Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Pháp luật về hội thẩm nhân dân ở tòa án nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.26 KB, 55 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ HỘI THẨM NHÂN DÂN
Ở TÒA ÁN NHÂN DÂN

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn : Th.s Vũ Anh Sao
Sinh viên thực hiện

: Trần Trọng Minh

MSSV: 1411270749

Lớp: 14DLK15

TP. Hồ Chí Minh, năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình làm khóa luận tốt nghiệp, bản thân đã nổ lực cố gắng để hoàn
thành tốt khóa luận. Tuy nhiên, trong thời gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp bản thân
cũng đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình và hiệu quả cả về vật chất lẫn tinh thần hay
những tiền đề lý luận cần thiết của bạn bè, thầy cô giáo,... Đặc biệt, được sự giúp đỡ
nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn Thạc sĩ Vũ Anh Sao đã giúp tơi hồn thành tốt khóa
luận này.
Vì thế, cho phép tơi gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến:
- Trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Luật và các thầy cơ


giáo đã cho tôi những tiền đề lý luận cần thiết để thực hiện việc nghiên cứu đề tài và
hoàn thành tốt khóa luận này.
- Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Vũ Anh Sao người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo
và giúp đỡ tơi hồn thành tốt khóa luận này.
- Gia đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần, luôn sát
cánh bên tôi giúp đỡ tơi hồn thành tốt cơng việc của mình.
Trong q trình nghiên cứu và thực hiện khóa luận do năng lực và trình độ có hạn nên
khóa luận khơng tránh khỏi những thiếu sót mong q thầy cơ và bạn đọc có những
phản hồi bổ sung để khóa luận được hoàn thiện tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu tình hình thực
tiễn dưới sự hướng dẫn của Th.s Vũ Anh Sao.
Các kết quả trong khóa luận là trung thực và chưa từng được cơng bố trong
bất cứ cơng trình nghiên cứu nào trước đây. Những thông tin thu thập được ghi rõ
nguồn gốc, trích dẫn rõ ràng.
Tơi xin cam đoan, mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy định viết khóa
luận, hay gian trá, tơi xin hồn thành chịu trách nhiệm.
TP.HCM, ngày 15 tháng 07 năm 2018
Sinh viên
Trần Trọng Minh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1 Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 1

2 Tình hình nghiên cứu................................................................................................. 2
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 3
4 Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 3
5 Kết cấu khóa luận ...................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG VIỆT NAM .......................................................................... 4
1.1 Khái niệm, nguồn gốc và ý nghĩa của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét
xử của Tòa án nhân dân ................................................................................................ 4
1.1.1 Khái niệm Hội thẩm nhân dân.......................................................................... 4
1.1.2 Nguồn gốc của chế định Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa
án nhân dân Việt Nam ............................................................................................... 6
1.1.2.1 Giai đoạn năm 1945 đến năm 1975 ........................................................... 6
1.1.2.2 Giai đoạn năm 1976 đến năm 1988 ........................................................... 9
1.1.2.3 Giai đoạn năm 1989 đến nay ................................................................... 10
1.1.3 Ý nghĩa của chế định Hội thẩm nhân dân ...................................................... 11
1.2 Một số vấn đề pháp lý về Hội thẩm nhân dân ...................................................... 13
1.2.1 Tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân ...................................................................... 13
1.2.2 Thủ tục bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm và nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân ... 15
1.2.2.1 Thủ tục bầu Hội thẩm nhân dân ............................................................... 15
1.2.2.2 Thủ tục miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân ................................ 16
1.2.2.3 Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân............................................................ 16
1.2.3 Trách nhiệm, quyền hạn của Hội thẩm nhân dân ........................................... 17
1.2.3.1 Trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân ....................................................... 17
1.2.3.2 Quyền hạn của Hội thẩm nhân dân .......................................................... 19
1.3 Vị trí và vai trị của Hội thẩm nhân dân ............................................................... 21
1.3.1 Vị trí của Hội thẩm nhân dân ......................................................................... 21
1.3.2 Vai trò của Hội thẩm nhân dân....................................................................... 22
1.4 Các nguyên tắc của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân ............................................................................................................................... 22
1.4.1 Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp

theo thủ tục rút gọn .................................................................................................. 22
1.4.2 Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số ........................... 24


1.4.3 Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật .......................................................................................................... 26
1.5 Đoàn Hội thẩm nhân dân ...................................................................................... 30
1.6 So sánh chế định Hội thẩm nhân dân và chế định Bồi thẩm đoàn của Hoa Kỳ ... 31
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................................... 33
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ CÁC KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT NÂNG CAO VỊ
TRÍ, VAI TRỊ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
Ở TÒA ÁN NHÂN DÂN .............................................................................................. 35
2.1 Những tồn tại, hạn chế từ quy định của pháp luật đối với chế định Hội thẩm nhân
dân ............................................................................................................................... 35
2.2 Các giải pháp, kiến nghị nâng cao vị trí, vai trị của Hội thẩm nhân dân trong hoạt
động xét xử ở Tòa án nhân dân ................................................................................... 40
Tiểu kết chương 2 ......................................................................................................... 45
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 49


1
MỞ ĐẦU

1

Lý do chọn đề tài

Tòa án nhân dân Việt Nam là cơ quan xét xử của nhà nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam, thực hiện xét xử vụ án dân sự, hình sự, hơn nhân gia đình, kinh

doanh thương mại… và giải quyết các vụ việc liên quan thuộc thẩm quyền do pháp luật
quy định. Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế Xã Hội Chủ Nghĩa, bảo vệ chế độ Xã
Hội Chủ Nghĩa, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, bảo vệ tính mạng và tài sản,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Tịa án góp phần giáo dục cơng dân trung thành với Tổ quốc, với Chủ Nghĩa Xã Hội,
chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng các quy định của pháp luật, tôn trọng các
nguyên tắc cuộc sống xã hội, phòng ngừa và chống các tội phạm và các hành vi vi
phạm pháp luật.
Về thủ tục tố tụng, theo quy định tại Điều 103 Hiến pháp 2013, Điều 8 Luật Tổ
chức tịa án nhân dân 2014 thì việc xét xử sơ thẩm phải có sự tham gia của Hội thẩm
nhân dân. Số lượng Hội thẩm nhân dân nhiều hơn số lượng Thẩm phán ở cấp sơ thẩm,
Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán, khi tham giải quyết định bản án đều
bỏ phiếu và quyết định theo đa số. Hội thẩm nhân dân tham gia vào Hội đồng xét xử
một cách độc lập và chỉ tuân thủ theo pháp luật, không bị bất kỳ cá nhân, tổ chức nào
can thiệp vào việc xét xử của Hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân bằng sự tham gia
của mình vào Hội đồng xét xử mà thực hiện quyền lực tư pháp và thơng qua đó để
nhân dân tham gia một cách có hiệu quả vào cơng tác quản lý Nhà nước nói chung,
hoạt động của Tịa án nói riêng. Hoạt động xét xử có sự tham gia và tham gia đúng
thành phần của Hội thẩm nhân dân giúp cho Tòa án xét xử khơng chỉ đúng pháp luật
mà cịn phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Qua đó chúng ta thấy Hội
thẩm nhân dân có tầm quan trọng trong Hoạt động xét xử của Tòa án.
Với quá trình hội nhập, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các quan hệ xã
hội trên thực tế ngày càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến tranh chấp, các vụ án ngày
càng trở nên phức tạp, khó giải quyết. Trong thực tế, năng lực của đội ngũ Hội thẩm
nhân dân còn hạn chế, dẫn tới hậu quả là có khơng ít bản án, quyết định của Tịa án oan
sai hoặc chưa thấu tình đạt lý, làm ảnh hưởng tiêu cực đến quyền, lợi ích của Nhà
nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Như vậy, đặt ra
yêu cầu cần phải nghiên cứu tìm ra các giải pháp khắc phục tình hình, trong đó việc
nâng cao năng lực của HTND trong hoạt động xét xử là một trong những vấn đề rất
quan trọng.



