,
cách ly trước lễ hội nửa tháng cho tinh khiết thì mới có thể tham gia lễ hội.
- Quy định thứ ba, ngày mồng 8 tháng Giêng là ngày duy nhất chuẩn bị
và hoàn tất các con trị. Vì vậy, từ 7 giờ sáng đến 9 giờ sáng, mây, tre,
nứa...trong làng không ai được giữ. Các con trò và thành viên trong ban làm
con trò được tự do lựa chọn những cây đẹp nhất, phù hợp nhất để tạo nên
những con trò.
- Quy định cuối cùng, những nhà có tang khi vào lễ thì phải cử người
thay nhau đội voi bị.
1.2.2. Công tác chuẩn bị cho lễ hội:
Lễ hội trong làng được chia làm hai mạn tham gia: mạn Nhất và mạn
Nhì. Hai mạn sẽ vào trò thi đấu với nhau để giành giải. Để đảm bảo khi bước
vào lễ hội suôn sẻ, công việc không bị chồng chéo, gián đoạn, từng mạn phải
được phân công công việc cụ thể, công bằng cho từng người. Trong mỗi trị
diễn sẽ có một cái trị đã được phân công từ đầu năm. Trong suốt năm, đặc
biệt là cuối năm, các cái trò cứ theo quy định đã phân cơng mà chuẩn bị cho
các con trị và dụng cụ cần thiết cho lễ hội. Sau đây là những cái trị cụ thể:
- Cái voi: Người được phân cơng đảm nhiệm cái voi phải lo chọn được

một đội ngũ để đan được ba loại voi: hai voi chầu, hai voi chọi, hai voi bị.
Đồng thời, cái voi cũng là người chọn ra cho mạn mình một đội hình gồm 5
nam thanh niên khỏe mạnh, cường tráng để làm con trò tham gia chọi voi với
mạn kia.
- Cái chèo: Người được phân cơng đảm nhiệm vị trí cái chèo phải là
một phụ nữ có năng khiếu văn nghệ, hát hay, múa giỏi. Cái chèo có nhiệm vụ
tập trung con gái trong làng từ 16 trở lên vào đội chèo, ai cũng phải vào, ai
cũng phải biết hát chèo. Đội chèo phải tập trung thường xuyên, liên tục trong
cả năm, sau đó khi gần vào lễ hội thì mới chọn ra một đội đẹp nhất từ 10-12
người để biểu diễn trong lễ hội.
13


- Cái ngựa: Người đảm nhiệm vai trò cái ngựa cũng phải lo đan được 3
loại ngựa: Ngựa chầu, ngựa chiến, ngựa bay.
- Cái rồng: Người ở vị trí này cũng phải lo làm được hai loại rộng: một
đôi rồng chọi và một đôi rồng múa.
- Cái Thiên vương: Cái này có nhiệm vụ chọn ra một đơi khoảng từ 810 nam thanh niên trong mạn mình để thành lập đội Thiên vương. Đội Thiên
vương được tập luyện võ nghệ với khiên, đao và khi lễ hội diễn ra thì biểu
diễn để giành giải.
- Cái pháo: Cái pháo có nhiệm vụ làm pháo bông theo quy định của
làng. Mỗi mạn đều phải có một cây pháo bơng và cũng để giành giải. Kích
thước của pháo tùy thuộc vào yêu cầu của làng từng năm.
Những quy định và phân công của làng được xem là những luật lệ, ai
cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành. Điều đó thể hiện tính cộng đồng và đoàn
kết rất chặt chẽ trong cấu trúc làng xã của văn hóa Việt.