2
Chính vì u cầu đặt ra cần giải quyết nên việc phát huy tốt vai trò của Hội thẩm
nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án là một trong những giải pháp quan trọng
nhằm nâng cao năng lực của Hội thẩm nhân dân để nâng cao chất lượng xét xử của Tịa
án trong q trình cải cách tư pháp, cải cách pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam. Vì thế, sinh viên quyết định chọn đề tài: “Pháp luật về Hội thẩm
nhân dân ở Tòa án nhân dân”.
2

Tình hình nghiên cứu

Chế định Hội thẩm nhân dân khơng cịn là vấn đề mới, trong thời gian xuất hiện
thì đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu đã tìm hiểu về Chế định Hội thẩm nhân dân
như:
-

-

-

-

Luận văn “ Chế định Hội thẩm nhân dân trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”
của Hồng Trí Lý, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.
Hồ Thị Minh Hạnh (2017), Luận văn thạc sĩ “Vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân
dân trong hoạt động xét xử - Từ thực tiễn Tịa án nhân dân Thanh Hóa” của Hồ
Thị Minh Hạnh, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017.
Luận văn “ Nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và

chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự” của Trần Thị Nhung San, Trường
Đại học Luật Hà Nội, 1995.
Luận văn “Nguyên tắc thẩm phán, HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
của Hoàng Hồng Phương, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011
“Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay” của Lê Thành Dương, Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà
Nội, 2002.
“Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân théo pháp luật” của Trần Văn Kiểm, Tạp chí Nghiêm cứu luật pháp số 1
(186), 2011.

Với những cơng trình nghiêm cứu kể trên đã cung cấp một khối lượng kiến thức
lớn, thông tin lớn về đề tài nghiên cứu của sinh viên. Hầu hết các cơng trình nghiên cứu
trên vẫn chưa nêu được đầy đủ về thực tế việc thực hiện các quy định pháp luật về Hội
thẩm nhân dân. Thêm vào đó, chưa có cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu về vị trí,
vai trị của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử ở Tịa án nhân dân địa phương.
Vì vậy đề tài nghiên cứu này vẫn cần thiết và có giá trị. Sinh viên đã đi vào phân tích
vị trí và vai trò của Hội thẩm nhân dân trong Hoạt động xét xử ở Tòa án nhân dân địa
phương để thấy rõ rằng từ những việc đã đạt được trong việc áp dụng chế định Hội
thẩm nhân dân cũng như thực tế vẫn cịn những bất cập và từ đó đưa ra những kiến
nghị, giải pháp thích hợp để được thực thi có kết quả tốt hơn.


3
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3

Đối tượng nghiên cứu: đúng như tên gọi của của đề tài là vị trí, vai trị của Hội
thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử ở Tòa án nhân dân địa phương.

Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những vẫn đề về lý luận,
pháp lý và thực tiễn về vị trí, vai trị của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử ở
Tòa án nhân dân địa phương được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật cụ
thể như sau: Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng
hành chính, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân
dân và các văn bản pháp luật liên quan.
Phương pháp nghiên cứu

4

Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện, tác giả đã sử dụng các phương pháp
tổng hợp, phân tích, so sánh các tài liệu, thống kê và phương pháp quan sát thực tế.
Vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về vị trị, vai trò của Hội thẩm
nhân dân trong hoạt động xét xử ở Tòa án nhân dân địa phương. Cụ thể:
-

-

5

Các phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích các cơng trình nghiên cứu hiện
có và các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, pháp lý liên quan
đến vị trí, vai trị của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân địa phương ở nước ta hiện nay (ở Chương I).
Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để đề xuất các quan điểm, giải
pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về Hội thẩm nhân dân ở nước ta
đáp ứng các yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế (ở
Chương II)
Kết cấu khóa luận


Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận
gồm 2 chương:
Chương 1 Các vấn đề chung về Hội thẩm nhân dân trong pháp luận tố tụng Việt Nam
Chương 2 Thực trạng và các kiến nghị, đề xuất nâng cao vị trí, vai trò của Hội thẩm
nhân dân trong hoạt động xét xử ở Tòa án nhân dân


4
CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG VIỆT NAM
1.1 Khái niệm, nguồn gốc và ý nghĩa của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động
xét xử của Tòa án nhân dân
1.1.1
Khái niệm Hội thẩm nhân dân
Vai trò của Hội thẩm nhân dân rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân Việt Nam. Chính vì tầm quan trọng của Hội thẩm nhân dân chúng ta cần hiểu
rõ về khái niệm Hội thẩm nhân dân.
Theo Từ điển tiếng Việt, “Hội thẩm nhân dân là người do Hội đồng nhân dân
bầu ra trong một thời gian nhất định cùng với Thẩm phán nhiệm vụ xét xử các vụ án
xảy ra ở địa phương”1. Theo như nội dung khái niệm trên thì Hội thẩm nhân dân là
người được Hội đồng nhân dân bầu ra, thẩm quyền Hội thẩm nhân dân thực hiện theo
nhiệm kỳ và chức năng của Hội thẩm nhân dân cùng với Thẩm phán làm nhiệm vụ xét
xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Tịa án.
Ngồi cơ chế hình thành Hội thẩm nhân dân thơng qua cơ chế “bầu” thì Hội
thẩm nhân dân cũng được hình thành thơng qua cơ chế “cử” ở Tòa án quân sự. Chủ thể
trao quyền cho Hội thẩm nhân dân khơng chỉ có Hội đồng nhân dân mà cịn có thể
được thực hiện cơ quan khác thông qua cơ chế “cử”. Thủ tục bầu, cử Hội thẩm cũng
như tiêu chuẩn của Hội Thẩm được quy định trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân.
Xét trong hệ thống khoa học pháp lý, văn bản pháp luật đầu tiên quy định về

Hội thẩm nhân dân là Pháp lệnh số 02/2002/PL-UBTVQH 11, Ngày 14 tháng 10 năm
2002 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Thẩm phán và Hội thẩm nhân Tòa án. Ngày
19 tháng 02 năm 2011, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số
14/2011/UBTVQH12 sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh số 02/2002/PLUBTVQH11. Ngày 18 tháng 12 năm 2013, Văn phòng Quốc hội ban hành Văn bản
hợp nhất số 22/VBHN-VPQH hợp nhất Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Theo Khoản 2, Điều 1 Văn bản số 22/VBHN-VPQH ngày 18 tháng 12 năm 2013 của
Văn phịng Quốc hội thì “Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp
luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án” 2. Từ khái
niệm trên thì thuật ngữ “Hội thẩm nhân dân” xuất phát từ thuật ngữ “Hội thẩm”. Và
cũng theo khái niệm trên thì Hội thẩm Tịa án gồm có “Hội thẩm nhân dân” ở Tòa án
nhân dân và “Hội thẩm quân nhân” ở Tòa án quân sự.

1
2

Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ Điển Tiếng Việt, Nxb Văn Hóa Thơng Tin, Hà Nội
Khoản 2, Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 sửa đổi năm 2011