14



CHƯƠNG II: TRÒ CHIỀNG – MỘT LỄ HỘI PHONG PHÚ, ĐỘC ĐÁO
VÀ HẤP DẪN
Với quy mô tương đối lớn và hồnh tráng, lễ hội Trị Chiềng đã mang
đến cho văn hóa dân gian một hệ thống những trị diễn hay, đặc sắc và độc
đáo được chuẩn bị công phu, tỉ mỉ, sáng tạo từ chính những vật liệu quen
thuộc với làng quê Việt Nam. Màu xanh muôn thuở của lũy tre làng, giậu
mây, với bàn tay lao động sáng tạo của dân làng đã tạo nên những con trò
sống động, biểu diễn có hồn. Lễ hội là sản phẩm của tập thể, được sử dụng,
lưu giữ và bảo vệ cũng bởi tập thể. Thấm nhuần tính cộng đồng và bản sắc
văn hóa dân tộc, lễ hội Trị Chiềng đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân
Yên Ninh. Đó là lí do giải thích vì sao sức sống của nó bền bỉ và mạnh mẽ
đến vậy. Trong suốt gần mười thế kỉ qua, nó trường tồn cùng với lịch sử dân
tộc. Kể cả khi đất nước bị chiến tranh tàn phá liên miên, nó vẫn sống trong
lịng mỗi người dân của vùng đất này.
Khác với những lễ hội khác, lễ hội Trị Chiềng khơng tổ chức liền mạch
trong một khoảng thời gian liên tục mà được phân bố vào ba mốc thời gian
khác nhau. Với một hệ thống gồm 12 trò diễn, lễ hội đi vào tái hiện tất cả mọi
lĩnh vực của cuộc sống, có lao động, có sản xuất, có đánh giặc, có vui chơi,
giải trí, tế lễ...có điều khơng phải tổ chức tập trung một thời điểm. Ngồi ba
ngày chính là 10,11,12 tháng Giêng hàng năm thì cịn một vài trị được tổ
chức và sau thời điểm chính ý nghĩa mang tính chất thủ tục, tế lễ. Một lễ hội
đa tính chất và hướng vào nhiều mục đích khác nhau nhưng lại thống nhất
trong một hệ thống. Chính vì thế, lễ hội đa dạng mà vẫn hấp dẫn và khơng
kém phần sâu sắc. Nó thể hiện lối tư duy và quan niệm của người Việt cũng
như đặc điểm, phong tục của cư dân nơng nghiệp nói chung: ưa tín ngưỡng và
mong cầu sự n bình, ổn định.
Nội dung chính của lễ hội được thể hiện ở 12 trị diễn lần lượt, cụ thể
tơi sẽ giới thiệu sau đây:
15



2.1. Trò rước cỗ vàng:
Rước cỗ vàng là một lễ được diễn ra vào ngày 23 tháng Chạp. Vào
ngày tiễn Ông Táo lên chầu Trời, hai mạn Nhất và Nhì đều phải chuẩn bị hai
cỗ vàng gồm : tiền vàng và hoa quả để cúng Thành hoàng. Sáng 23, toàn bộ
cao niên hai mạn đều phải tập trung ở đình của mạn mình để rước cỗ tế Thành
hồng làng.
Đây là một trị mang tính nghi lễ, nhằm tổng kết một năm đã qua với
ngụ ý đội ơn Thành hoàng làng đã phù hộ cho dân làng bình an, no ấm; đồng
thời cần cho năm tới dân làng phát đạt, may mắn, được mùa hơn năm nay.
Rước cỗ vàng thể hiện tâm lý và mơ ước luôn mong cầu an lành, no ấm của
nhân dân tan, có trước có sau, có trên có dưới, cách ứng xử nghĩa tình; đây
cũng là đặc điểm phổ biến của dân cư nơng nghiệp nói chung.
2.2. Trò rước cỗ gà:
Rước cỗ gà được xem là một nghi lễ quan trọng trong lễ hội Trò
Chiềng.
Vào sáng mùng 7 tháng Giêng, ở hai mạn đều phải chuẩn bị một lễ
gồm: 4 cỗ xôi ngũ sắc tượng trưng cho ngũ hành và 1 con gà trống tơ to để
làm lễ tế Thành hoàng làng. Các cụ cao niên ở mỗi mạn đều phải tập trung ở
đình của mình sau đó rước cỗ từ đình Nhất, Nhì của hai mạn ra đình Cả để tế
Thành hồng. Tế lễ xong, hai cỗ được hạ xuống cho tất cả các cụ cùng ăn
uống, hưởng lộc Thành hoàng ban. Các cụ từ 70 tuổi trở lên đều có phần lộc
mang về nhà cho con cháu. Đây là một nét đẹp văn hóa, thể hiện tinh thần
đồn kết, gắn bó, đùm bọc lẫn nhau, kính lão đắc thọ của nhân dân ta.
Sau khi ăn uống xong, các cụ cao niên, chức sắc trong làng mới họp
bàn quyết định xem năm nay sẽ tổ chức lễ hội là đại trị, trung trì hay tiểu trò.
Đại trò tức là lễ hội diễn ra tất cả đầy đủ 12 trò. Trung trò chỉ tổ chức từ 4-5
trị. Cịn tiểu trị thì chỉ làm 2 trị. Tùy theo từng năm mà tổ chức quy mô lễ
hội khác nhau. Nếu năm qua được mùa to thì sẽ tổ chức đại trò. Nếu mùa