5
-

-

Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Hội thâm dân nhân tham gia
xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh.3
Hội thẩm quân nhân tham gia xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của
Toàn án quân sự quân khu và tương đương, Hội thẩm quân nhân tham gia xét xử

các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự khu vực.4

Khái niệm Hội thẩm nhân dân cũng được quy định ở Luật tổ chức Tịa án nhân
dân năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 06 năm 2015 đã thay thế Pháp lệnh số
14/2011/UBNTVQH12 ngày 19/02/2011 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ
sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và HTND và cả Văn bản hợp nhất số
22/VBHN-VPQH ngày 18/12/2013 của Văn phòng Quốc hội, cụ thể tại Khoản 2, Điều
7, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Chế độ bầu Hội thẩm nhân dân
được thực hiện đối với Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương. Chế độ cử Hội
thẩm quân nhân được thực hiện đối với Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa
án quân sự khu vực”. Với quy định trên, thì Hội thẩm nhân dân thuộc hệ thống Tòa án
nhân dân được hiểu là người được bầu theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ
xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Còn đối với Hội thẩm
quân nhân là được đề cử.
Thực hiện phân tích thuật ngữ “Hội thẩm nhân dân” trong trong pháp lệnh thẩm
phán và hội thẩm với thuật ngữ “Hội thẩm nhân dân” trong Luật tổ chức Tòa án nhân
dân. Thì có thể thấy rằng “Hội thẩm nhân dân” được bầu theo quy định của pháp luật
để thực hiện nhiệm vụ xét xử trong Tòa án nhân dân. Và cũng trong hai khái niệm “Hội
thẩm nhân dân” trong pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm và trong Luật tổ chức Tịa án
nhân dân khơng nêu chủ thể bầu ra “Hội thẩm nhân dân” là ai mà chỉ nêu được bầu
theo quy định của pháp luật và làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của
Toà án nhân dân [16].
Từ những phân tích trên, dưới góc độ pháp lý khoa học và đảm bảo phù hợp giá
trị pháp lý thì “Hội thẩm nhân dân” được bầu ra làm nhiệm vụ xét xử những vụ án
thuộc thẩm quyền của Tòa án. Nếu so sánh với khái niệm “ Hội thẩm nhân dân” trong
Từ điển Tiếng Việt thì khái niệm “Hội thẩm nhân dân” trong pháp lệnh và luật chặt chẽ
hơn. Vì vậy tác giả đồng tính với khái niệm “Hội thẩm nhân dân là người được bầu

3

4

Điều 3 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 sửa đổi năm 2011
Điều 3 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 sửa đổi năm 2011


6
theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của
Tòa án”.
1.1.2 Nguồn gốc của chế định Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân Việt Nam
1.1.2.1 Giai đoạn năm 1945 đến năm 1975
Sau khi chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tun ngơn độc lập” vào ngày
02/09/1945 khai sinh ra Nhà nước của nhân dân,do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam.
Cũng từ đó văn bản pháp luật đầu tiên có sự tham gia của nhân dân trong hoạt động xét
xử của Tòa án Việt Nam đó là Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 ra đời với tên gọi “Phụ
thẩm nhân dân”. Sắc lệnh này quy định tương đối đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của Phụ
thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tuy nhiên vai trò của Phụ thẩm
nhân dân tại Sức lệnh 13 ngày 24/01/1946 còn mờ nhạt, mang đậm tính hình thức, cụ
thể tại điều thứ 17 – Mục B “Về dân sự và thương sự, Chánh án xử một mình. Những
khi xử các việc tiểu hình, phải có thêm hai viên Phụ thẩm Nhân dân góp ý kiến”5 như
vậy Phụ thẩm nhân dân chỉ được quyền biểu quyết khi được tham gia xét xử việc tiểu
hình mà không được tham gia giải quyết các việc về dân sự và thương sự. Có thể thấy
rằng Phụ thẩm nhân dân với vai trò là đại diện nhân dân vẫn chưa được tham gia tất cả
các hoạt đồng xét xử của Tịa án. Phụ thẩm nhân dân cũng khơng được xem hồ sơ
trước khi phiên tòa6, được Chánh án hỏi ý kiến Phụ thẩm nhân dân về tội trạng các
phạm nhân và về hình phạt nhưng Chánh án vẫn là người quyết định vụ việc7. Quyền
của Phụ thẩm nhân dân trong giao đoạn này mang đậm tính hình thức khi mà Phụ thẩm
nhân dân chỉ mang vai trò giám sát và đóng góp ý kiến của mình cịn mọi quyết định
đều do Chánh án quyết định.

Vào ngày 09/11/1946, tại cuộc họp Quốc hội khóa I đã thơng qua bản hiến pháp
đầu tiên của nước ta, đã chính thức ghi nhận sự tham gia của nhân dân với tên gọi “Phụ
thẩm nhân dân” trong hoạt động xét của của Tòa án Việt Nam. Cụ thể tại Hiến pháp
1946 quy định như sau: “Trong khi xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để
hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là
việc đại hình”.8
Vào ngày 22/05/1950 Sắc lệnh số 85/SL được ban hành do chủ tịch Hồ Chí
Minh ký đánh dấu cho việc cải cách đổi mới về bộ máy tư pháp và luật tố tụng. Với
Sắc lệnh này, nhiều thuật ngữ mới được xuất hiện từ việc thay thế các tên gọi như Toà
Điều thứ 17 – Mục B, Sức lệnh 13 ngày 24/01/1946
Điều thứ 26, Sắc lệnh 13 ngày 24/01/1946
7
Điều thứ 27, Sắc lệnh 13 ngày 24/01/1946
8
Điều thứ 65, Hiến pháp năm 1946
5
6


7
án sơ cấp nay gọi là Toà án nhân dân huyện, Toà án đệ nhị cấp nay gọi là Toà án nhân
dân tỉnh, Hội đồng phúc án nay gọi là Toà phúc thẩm, Phụ thẩm nhân dân nay gọi là
Hội thẩm nhân dân. Như vậy tên gọi “Tòa án nhân dân” ra đời và chế định “Hội thẩm
nhân dân” thay thế chế định “Phụ thẩm nhân dân” thể hiện sự đổi mới tư pháp trong
việc hình thành cơ chế mang tính chất nhân dân, thể hiện bản chất nhân dân của nhà
nước. Đặc biệt Sắc lệnh số 85/SL ra đời để cải cách, đổi mới sắc lệnh số 13 ngày
24/01/1946 một cách rõ dệt, nâng cao vai trò và quyền của Hội thẩm nhân dân. Hội
thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra, đại diện cho thành phần nhân dân và nó
có tính cách nhân dân. Hội thẩm nhân dân có quyền xem hồ sơ và biểu quyết, được
hưởng quyền tài phán như các Thẩm phán. Do đó Hội thẩm nhân dân có quyền ngang

với thẩm phán nên họ là bộ phận chính của Tịa án. Tại Sắc lệnh 85 ngày 22/05/1950
quy định như sau: “Để xử việc hình và việc hộ, Tồ án nhân dân huyện và Toà án
nhân dân tỉnh gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân; Toà phúc thẩm gồm hai
Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân”9. Như vậy trước đây Hội thẩm nhân dân chỉ
tham gia xét xử việc hình thì nay Hội thẩm nhân dân được tham gia xét xử tất cả việc
hình (hình sự) và việc hộ (dân sự) và có quyền biểu quyết bình đẳng với Thẩm phán,
được tham gia quyết định mọi vấn đề của vụ án và họ chiếm đa số trong Hội đồng xét
xử. Vì vậy các quyết định, bản án của Tịa án do Hội thẩm nhân dân mà ra.
Như vậy quyền của Hội thẩm nhân dân đã được mở rộng hơn khi được tham gia
xét xử tất cả các vụ án của Tịa án, có thể thấy rằng Hội thẩm nhân dân vừa nhân danh
nhà nước và là đại diện của nhân danh nhân dân trong cơng tác xét xử, do đó vừa thực
hiện quyền tư pháp và còn thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân qua đó để nhân
dân tham gia một cách có hiệu quả vào cơng tác quản lý nhà nước nói chung, hoạt
động của tịa án nói riêng. Việc chiếm đa số thành viên trong Hội đồng xét xử thể hiện
rằng địa vị pháp lý và vai trò rất quan trọng của Hội thẩm nhân dân trong cơng tác xét
xử. Và Hội thẩm nhân dân có quyền biểu quyết bình đẳng với Thẩm phán thì khi xét xử
nếu ý kiến biểu quyết của các hội thẩm giống nhau nhưng khác ý kiến của thẩm phán
thì quyết định của Hội đồng xét xử phải theo ý kiến của các hội thẩm (đa số).
Nhằm hoàn thiện chế định “Hội thẩm nhân dân” hàng loạt các văn bản ra đời
bao gồm: Sắc lệnh số 151/SL ngày 17/11/1950 về đặt thể lệ chỉ định các Hội thẩm
nhân dân và định hình thành phần Tịa án nhân dân liên khu trong trường hợp đặc biệt;
Sắc lệnh 156/SL ngày 17 tháng 11 năm 1950 về tổ chức các Toà án nhân dân khu và
giao cho các Toà án này xử các vụ phạm pháp về chính trị; Sắc lệnh số 12/SL ngày
30/03/1957 về đổi tên Toà án nhân dân khu Toà án nhân dân phúc thẩm, sửa đổi thẩm
quyền xét xử những vụ phạm pháp chính trị. Với những văn bản trên thì số lượng Hội
9