16


màng bị sâu bệnh, năng suất chưa cao thì tổ chức trung trò. Còn nếu mất mùa,
lũ lụt, hạn hán thì chỉ tổ chức tiểu trị.
Tế rước cỗ gà là nghi lễ thể hiện tính dân chủ, cộng đồng và sự ứng
biến linh hoạt trong tư duy của nhân dân.
2.3. Trị rước Thành hồng:
Đây là một nghi thức rất quan trọng có tính chất mở đầu cho lễ hội,
được cử hành uy nghiêm, trang trọng và chuẩn bị rất công phu.
Vào sáng mùng 10 tháng Giêng, từ hai mạn phải dâng lễ từ đình của
mạn mình ra đình Cả để cử hành tế lễ và rước con trò. Đội tế gồm có:
- Một chủ tế
- Một xướng lễ
- Một đơng xướng
- Một tây xướng
- Hai bồi tế
- Mỗi bên bốn chấp sự
Vào tế, chủ tế nổi cồng hiệu hô to, khai lễ, dàn nhạc hòa nhạc, đội chèo
hát múa bài giáo đầu:
Hồng triều vạn tuế
Thánh đế vơ cương
Tại thọ vương vương
Cư trung mồng mộc
Phúc lộc lại thêm xuân...
Sau đó, chủ lễ hát bài dâng hương:
Làng ta mở hội du xuân
Làng ta mở hội thường niên
Người người tiến hương, tiến hoa
Tiến vàng, tiến bạc làng ta sang giàu...


17


Đây là một đại lễ tổ chức long trọng ở đình Cả với ngụ ý kính xin thành
hồng phù hộ vầ cho phép lễ hội được bắt đầu, đồng thời thông báo cho mọi
người được biết lễ hội được khai mạc.
Sau phần tế lễ là nghi lễ rước con trò ra bãi trò và thủ tục khai trò. Lễ
rước được hành lễ như thủ tục khai lễ. Chủ xướng phán : ‘Tạ tất lễ ’, sau đó
đội hình rước Thành hồng gồm :
Thượng rước lư hương (bồi 1)
Đăng trình (đơng xướng, tây xướng)
Thượng lễ (hai chấp)
Thượng ngự kiêu – Nhạc tựu sinh thành
Đội chèo múa hát bài “Cầm cờ”
Tiếp theo say là đội hình voi, ngựa được rước ra bãi trò để diễn trò.
2.4. Trò đội Thiên vương:
Đội Thiên vương đã được cái Thiên vương tuyển chọn và luyện tập
gồm 8-10 người. Họ được luyện tập võ nghệ thường xuyên với giáo, mác,
khiên. Trang phục như lính triều đình, gồm nón dấu, quần áo nai nịt gọn gàng.
Đội Thiên vương tượng trưng cho binh Trời xuống để phù hộ độ trì cho
ơng Trịnh Quốc Bảo đi đánh giặc. Nhiệm vụ của họ là bảo vệ lúc tế lễ, bảo vệ
lễ hội trên đường giễu hành, bảo vệ cho cuộc diễn trò. Đội Thiên vương của
hai mạn cũng sẽ thi đấu võ nghệ để giành giải.
Qua trị diễn này có thể thấy được tinh thần thượng võ của nhân dân ta
cũng như phản ánh dấu ấn của tư tưởng, quan niệm của người xưa về thế giới,
ln ln có hình ảnh của thần linh làm biểu tượng và chỗ dựa tinh thần trong
cuộc sống.

18



2.5. Trò múa hát chèo:
Đội chèo gồm 10-12 người đã được cái chèo tập luyện và tuyển chọn.
Họ là những cô gái xinh đẹp, duyên dáng, múa dẻo, hát hay làm nên một đội
hình nổi bật.
Đội chèo có nhiệm vụ minh họa cho các trị. Trị diễn đến đâu thì múa
hát đến đó. Mỗi màn múa trước khi diễn trị được xem như một lời giới thiệu.
Khi tế lễ thì đội chèo múa hát bài “Vào đình”, khi rước con trị múa hát bài
“Cầm cờ”, khi rước voi thì múa hát bài “rước voi”:
Làng ta đan ngựa, đan voi
Đan rồng để rước dạo quanh đường làng
Ai coi đứng lại mà coi
Coi làng Trịnh Xá chọi voi rõ ràng
Đám rước ra tới bãi trò
Hai mạn thi chọi nức lòng người xem…
Trên đường phụng nghinh, đội chèo múa hát bài “Mời khách”, mở đầu trị kén
rể thì hát bài “ Lấy đều”:
Rung cành để cội cho cây
Để song cho nước
Để mây cho trời
Để người ngoan ấy
Cho ai hay lại cho tôi
Cho tôi hay lại cho ai
Nay kén trai tài
Rể hiền làng Trịnh…
Rất nhiều bài hát, nhiều làn điệu chèo được biểu diễn đặc sắc. Đây là một
môn nghệ thuật truyền thống ra đời từ rất sớm, phát triển mạnh và khá bền
vững. Nó có quan hệ rất gần với ca dao, dân ca cũng như luôn đi bên cạnh
mọi hoạt động trong cuộc sống sinh hoạt của nhân dân.


19


2.6. Trò kén rể:
Kén rể là một trò diễn độc đáo, mang ý nghĩa tưởng tưởng sâu sắc. Nét
đẹp của con người làng Trịnh được kết tinh trong vẻ đẹp thùy mị, đoan trang,
thông minh, hiền dịu của người thiếu nữ khiến xa gần ai nấy đều khen và biết
tiếng. Từ miền xuôi đến miền ngược, nam, bắc, đông, tây, mọi tầng lớp đều
biết tiếng và tới tham gia hội kén rể mong lấy được người đẹp về làm vợ,
được làm rể làng Trịnh:
Nam hảo bắc hàn
Đơng sáng bình minh
Tây rừng xanh thẳm
Vọng chuông ba phủ
Nào là sĩ, nông, công, thương
Cho đến ngư, tiều, canh, mục
Nào là:
Anh tài bốn phương
Danh nhân tứ hải
Đấng trai anh hung
Đắc tài, đắc đạo
Ai có tài thì nên luận sự
Trẫm gả con gái
Trai tài, gái sắc
Kết dun phu phụ…
Trình tự trị diễn như sau:
Một cơ gái rất xinh đẹp của làng được giấu trong một cái bồ kín. Một
thượng soạn người chỉ huy điều hành. Nguyệt Lão là một ơng cụ giữ bồ có cơ
gái. Người đến tham gia kén rể có đến 14 đối tượng, từ sĩ, nông, công,

thương, ngư, tiều, canh, mục, đến Hồng tử Ai Lao, con tiên, con bụt, sứ
Hung Nơ, tướng Cao Dao, quốc sư Tiêu Hà, cho đến tướng Nghiêm Quang,