Điều 3, Sắc lệnh 85 ngày 22/05/1950



8
thẩm nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử tại Tòa án được tăng lên tùy theo cấp xét
xử như Tòa án cấp huyện và cấp tỉnh, Hội đồng xét xử bao gồm một Thẩm phán và hai
Hội thẩm nhân dân; Tòa án cấp phúc thẩm khu và thành phố, Hội đồng xét xử bao gồm
hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Quyền hạn và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân
dân cũng được mở rộng như Hội thẩm nhân dân được quyết định các vấn đề trong hoạt
động xét xử vụ án từ giai đoạn nghiêm cứu hồ sơ vụ án đến biểu quyết về tội danh và
hình phạt; được phổ biến quyền, nghĩa vụ, lề lối làm việc, lịch công tác; được bồi
dưỡng nghiệp vụ, được dự họp tổng kết của Tòa án. Số lượng Hội thẩm nhân dân nhiều
hơn Thẩm phán trong thành phần Hội đồng xét xử có thể thấy rằng về mặt tư pháp đã
cải cách để cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử, vừa nhân danh nhà nước mà
còn đại diện cho nhân dân vì thế góp phần xét xử đúng pháp luật của nhà nước Việt
Nam và thực hiện theo ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Việc Hội thẩm nhân dân luôn
phải được bồi dưỡng kiến thức pháp lý vô cùng quan trọng bởi Hội thẩm nhân dân
được bầu ra từ những người đến từ các lĩnh vực khác nhau nên kiến thức pháp lý của
mỗi người khơng đồng đều. Vì vậy để đạt hiểu quả trong hoạt động xét xử đúng pháp
luật thì ngồi kiến thức chuyên môn của từng lĩnh vực mà Hội thẩm nhân dân đang
cơng tác thì Hội thẩm nhân dân cịn phải được tập huấn và bồi dưỡng kiến thức pháp
luật.
Trong giai đoạn phát triển của nhà nước Việt Nam từ năm 1946 là khoảng thời
gian nhiều sự kiện chính trị quan trọng làm thay đổi tình hình chính trị, xã hội và kinh
tế của đất nước. Do đó ngày 31/12/1959, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa I đã thơng
qua bản Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp năm 1946 và ngày 1/1/1960, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký lệnh công bố bản Hiến pháp năm 1959. Hiến pháp năm 1959 ra đời đã
xác định lại vị trí của Tịa án nhân dân, Tịa án nhân dân khơng cịn trực thuộc Chính
Phủ mà đã chuyển qua chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực cao nhất trong bộ
máy tổ chức nhà nước Việt Nam đó là Quốc hội. Cũng từ đó Luật tổ chức Tịa án nhân
dân năm 1960 ra đời cùng với các văn pháp pháp luật khác và Hiến pháp năm 1959
quy định về Hội thẩm nhân dân một cách hoàn thiện hơn. Các nguyên tắc xét xử được
quy định trong Hiến pháp năm 1959 như sau: Việc xét xử ở các Tồ án nhân dân có

Hội thẩm nhân dân tham gia (Điều 99), nguyên tắc hội thẩm nhân dân ngang quyền với
thẩm phán (Điều 99), nguyên tắc Tồ án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật (Điều 100). Trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 cũng quy định
Hội thẩm nhân dân do nhân dân bầu ra và ngang quyền với Thẩm phán (Điều 11). Như
vậy địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân được nâng lên ngang bằng với Thẩm phán
trong hoạt động xét xử của Tòa án và chỉ tuân theo pháp luật. Và cũng tại Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 1960 việc tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân cũng được áp
dụng theo các cấp xét xử ở Tòa án. Ở cấp sơ thẩm khi xét xử Hội đồng xét xử bao gồm


9
một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, Tòa án nhân dân có thể xử khơng có Hội
thẩm nhân dân trong trường hợp những vụ án nhỏ, giản đơn và khơng quan trọng (Điều
12, Luật tổ chức Tịa án nhân dân năm 1960). Khi xét xử cấp phúc thẩm Hội thẩm nhân
dân chỉ tham gia trong trường hợp đặc biệt (Điều 12, Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 1960).
1.1.2.2 Giai đoạn năm 1976 đến năm 1988
Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước vào năm 1975, cả nước bước
vào một giai đoạn mới về cải cảnh tồn diện kinh tế, chính trị, xã hội nhằm khắc phục
những hậu quả sau chiến tranh bảo vệ tổ quốc và năm 1976 Việt Nam chính thức tuyển
cử bầu Quốc hội. Trong bối cảnh lịch sử đó, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
cần và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tịa án thì
Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chứ Tòa án nhân dân năm 1981 ra đời. Trong Hiến
pháp năm 1980 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 đã xác định rõ chủ thể của
hoạt động xét xử là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân so với Hiến pháp năm 1959 và
Luật tổ chức Tịa án nhân dân năm 1960. Đó là các ngun tắc thể hiện rõ việc tham
gia hoạt động xét của Hội thẩm nhân dân như: Hội thẩm nhân dân ngang quyền với
Thẩm phán (Điều 130, Hiến pháp năm 1980 và Điều 4, Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 1981), xét xử tập thể và quyết định theo đa số (Điều 132, Hiến pháp năm 1980 và
Điều 7, Luật tổ chức Tịa án nhân dân năm 1981).

Hình thức bầu chọn Hội thẩm nhân dân ở mỗi cấp Tịa án có quy định khác nhau
như: Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc ở địa phương(Điều 43, Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 1981), Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tối cao do Hội
đồng Nhà nước cử theo sự giới thiệu của Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam (Điều 42, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981). Khi trở thành
Hội thẩm nhân dân có quyền lợi là được hưởng phụ cấp khi tham gia xét xử và được
bồi dưỡng nghiệp vụ trong cơng tác xét xử của Tịa án.
Và tiêu chuẩn đối với Hội thẩm nhân dân ở giai đoạn này cũng khá đơn giản, cụ
thể được quy định tại Điều 40 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 như sau: “Công
dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, có kiến thức pháp lý cần
thiết, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, thì có thể được bầu
làm thẩm phán Tồ án nhân dân. Cơng dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và chủ
nghĩa xã hội, có quan hệ tốt với nhân dân, thì có thể được bầu làm hội thẩm nhân
dân”. Như vậy tiêu chuẩn phải là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, có kiến
thức trong lĩnh vực nhất định.


10
Trong giai đoạn này cũng đã quy định về nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân như
sau: nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tối cao là hai năm rưỡi, nhiệm
kỳ của hội thẩm nhân dân các Toà án nhân dân địa phương là hai năm.
1.1.2.3 Giai đoạn năm 1989 đến nay
Trong giai đoạn này, có rất nhiều văn bản pháp luật được ban hành nhằm cũng
cố hệ thống pháp luật nhà nước Việt Nam. Cũng vì vậy mà hoạt động xét xử của Tịa
án được mở rộng hơn trước đây, Tòa án được quyền xét xử mọi hành vi vi phạm pháp
luật và mọi tranh chấp phát sinh trong xã hội như những vụ án hình sự, dân sự, kinh
doanh thương mại, hành chính và các lĩnh vực khác trong xã hội mà phát luật quy định.
Vai trò của Tòa án ngày càng được mở rộng đồng nghĩa với vị trí, vai trị của Hội thẩm
nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nâng cao và hồn thiện hơn. Do đó có

nhiều văn bản pháp luật quy định về Hội thẩm nhân dân như: Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988 (được sửa đổi, bổ sung năm 2000), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Hiến
pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân năm 2002 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011), Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2002, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011), Quy
chế tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2005, Luật tổ chức Tịa
án nhân dân 2014, Luật tố tụng hành chính năm 2010, Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Giai đoạn này Hội thẩm nhân dân chủ yếu tham gia hoạt động xét xử ở cấp sơ
thẩm, cấp phúc thẩm Hội thẩm nhân dân tham gia trong trường hợp cần thiết. Số lượng
Hội thẩm nhân dân tham gia hoạt động xét xử ở cấp sơ thẩm phụ thuộc vào tính chất,
mức độ nghiêm trọng, phức tạp của từng vụ án. Tại điều 63 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 quy định Hội đồng xét xử ở cấp sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm
nhân dân, Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân trong
trường hợp đặc biệt. Như vậy số lượng Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử có thể là ba
Hội thẩm nhân dân trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp. Trong
Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định số lượng Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử là
ba Hội thẩm nhân dân trong trường hợp đối với vụ án mà bị cáo truy tố, xét xử về một
tội có khung hình phạt cao nhất đó là tử hình.
Và cũng trong giai đoạn này quyền lợi của Hội thẩm nhân dân cũng được mở
rộng như được bồi dưỡng phụ cấp, được cấp trang phục và cấp giấy chứng minh Hội
thẩm để làm nhiệm vụ xét xử. Và khi hoàn thành tốt nhiệm vụ thì Hội thẩm nhân dân
được tơn vinh và khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.