20


Hàn Tín, tướng Cách Cam và cuối cùng là lương tướng. Chủ sự sẽ nêu ra câu
hỏi:
“Bồ này là bồ gì?”
Nếu ai đốn đúng thì sẽ được gả cơ gái xinh đẹp đang giấu trong bồ.
Từng đối tượng sẽ lên trổ tài thơng minh. Nho sĩ đốn là bồ sách nên
đành ngậm ngùi:
Nàng đã chê anh thời ấy chớ
Hẹn nàng luận sự hồi xn sau
Anh nơng gia thì đốn là bồ thóc làng Trịnh cũng đành tiếc nuối ước hẹn năm
sau:
Nàng ơi, nàng hãy đợi anh
Xuân sau có bánh chưng xanh đón nàng
Tất cả đều đốn sai, cuối cùng chỉ một người duy nhất đốn đúng đó là vị
lương tướng trẻ tuổi, tài cao, dung mạo tót vịi giống như Tam công Trịnh
Quốc Bảo. Nên mới hát rằng:
Em là thân phận nữ nhi
Gặp chàng lương tướng em thì xin vâng
Đẹp duyên loan phượng thêm nồng
Trai tài gái sắc thuận tình xứng đơi!
Kén rể là một trị mang tính độc đáo, sáng tạo và biểu trưng cao. Thông
qua này, nhân dân muốn tưởng nhớ đến người ân nhân của mình, muốn hình
ảnh của Tam cơng Trịnh Quốc Bảo ln sống mãi, luôn đẹp, đồng thời thể
hiện tinh thần hiếu khách, mong muốn hình ảnh con người q hương mình
khơng ngừng vươn xa.


21


2.7. Trò chọi voi:
Ba loại voi: voi chọi, voi chầu, voi bị mỗi loại một đơi đều được hồn
thành trước ngày mùng 10 và được rước ra bãi trò sáng ngày hơm đó. Sáng
ngày 11, voi của hai mạn sẽ thi chọi với nhau.
Chọi voi có nguồn gốc từ một truyền thuyết lịch sử, khi Trịnh Quốc
Bảo cùng vua Lý Thái Tơng đi dẹp giặc Chiêm Thành ở phía Nam. Chiêm
Thành là xứ sở của voi. Trong suốt hai trận đánh đầu tiên do đội hình voi của
giặc quá mạnh nên quân ta dù chiến đấu rất anh dũng nhưng đều thất bại,
đành lui về giữ thế cầm cự. Đang trong lúc chưa biết nên tìm cách đánh thế
nào để chiến thắng thì một đêm Trịnh Quốc Bảo nằm mơ thấy một đàn voi từ
trên trời bay xuống phun lửa làm tan rã đội hình voi voi chiến của giặc. Tỉnh
dậy ông mừng rỡ tâu với vua và bàn quyết định dùng kế đan voi nan cho
ngậm mồi lửa trong miệng rồi cho từng tốp lính điều khiển lao vào đội hình
voi thật.
Trước kế tấn cơng hết sức bất ngờ, sáng tạo, thơng minh của qn ta, đội hình
voi thật của giặc bị tan rã và trận này quân ta bắt sống được vui Chiêm Thành.
Sau này, để kỷ niệm, tưởng nhớ lại sự kiện này, Tam công Trịnh Quốc Bảo đã
cho dân làng đan voi nan và thi đấu nhằm tái hiện lại một sự kiện lịch sử.
Voi chọi được làm từ tre. Các chân và khung thân được dùng thân tre
uốn dẻo và ghép lại thật chắc. Đầu voi được đan bằng nan tre. Hai ngà voi
như một đôi sừng chắc khỏe làm bằng gỗ cứng để khi chọi dùng để húc vào
đối phương. Voi của hai mạn được đưa vào bãi chọi. Mỗi voi do 5 thanh niên
khỏe mạnh điều khiển. Trước khi chọi đội chèo sẽ ra múa hát và giới
thiệu.Trong khi hai đội đang thi đấu thì bên ngồi tiếng nhạc, trống, chiêng …
cổ vũ rất sôi động. Hai voi thi đấu trong 3 hiệp, đội nào hạ được đối thủ trước
đội đó sẽ thắng cuộc.

Sau khi diễn xong, ngày 12 các con đều được đốt để hóa lên trời với
các quan. Chọi voi là một trị chơi lành mạnh, trí tuệ, sáng tạo, thể hiện tinh
thần thượng võ của dân ta.
22


2.8. Trị tẩu mã:
Trị tẩu mã cũng có nguồn gốc chung với chọi voi. Trong trận chiến với
voi thật của quân Chiêm Thành nếu chỉ một mình voi nan chưa thể thẳng
được quân địch. Góp phần vào chiến thắng oanh liệt đó cịn có cơng khơng
nhỏ của đội hình ngựa chiến và ngựa bay phố hợp đánh cả trên lẫn dưới, vừa
đánh vừa làm rối loạn đội hình voi của giặc. Tức là đàn ngựa bay bằng nan
được phóng lên cao phun lửa xuống đội hình voi thật của giặc, ở dưới đàn
ngựa chiến cũng bằng nan kết hợp với đàn voi nan lao trực tiếp vào đội hình
của giặc.
Trong trị tẩu mã, có hai cột cao, trơn được chơn ở bãi trò. Hai con
ngựa bay được gắn với một que mảnh, dài, dẻo để điều khiển. Hai người của
hai mạn phải điều khiển thật khéo léo để cho ngựa trèo lên đến đỉnh của cây
cột mà không bị tụt xuống. Phía dưới, đội Thiên vương và hai ngựa chiến
cũng thi đấu với nhau. Thi trong 3 hiệp, đội nào dành nhiều cờ hơn là đội
chiến thắng.
2.9. Trò chọi rồng:
Chọi rồng khơng có nguồn gốc từ truyền thuyết lịch sử như chọi voi và
tẩu mã mà xuất phát từ ước nguyện của nhân dân. Vì thực chất rồng chỉ là
một con vật hư cấu, tồn tại trong tiềm thức, trong tưởng tượng của mỗi người
chứ khơng có thật. Nó tượng trưng cho cái đích của vinh quang mà người ta
mơ ước, hướng tới.
Một đôi rồng múa và một đôi rồng chọi đã được cái rồng chuẩn bị từ
trước. Đôi rồng múa sẽ cùng với ngựa chiến múa xung quanh đôi chọi để trận
đấu chọi voi thêm sinh động, náo nhiệt. Cịn đơi rồng chọi có đầu hình cá

chép sẽ đấu với nhau. Bên nào thắng tức là cá chép đã được hóa rồng. Đây là
biểu tưởng của sự nỗ lực, cố gắng vượt qua thử thách vươn tới ước mơ, vinh
quang, chinh phục đỉnh cao. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của
con người. Trong cuộc sống không bao giờ thôi ước mơ, không ngừng nỗ lực
vươn lên.
23


2.10. Trò giáo tàu:
Trò này cũng là trò diễn mang ý nghĩa tượng trưng. Gồm hai tàu buôn
của Hà Lan và Nhật Bản do hai cái tàu của hai mạn đảm nhiệm. Hai tàu thể
hiện sự giao lưu, buôn bán cho khách thập phương xa, gần, đông, tây. Khi họ
sang nước Nam buôn bán, đi qua gặp hội làng đông vui nhộn nhịp, cuộc sống
giàu có, đơng đúc, sầm uất, gái làng xinh đẹp, tài sắc nên neo thuyền vui chơi
và dự hội kén rể.
Tuy là một trị mang tính biểu trưng nhưng đã thể hiện được tư duy tiến
bộ của nhân dân ta. Ngay từ thời xa xưa đã có mơ ước đưa đất nước, quê
hương đi lên giàu mạnh, vươn xa. Với truyền thống hiếu khách, ai cũng mong
muốn để lại hình ảnh đẹp, tiếng thơm của con người, quê hương mình vươn
xa đến với bạn bè khắp mọi nơi.
2.11. Trị đốt pháo bơng:
Pháo bơng được đốt vào tối cuối cùng của ba ngày lễ hội, tức tối 12
tháng Giêng. Từ những nguyên liệu quen thuộc của làng quê: mây, tre, gỗ và
một lượng chất có thể gây cháy, nổ được lấy từ dân gian, bằng bàn tay khéo
léo, khối óc thơng minh, sáng tạo của nhân dân đã tạo nên những cây pháo
bông tuyệt diệu, độc đáo của nó khiến đến tận ngày nay vẫn khơng ai lý giải
một cách thuyết phục tại sao thời đó nhân dân ta lại có thể làm được một cơng
trình tuyệt vời như vậy? Và làm bằng cách nào?
Sự tuyệt diệu của cây pháo bông không chỉ thể hiện ở sự căn chuẩn vừa
đúng thời gian theo quy định mà còn khiến người xem phải hồi hộp mong đợi