11
Nhiệm vụ, quyền hạn và các nguyên tắc của Hội thẩm nhân dân cũng được quy
định rõ ràng hơn như: được quyền nghiêm cứu hồ sơ trước khi mở phiên tòa, đề nghị
Chánh án Tòa án và Thẩm phán ra các quyết định cần thiết thuộc thẩm quyền, tham gia
hoạt động xét xử, ngang quyền với Thẩm phán, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,

được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xét xử, phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát
của nhân dân.
1.1.3 Ý nghĩa của chế định Hội thẩm nhân dân
Chế định Hội thẩm nhân dân là một trong những chế định có tầm quan trọng
trong hệ thống pháp luật Việt Nam, cụ thể trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân.
Với tư tưởng “Lấy dân làm gốc, nhằm bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của
nhân dân trong hoạt động xét xử của Tịa án”10. Do đó để thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân thì sự hiện diện của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Hội đồng nhân dân là đại diện cho nhân dân cũng là đại diện cho các lĩnh vực, ngành
nghề, tổ chức xã hội giúp phản ánh một cách khách quan tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân về vụ việc, vụ án trong hoạt động xét xử. Từ đó với phán quyết của Hội thẩm
nhân dân trong từng bản án khi tham gia xét xử vừa đúng với quy định của pháp luật
mà còn thể hiện được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và được sự đồng tình ủng hộ
của xã hội.
Xét về khía cạnh pháp luật là những khn mẫu chung khá cứng nhắc được xây
dựng trên sự đồng thuận theo tỷ lệ mà xã hội chấp nhận được chứ đó khơng phải là
đồng thuận tuyệt đối, cho nên pháp luật cũng không phải là một giá trị tuyệt đối đúng
để có thể áp dụng chung cho mọi trường hợp. Cho nên, pháp luật chưa phải là quy tắc
cao nhất để phán xét đối với hành vi của xã hội. Vì vậy, cần phải có tiếng nói từ phía
người dân, từ phía xã hội thì mới coi đó là các phán xét “thấu tình, đạt lý” và những
người góp phần mang lại tiếng nói người dân đó là Hội thẩm nhân dân.11
Bản chất của Nhà nước là nhà nước của dân, do dân, vì dân trong đó nhân dân
làm chủ, nắm quyền lực Nhà nước. Như vậy, Hội thẩm nhân dân tham gia hoạt động
xét xử với vai trò là đại diện cho nhân dân giám sát hoạt động xét xử của Tòa án, thể
hiện một tập thể nhân dân tham gia hoạt động xét xử.
Ở một góc độ khác, để đảm bảo tính dân chủ và đảm bảo được các quyền cơ bản
của cơng dân thì họ được tham gia vào các hoạt động của Nhà nước, cụ thể là hoạt
động xét xử của Tòa án mà đại diện của họ đó là Hội thẩm nhân dân. Khơng chỉ giúp
Một số vấn đề về chế định Hội thẩm nhân dân” ( ngày 23/11/2012), Báo điện tử Chính phủ Nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, trang 16

11
Th.s Cao Việt Thắng (2010), “Bàn về vai trò của chế định HTND ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật,(9), tr.27-30
10


12
nhân dân tham gia có hiệu quả vào hoạt động xét xử của Tồn án mà cịn giúp nhân
dân kiểm tra hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án và cịn đưa pháp luật vào đời
sống. Trong cơng tác xét xử, thành viên Hội đồng xét xử bao gồm Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân, vì vậy Hội đồng nhân dân khơng chỉ là những người có trình độ cao về
pháp luật mà cịn có kiến thức, kinh nghiệm sống và kinh nghiệm xã hội do đó việc áp
dụng pháp luật mới đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân.
Đáp ứng được yêu cầu đó thì Hội thẩm nhân dân là những người hoạt động và công tác
trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, tổ chức xã hội, các giới, các ngành và là người làm
việc tại các cơ sở uy tín trong xã hội, được quần chúng nhân dân tín nhiệm. Ngồi ra,
Hội thẩm nhân dân cịn có những kiến thức về một số lĩnh vực như y học, tâm lý xã
hội, quản lý kinh tế… hơn thế nữa Hội thẩm nhân dân cần có kiến thức về pháp luật
nhất định. Hội thẩm nhân dân là đại diện của nhân dân nên có mối quan hệ mật thiết
với nhân dân và hiểu rõ tình hình, hồn cảnh, ngun nhân của từng vụ án, từ đó Hội
thẩm nhân dân sẽ thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đưa tiếng nói của nhân
dân vào hoạt động xét xử. Do đó Hội thẩm tham gia vào Hội đồng xét xử sẽ bổ sung
kiến thức thực tiễn cho Thẩm phán và đưa tiếng nói của nhân dân vào hoạt động xét xử
giúp cho hoạt động xét xử có hiệu quả, từ đó đưa ra các phán quyết đúng chính xác.
Thơng qua việc tham gia xét xử, Hội thẩm nhân dân cịn góp phần tăng cường
mối quan hệ giữa Tòa án với nhân dân. Tại hội nghị học tập của cán bộ ngành Tư pháp
năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Trong cơng tác xét xử phải công bằng,
liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Khơng chỉ giới hạn trong hoạt động của
mình trong khung Tòa án mà phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân…”. Thông
qua Hội thẩm, công tác xét xử của Tịa án đến với nhân dân, vì thế nhân dân hiểu và

thơng cảm với cơng tác của Tịa án. Cũng thông qua hoạt động tham gia xét xử của Hội
thẩm nhân dân sẽ giúp phản ánh khách quan cách nhìn nhận về sự kiện, vụ việc từ suy
nghĩ tâm tư của quần chúng nhân dân, từ đó Tịa án có thể nắm bắt được những vướng
mắc, suy nghĩ, tình cảm của quần chúng nhân dân. Một phán quyết của Tịa án có thể
nhận được sự đồng tình của dư luận nhưng cũng có thể bị phản ứng, thắc mắc của dư
luận. Như vậy thông qua chế định Hội thẩm nhân dân, cơng tác xét xử của Tịa án vừa
góp phần nâng cao tinh thần tự giác, tơn trọng và bảo vệ pháp luật của nhân dân, lại
vừa chịu giám sát của nhân dân.[17]
Khi tham gia trực tiếp vào giải quyết vụ án của Tịa án thì Hội thẩm nhân dân
giúp cho Tòa án tuyên truyền kết quả giải quyết vụ án, phân tích rõ pháp luật để nhân
dân có thể hiểu được các quy định pháp luật áp dụng trong từng vụ án. Từ đó Hội thẩm
nhân dân thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật, giúp cho nhân dân ý thức được
pháp luật của nhà nước Việt Nam và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. Trong các
mẫu thuẫn , tranh chấp trong xã hội thì Hội thẩm nhân dân đóng vai trị quan trọng