giây phút đốt nó lên để thấy những hình ảnh phong phú, sinh động của đời
sống. Ai cũng trầm trố thán phục và ngạc nhiên, thích thú với màn biểu diễn
pháo bơng của hai mạn.
Sauk hi được phân công, người đảm nhiệm vụ trí cái pháo bơng phải lo
nghiên cứu, tìm tịi và thu thập ngun liệu, tính tốn làm sao để làm được
một cây pháo bông theo đúng yêu cầu. Tùy theo quy mô của lễ hội và thời
gian 1 hoặc 2 hoặc 3 tiếng…Nếu làng quy định đốt trong thời gian ngắn thì
24


làm ít tầng và ngược lại nếu đốt trong thời gian dài thì làm nhiều tầng. Khi
mỗi tầng pháo bơng được đốt lên thì những hình ảnh quen thuộc trong lao
động, sinh hoạt hằng ngày được hiện lên rõ nét: nào là cảnh cày, bừa, cấy, hái,
nào là vui chơi, lễ hội, nào là chiến đấu đánh giặc…Và đốt đến tầng cuối cùng
thì là một câu khẩu hiệu của năm đó được hiện lên. Pháo bơng của mạn nào
đẹp hơn, độc đáo hơn sẽ giành giải thưởng.
Có thể nói, cây pháo bơng là nơi hội tụ của tinh hoa, trí tuệ cộng đồng,
là sản phẩm quy tụ hình ảnh của cuộc sống. Pháo bông được đốt lên không
chỉ phô diễn được tài năng, sáng tạp của nhân dân và phục vụ nhu cầu giải trí
mà cái chính là mang ý nghĩa văn hóa. Kết thúc lễ hội, bằng màn pháo bông
dân làng muốn thông báo cho thần linh là lễ hội đã thành cơng mỹ mãn, tốt
đẹp. Nó thay cho một lời bế mạc lễ hội và cầu mong cho dân làng chuẩn bị
bước sang một năm, một mùa mới với hi vọng sẽ có nhiều thành cơng.
2.12. Trị kỳ lễ, kỳ phúc:
Kỳ lễ kỳ phúc là nghi lễ cuối cùng của lễ hội Trò Chiềng trong một
năm. Đây là một lễ được làm vào ngày rằm tháng Ba với mong muốn cầu trời,
đất, thần, phật bốn phương phù hộ cho mùa màng thắng lợi, phúc lộc mỹ mãn,
dồi dào. Bởi theo phong tục, nếp sinh hoạt sản xuất của người nơng dân thời
xưa thì tháng Giêng, tháng Hai là tháng ăn chơi, hội hè, tháng Ba mới là tháng
“ra đồng”. Với nếp sinh hoạt và tập quán sản xuất như vậy, kỳ lễ kỳ phúc là

một nghi lễ rất cần thiết đối với tâm linh người Việt và cư dân nơng nghiệp
nói chung.
Tiến hành lễ gồm: một thầy ấu, một cậu đồng và một đội múa kèn. Lễ
vật đã được nhân dân chuẩn bị. Thầy ấu là chủ tế. Đội múa đèn có nhiệm vụ
múa hát, dâng lễ, bày tỏ lòng thành đối với thần linh, trời đất.
Bắt tay vào bất cứ một việc gì ai cũng đều mong muốn có một khởi đầu
tốt đẹp, như ý. Với người dân Việt Nam nói chung và người dân Yên Ninh
nói riêng, mùa màng chính là sinh mệnh, là cuộc sống. Nhân dân làng Trịnh
cũng vậy, bước vào một năm mới, một vụ sản xuất mới, họ muốn bày tỏ lòng
25


×