13
trong cơng tác hịa giải những mẫu thuẫn đó. Như vậy Hội thẩm nhân dân có ý nghĩa
tích cực trong hoạt động xét xử của Tòa án như sau:
Một là, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tịa
án. Việc tham gia vào cơng tác xét xử của Tịa án, khơng chỉ là thực hiện quyền tư
pháp, mà còn tham gia vào việc kiểm sốt thực hiện quyền tư pháp, thơng qua việc
góp tiếng nói phản ánh tâm tư từ thực tiễn gắn bó gần gũi với đời sống hoàn cảnh của
người dân, bị cáo trong vụ án, để từ đó làm sáng tỏ nguyên nhân, hoàn cảnh phát sinh tội
phạm cụ thể, phát sinh tranh chấp,… vào quá trình xét xử, nhằm giúp Hội đồng xét xử có
sự đồng cảm từ đó đưa ra quyết định thật chính xác, khách quan, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người dân theo quy định của pháp luật.
Hai là, tăng cường mối quan hệ giữa Tịa án và Nhân dân thơng qua cầu nối là
Hội thẩm. Cũng thơng qua Hội thẩm, Tịa án nắm bắt được những vướng mắc, suy
nghĩ, tình cảm của Nhân dân. Một phán quyết của Tịa án chỉ có thể nhận được sự đồng

tình của Nhân dân, khi nó phản ánh đúng sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật,
khi thật sự là chỗ dựa về mặt tinh thần, là niềm tin vào công lý của Nhân dân và khi đó
tính thượng tơn pháp luật mới được đề cao.
Ba là, thơng qua cơng tác xét xử Hội thẩm giúp Tịa án thực hiện tốt công tác
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong Nhân dân, tuyên truyền về kết quả xét
xử, phân tích rõ cơ sở áp dụng pháp luật trong q trình giải quyết vụ án, từ đó góp
phần giáo dục ý thức pháp luật của cơng dân tại nơi Hội thẩm làm việc.[19]
1.2 Một số vấn đề pháp lý về Hội thẩm nhân dân
1.2.1 Tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân
Hội thẩm nhân dân có vị trí quan trọng trong hoạt động xét xử của Tịa án, chính
vì vậy để trở thành Hội thẩm nhân dân cần phải đáp ứng những tiêu chuẩn đặc thù, tính
chất cơng việc cũng như kiến thức của Hội thẩm nhân dân. Những tiêu chuẩn Hội thẩm
nhân dân được quy định trong các văn bản pháp luật như: Điều 85 Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014, Khoản 2 Điều 5 và Điều 37 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
Tòa án nhân dân năm 2002 sửa đổi năm 2011, Thông tư liên tịch số 01/2004/ TTLTTANDTC-UBTWMTTQVN. Như vậy tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân bao gồm những
tiêu chí như sau:
- Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần kiên quyết bảo
vệ công lý và pháp chế xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, tơn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ


14
nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân12. Hội thẩm nhân dân là cơng dân Việt Nam,
do đó Hội thẩm mới có trách nhiệm lớn lao, là người con của Việt Nam thi mới hiểu
được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam qua đó Hội thẩm nhân dân đại diện
cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Tịa án. Ngồi ra cịn phải trung thành
với Tổ quốc và pháp luật, khi đó Hội thẩm nhân dân là thành viên của Hội đồng xét xử
vừa nhân danh nhà nước mà còn là đại diện của nhân dân tham gia xét xử, vì thế góp

phần xét xử đúng pháp luật của nhà nước Việt Nam và thực hiện theo ý chí, nguyện
vọng của nhân dân.
- Là người phải có kiến thức pháp luật cũng như hiểu biết xã hội ở mức độ nhất
định13. Ví dụ như: đối với vụ án lao động thì Hội thẩm nhân dân là người có kiến thức
pháp luật về lao động, đối với vụ án có đương sự là người chưa thành niên thì phải có
Hội thẩm nhân dân là người cơng tác tại Đồn thanh niên cộng sản Việt Nam hoặc cơ
quan quản lý nhà nước về trẻ em. Mỗi Hội thẩm nhân dân khơng có kiến thức pháp luật
đồng đều bởi Hội thẩm nhân dân được bầu là những người xuất phát từ những ngành
nghề khác nhau trong các lĩnh vực như: giáo dục, Đoàn Thanh niên Việt Nam, y tế,
Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Đoàn Lao động, thương binh và xã hội,…nhưng họ có kiến
thức chun mơn trong từng lĩnh vực và ngành nghề đang công tác. Như vậy Hội đồng
nhân dân thể hiện tính dân chủ cịn Thẩm phán thể hiện tính chun mơn trong xét xử.
Ngồi ra, Hội thẩm nhân dân địi hỏi phải có kiến thức pháp luật để đảm bảo cho công
tác xét xử có chất lượng và cũng đảm bảo được nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”14. Bởi vậy Hội thẩm nhân dân sẽ
luôn được tập huấn những kiến thức xét xử và được bồi dưỡng kiến thức pháp luật cần
thiết cho hoạt động xét xử. Khi được bồi dưỡng kiến thức pháp lý tốt thì Hội đồng
nhân dân sẽ nâng cao kiến thức pháp luật đồng nghĩa với việc trong xét xử Hội thẩm
nhân dân sẽ đưa ra biểu quyết đúng với quy định pháp luật.
- Có đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có sức khỏe tốt và tinh thần minh mẫn để
hoàn thành nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó yếu tố ngoại hình cũng được coi trọng
như khơng bị dị hình, dị tật.15 Khi đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ để tự mình xác
lập các hành vi trong các mối quan hệ và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Từ đó có
thể nhận thức chính xác được các yếu tố về nhận thức của từng quan hệ pháp luật cũng
như đưa ra các phán quyết chính xác trong từng vụ án. Về sức khỏe, phải đảm bảo sức
khỏe tốt để hoàn thành nhiệm vụ được giao của Hội thẩm nhân dân, bởi trong những vụ
án cụ thể khi xét xử có thể kéo dài trong nhiều giờ hoặc nhiều ngày. Để hồn thành
Khoản 1, Điều 85 Luật tổ chức Tịa án nhân dân năm 2014
Khoản 1, 2 Điều 37 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
14

Khoản 2, Điều 103 Hiến pháp năm 2013
15
Mục II, Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-TANDTC-UBTWMTTQVN ngày 01 tháng 03 năm
2004
12
13


15
nhiệm vụ xét xử yếu tố sức khỏe không thể thiếu, ngồi ra Hội đồng nhân dân cịn đại
diện cho nhân dân và nhân danh nhà nước thực hiện quyền tư pháp thì yếu tố ngoại
hình cũng được quan tâm như vậy Hội thẩm nhân dân khơng bị dị hình hình hay dị tật.
Đối với những người đã bị kết án, những người hiện đang công tác tại các cơ
quan Tòa án, Viện Kiểm sát, Điều tra, Thi hành án và những người đang làm việc tại
các tổ chức luật sư, tư vấn pháp lý, về độ tuổi thì đối với nam trên 70 tuổi và đối với nữ
trên 65 tuổi.16 Những trường hợp trên thì khơng được giới thiệu để bầu làm hội thẩm
Tòa án nhân dân.
1.2.2 Thủ tục bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm và nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân
dân
1.2.2.1 Thủ tục bầu Hội thẩm nhân dân
Theo quy định tại Điều 86 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và tại Điều
38 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 sửa đổi 2011 thì Hội thẩm
nhân dân Tịa án nhân dân địa phương (bao gồm Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án
nhân dân cấp tỉnh) do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra theo sự giới thiệu của Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.
Nhu cầu về số lượng, cơ cấu thành phần Hội thẩm nhân dân cũng được Tòa án
nhân dân địa phương đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp lựa chọn.
Như vậy trên cơ sở đó Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc lập danh sách những người có đủ tiêu
chuẩn Hội thẩm nhân được quy định tại Điều 85 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014 giới thiệu cho Hội đồng nhân dân bầu ra các Hội thẩm nhân dân.17

Thẩm quyền bầu Hội thẩm nhân dân thuộc Hội đồng nhân dân các cấp là rất hợp
lý, bởi Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực đại diện cho nhân dân ở địa phương.
Tịa án nhân dân cấp nào thì chịu giám sát bởi Hồi đồng nhân dân cấp đó, do đó Hội
thẩm nhân dân thực hiện xét xử của Tịa án nhân dân cấp nào thì do Hội đồng nhân dân
cấp đó bầu ra.
Để việc bầu Hội thẩm nhân dân của Hội đồng nhân dân chính xác, việc bầu
những người đủ tiêu chuẩn thay mặt nhân dân thực hiện chức năng xét xử, giám sát
hoạt động của Tòa án thì Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp là tổ chức chính trị - xã hội
ở địa phương, là nơi tập trung các tổ chức quần chúng giới thiệu, lựa chọn những người
có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín trong cộng đồng dân cư, được nhân dân tin u, tín

Mục II, Thơng tư liên tịch số 01/2004/TTLT-TANDTC-UBTWMTTQVN ngày 01 tháng 03 năm
2004
17
Khoản 1, Điều 86 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
16


16
nhiệm, lập danh sách để Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm, tham gia xét xử tại Tòa
án địa phương các cấp.[17]
Đối với các huyện, quận các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện thí
điểm khơng tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện theo nghị quyết
724/2009/UBTVQH12 ngày 16/01/2009 thì thủ tục bầu Hội thẩm nhân dân được
hướng dẫn tại Thông tư số 03/2009/TT-TANDTC ngày 05/03/2009 như sau: Chánh án
Tòa án nhân dân quận, huyện căn cứ vào nhu cầu xét cử của đơn vị mình thống nhất
với Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc huyện, quận về cơ cấu, thành phần số
lượng nhân sự dự kiến đưa ra bầu Hội thẩm Toà án nhân dân huyện, quận.[16]
1.2.2.2 Thủ tục miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân
Thủ tục miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân được quy định tại Khoản 1

Điều 86 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và Điều 41 Pháp lệnh Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân năm 2002 sửa đổi 2011 cụ thể như sau:
- Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân địa
phương cùng cấp sau khi được đề nghị bởi Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp thống
nhất với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp.18
- Hội thẩm nhân dân có thể được miễn nhiệm vì lý do sức khỏe hoặc lý do khác
ảnh hưởng đến nhiệm vụ được giao.19
- Khi có hành vi vi phạm về phẩm chất đạo đức hoặc có hành vi vi phạm pháp
luật khơng cịn xứng đáng làm Hội thẩm thì Hội thẩm nhân dân đó sẽ bị bãi nhiệm.20
1.2.2.3 Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân
Theo quy định tại Điều 87 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và Điều 39
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 sửa đổi 2011thì nhiệm kỳ của
Hội thẩm nhân dân được quy định như sau:
Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và thuộc thẩm quyền
của Hội đồng nhân dân.21 Do đó nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân theo nhiệm kỳ của
Hội đồng nhân dân đã bầu ra Hội thẩm nhân dân đó. Nhiệm kỳ của Hội đông nhân dân
là 05 năm (Khoản 1 Điều 6 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân), vì
vậy nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân là 05 (năm) năm, kể từ ngày được bầu.

Khoản 1, Điều 86 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
Khoản 1, Điều 90 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
20
Khoản 2, Điều 90 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
21
Khoản 1, Điều 87 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
18
19


17

Trường hợp Hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ thì Hội thẩm nhân dân tiếp tục
làm nhiệm vụ cho đến khi Hội đồng nhân dân khóa mới bầu ra Hội thẩm nhân dân
mới.22
Hội thẩm nhân dân có thể được bầu lại để làm nhiệm vụ xét xử nếu Hội thẩm
nhân dân đó trong nhiệm kỳ của mình đạt được kết quả tốt và được tín nhiệm của nhân
dân. Ngược lại, Hội thẩm nhân dân sẽ không được bầu lại nếu trong q trình thực hiện
nhiệm vụ tại Tịa án khơng đạt được kết quả tốt, khơng được tín nhiệm của nhân dân.
1.2.3 Trách nhiệm, quyền hạn của Hội thẩm nhân dân
1.2.3.1 Trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân
- Sau khi trở thành Hội thẩm nhân dân phải trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân. Trong hoạt động xét xử của Tịa án có trách nhiệm bảo vệ pháp chế
xã hội chủ nghĩa, chấp hành nghiêm chỉnh và tuân theo pháp luật, bảo về quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức về danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe và cả
uy tín của tổ chức. Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử nên mang tính chất là nhân dân
thực hiện quyền lực của nhà nước vì thế cần phải đảm bảo được các yếu tố tiên quyết ở
trên.
- Hội thẩm nhân dân sau khi được Hội đồng nhân dân bầu ra để tham gia xét xử
và khi làm nhiệm vụ tham gia xét xử phải chịu theo sự phân cơng của Chánh án Tịa án
mà khơng được từ chối.23 Như vậy dưới góc độ về quản lý hành chính thì Hội thẩm
nhân dân vẫn phải chịu sự quản lý, chỉ dạo và phân công của Chánh án Tòa án nhân
dân nơi Hội thẩm nhân dân được bầu ra. Chánh án thực hiện việc quản lý hoạt động là
đầu não của cơ quan Tòa án, dưới sự phân cơng của Chánh án Tịa án sẽ thực hiện tốt
cơng tác hoạt động của Tịa án. Chính vì vậy Hội thẩm cần tuân thủ theo các quy định
của Tòa án để thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động xét xử của Tòa án. Theo quy định
tại Khỏa 2 Điều 89 Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Điều 36 Pháp lệnh Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân thì Hội thẩm nhân dân được Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp
phân cơng nhiệm vụ xét xử thì Hội thẩm nhân dân không được phép từ chối và phải có
nghĩa vụ tham gia xét xử. Tuy nhiên nếu từ chối thì Hội thẩm nhân dân phải đưa ra lý

do thích đáng hoặc do luật tố tụng quy định. Có thể thấy với quy định trên nhằm nâng
cao trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân trong công tác xét xử để đảm bảo hoạt động
xét xử luôn được ổn định và có sự hiện diện cuả Hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét
xử. Trước khi tham gia vào hoạt động xét xử thì Hội thẩm nhân dân chịu sự phân cơng
22
23

Khoản 1, Điều 87 Luật tổ chức Tịa án nhân dân năm 2014
Khoản 2 Điều 89 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014


18
của Chánh án, và trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Chánh án phân cơng
Hội thẩm nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của vụ án cụ thể. Và sau khi được
phân công thì Hội thẩm nhân dân sẽ được nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên tòa và
được tham gia xét xử cùng với Thẩm phán.
- Với địa vị pháp lý là thành viên của Hội đồng xét xử, Hội thẩm nhân dân phải
tuân theo những nguyên tắc hiến định “ Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật”, tuân thủ những quy định của pháp luật tố tụng và pháp luật
liên quan trong quá trình xét xử. Trong quá trình xét xử Hội thẩm nhân dân phải chịu
trách nhiệm đối với hoạt động xét xử của mình, nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì
tùy theo tính chất, mức độ mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật [16]. Như vậy khi có
sai phạm mà lỗi mình gây ra làm ảnh hưởng đến cơng tác của mình thì Hội thẩm nhân
dân đó phải chịu trách nhiệm về tính chất lỗi của mình gây ra. Điều này rằng buộc Hội
thẩm nhân dân khi đưa ra các quyết định cần phải xem xét kỹ càng, nghiêm cứu hồ sơ
vụ án đảm bảo tính khách quan theo đúng quy định của pháp luật. Hội thẩm nhân dân
chỉ tuân thủ theo quy định của pháp luật tránh các trình trạng cá nhân, tổ chức can thiệp
vào hoạt động xét xử của Hội thẩm nhân dân. Nếu bị ảnh hưởng do tác động của cá
nhân, tổ chức nào đó mà làm ảnh hưởng đến cơng tác xét xử thì Hội thẩm nhân dân

phải chịu trách nhiệm với hành vi mà mình gây ra.
- Với chức năng của mình Hội thẩm nhân dân có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật đến quần chúng nhân dân. Để giúp cho nhân dân hiểu các quy
định của pháp luật, thơng qua hoạt động xét xử của mình, Hội thẩm nhân dân giải thích
cho người dân biết về các quy định của pháp luật, qua đó làm cho người dân hiểu các
chính sách pháp luật của nhà nước [16]. Hội thẩm nhân dân đại diện nhân dân tham gia
vào hoạt động xét xử của Tịa án thì phải cần sát nhân dân, động viện, khuyến khích
nhân dân trong cơng tác tn thủ pháp luật. Chính vì vậy góp phần giáo dục nhân dân
trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc
của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật
khác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân theo quy định của pháp luật.
- Ngồi ra, Hội thẩm nhân dân phải có nhiệm vụ báo cáo kết quả tham gia hoạt
động xét xử của mình cho cơ quan có thẩm quyền đã cử hoặc bầu mình làm Hội thẩm.
Tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, giữ gìn bí mật cơng tác theo quy định của pháp luật,
phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân24. Hội thầm nhân dân được
Hội đồng nhân dân bầu ra vì thế Hội thẩm nhân dân phải có trách nhiệm báo cáo tình
hình thực hiện nhiệm vụ được giao cho Hội đồng nhân dân. Hội thẩm nhân dân cần
Điều 8, Điều 9 Nghị quyết ban hành Quy chế tổ chức và Hoạt động của Đoàn hội thẩm ngày 13
tháng 06 năm 2016
24


19
tuân thủ đạo đức nghề nghiệp tránh ảnh hưởng tiêu cực và bị tác động từ bên ngoài, khi
thực hiện cơng tác thì Hội thẩm nhân dân cần phải giữ bí mật cơng tác, nếu bị lộ bí mật
cơng tác thì tùy theo mức độ nghiêm trọng Hội thẩm nhân dân sẽ phải chịu trách nhiệm
trước quy định của pháp luật.
1.2.3.2 Quyền hạn của Hội thẩm nhân dân
Sau khi được bầu làm Hội thẩm nhân dân thì trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
được giao Hội thẩm nhân dân có những quyền hạn sau:

- Sau khi được bầu làm Hội thẩm nhân dân mà trong 01 năm công tác Hội thẩm
nhân dân khơng được Chánh án Tịa án nhân dân phân cơng làm nhiệm vụ xét xử thì có
quyền u cầu Chánh án cho biết lý do25. Với vai trò là người đại diện cho tiếng nói
của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án, Hội thẩm nhân dân được quyền tham
gia xét xử tất cả các vụ án của Tồ án, nên Chánh án phải phân cơng Hội thẩm nhân
dân làm thành viên Hội đồng xét xử mà khơng vì một lý do gì cản trở quyền tham gia
xét xử của Hội thẩm. Có rất nhiều Hội thẩm nhân dân nhưng Chánh án Tòa án phải
đảm bảo được tất cả Hội thẩm nhân dân được tham gia xét xử, tránh tính trạng phân
biệt đối xử của Chánh án Tịa án trong việc phân cơng xét xử của Hội thẩm nhân dân
dẫn đến có Hội thẩm được tham gia xét xử nhiều, có Hội thẩm tham gia xét xử ít.
- Hội thẩm nhân dân cịn được tập huấn, bồi dưỡng về nghiệp vụ, được tham gia
hội nghị tổng kết cơng tác xét xử của Tịa án nhân dân.26 Khi làm nhiệm vụ xét xử thì
Hội thẩm nhân được hưởng phụ cấp xét xử và khi hoàn thành tốt nhiệm vụ thì Hội
thẩm nhân dân được tơn vinh và khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua,
khen thưởng. Ngồi ra Hội thẩm nhân dân cịn được cấp trang phục, Giấy chứng minh
Hội thẩm để làm nhiệm vụ xét xử.27
- Đối với Hội thẩm nhân dân là cán bộ, cơng chức thì trong thời gian Hội thẩm
nhân dân làm nhiệm vụ thì thời gian đó được tính là thời gian làm việc tại cơ quan, đơn
vị. Và trong thời gian Hội thẩm nhân dân làm nhiệm vụ mà Chánh án Tịa án nhân dân
phân cơng.28
- Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội thẩm nhân dân có quyền liên
hệ với cơ quan nhà nước, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của mặt
trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và cơng dân.

Khoản 5, Điều 84 Luật tổ chức Tịa án nhân dân năm 2014
Khoản 1 Điều 88 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
27
Khoản 4 Điều 88 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
28
Khoản 2 Điều 88 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014

25
26


20
Đối với quyền khi tham gia xét xử vụ án cụ thể:
- Khi được Chánh án Tòa án nhân dân phân công Hội thẩm nhân dân tham gia
hoạt động xét xử một vụ án thì sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, lúc này Hội
thẩm nhân nhân là thành viên của Hội đồng xét xử và phải tuân theo sự sắp xếp, bố trí
của Thư ký được phân công làm nhiệm vụ trong cùng vụ án, khi đó Hội thẩm nhân dân
được quyền nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên tòa. Tòa án phải tạo điều kiện thuận
lợi cho Hội thẩm tiếp cận hồ sơ vụ án, được đọc và nghiêm cứu các tình tiết có trong
vụ án, hiểu rõ nội dung vụ án, nắm bắt được các vấn đề cần được giải quyết của vụ án.
Việc tiếp cận hồ sơ và nghiêm cứu hồ sơ của vụ án trước khi mở phiêm tòa giúp cho
Hội thẩm nhân dân biết rõ những tình tiết của vụ án để chuẩn bị tốt cho công tác xét xử
tại phiên tịa, từ đó có những đánh giá, những quan điểm, nhận thức về chứng cứ, tình
tiết và cơ sở pháp lý. Qua đó Hội thẩm nhân dân trao đổi các ý kiến của mình với
Thẩm phán và có thể đề nghị Chánh án hoặc Thẩm phán đưa ra các quyết định cần
thiết trong vụ án.
- Tại phiên tòa, Hội thẩm nhân dân có quyền hỏi các đương sự, xét hỏi các bị cáo
và những người tham gia tố tụng khác để làm sáng tỏ vụ án, qua đó đánh giá đúng các
chứng cứ để cùng Thẩm phán đưa ra các phán quyết về việc giải quyết vụ án.
Tại phần nghị án, Hội thẩm nhân dân và Thẩm phán cùng thảo luận tại phòng
nghị án và biểu quyết về các vấn đề của vụ án và được nghi lại một cách trung thực,
khách quan trong biên bản nghị án, biên bản nghị án phải có đầy đủ chữ ký của của các
thành viên Hội đồng xét xử. Trong trường hợp cần thiết cần bảo lưu ý kiến thì được
trình bày bằng văn bản và lưu trong hồ sơ vụ án [17].
- Khi có quyết định phân cơng Hội thâm nhân dân của Chánh án Tòa án nhân dân
vào vị trí Hội đồng xét xử một vụ án cụ thể mà khi đó Hội thẩm nhân dân nhận thấy
rằng mình khi tham gia mang tính chất khơng vơ tư, khơng khách quan trong khi tham

gia giải quyết vụ án và thuộc trong các trường hợp mà pháp luật quy định thì Hội thẩm
nhân dân có quyền từ chối kể cả trường hợp đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc
từ chối tham gia hoạt động xét xử cần phải nêu rõ lý do.29
- Tại phiên tòa xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán và độc
lập, chỉ tuân theo pháp luật. Do đó Hội thẩm nhân dân có quyền chất vấn, tham gia hỏi
đương sự hoặc bị cáo, được tranh luận tại phiên tòa, được nghị án, đưa ra các quyết
định và phán quyết của mình đúng với pháp luật.
- Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử
vụ án đó căn cứ vào pháp luật để tiến hành thủ tục hòa giải đối với những vụ án mà
pháp luật không cấm tiến hành thủ tục hòa giải. Hiện này quyền hòa giải của Hội thẩm
29

Khoản 4, Điều 84 và khoản 2, Điều 89 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014


×