Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần lí luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.56 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

CƠNG TÁC PHÁP CHẾ TRONG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN-LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Văn Thạch
Sinh viên thực hiện:

Ngơ Hồng Triều

MSSV: 1411270993

Lớp: 14DLK09

TP. Hồ Chí Minh, 2018


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô Khoa luật trường Đại học Công
nghệ TP.HCM đã dành cho tôi sự quan tâm và tạo mọi điều kiện tốt nhất để có thể
hồn thành bài khóa luận tốt nghiệp.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành và sâu sắc đến Thạc sĩ Nguyễn Văn
Thạch -người thầy tận tụy, chỉ bảo, dìu dắt tơi trong suốt q trình học tập và thực
hiện đề tài này.
Tơi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các anh chị nhân viên phòng pháp chế của


ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long đã giúp đỡ, hỗ trợ, đóng góp ý kiến cho
tơi trong q trình thực hiện đề tài.
Tự đáy lịng mình, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn vơ hạn đến gia đình thân u của
tơi, cảm ơn những người bạn thân thiết đã chăm sóc, khích lệ tơi trong q trình
nghiên cứu.


LỜI CAM ĐOAN
Tơi tên:Ngơ Hồng Triều, MSSV: 1411270993.
Tơi xin cam đoan các số liệu, thơng tin sử dụng trong Khố luận tốt nghiệp này
được thu thập từ nguồn thực tế tại Đơn vị thực tập, trên các sách báo khoa học
chun ngành (có trích dẫn đầy đủ và theo đúng qui định);
Nội dung trong khoá luận này do kinh nghiệm của bản thân được rút ra từ quá
trình nghiên cứu và thực tế tại phòng pháp chế Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên
Long , không sao chép từ các nguồn tài liệu, khố luận khác.
Nếu sai sót, tơi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường và
pháp luật.

Sinh viên
(kí tên, ghi đầy đủ họ tên)

Ngơ Hoàng Triều


DANH MỤC VIẾT TẮT
-

NHTM: Ngân hàng thương mại.

-


NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC PHÁP CHẾ
TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN. ......................................... 1
1.1.Khái quát về ngân hàng thương mại cổ phần. ............................................... 1
1.1.1. Sự hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại cổ phần ............1
1.1.2. Hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam hiện nay. ...........4
1.2. Khái quát về công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần. ....... 6
1.2.1. Khái niệm về công tác pháp chế. ........................................................................ 6
1.2.2. Sự cần thiết và sự hình thành, phát triển của phịng pháp chế trong ngân
hàng thương mại cổ phần. ..................................................................................7
1.3. Tổ chức của phòng pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần........... 10
1.4. Nội dung của công tác pháp chế và hoạt động của phòng pháp chế trong
ngân hàng thương mại cổ phần. ........................................................................ 15
1.4.1. Nội dung của công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần. ...... 15
1.4.2. Hoạt động của phòng pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần........ 15
1.4.3.Những đảm bảo cho hoạt động của phòng pháp chế và những trách
nhiệm phát sinh trong quá trình hoạt động. .............................................................. 24
1.5.Mối quan hệ giữa phòng pháp chế với Ban Tổng giám đốc và các phòng
ban, chi nhánh. .................................................................................................. 25
1.5.1. Mối quan hệ giữa phòng pháp chế với Ban Tổng giám đốc. .................... 25
1.5.2. Mối quan hệ giữ phòng pháp chế với các phòng ban, chi nhánh. ........... 26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG PHÁP CHẾ
TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. 28
2.1. Thực trạng tổ chức và hoạt động của phòng pháp chế trong ngân hàng
thương mại cổ phần. ......................................................................................... 28

2.1.1. Thực trạng về tổ chức. ......................................................................................... 28
2.1.2.Thực trạng về hoạt động. ..................................................................................... 33
2.2. Một số kiến nghị về tổ chức và hoạt động của phòng pháp chế trong Ngân
hàng thương mại cổ phần. ................................................................................. 51


2.2.1. Kiến nghị về cơ cấu tổ chức của phòng pháp chế trong Ngân hàng
thương mại cổ phần. ........................................................................................................ 52
2.2.2. Kiến nghị về hoạt động của phòng pháp chế trong Ngân hàng thương
mại cổ phần. ....................................................................................................................... 54
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài: Trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế, việc đảm bảo
hoạt động kinh doanh của các NHTMCP đúng pháp luật và phòng tránh rủi ro pháp
lý trong kinh doanh là rất quan trọng hơn nữa ngân hàng là một ngành hết sức nhạy
cảm và quan trọng của nền kinh tế, nó liên quan đến nhiều lĩnh vực ngành nghề,
chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật khác nhau do đó cơng tác pháp chế
là một mảng cần được quan tâm một cách sâu sắc. Nhưng trong thực tế, việc nhận
thức và đánh giá vai trị của cơng tác pháp chế trong NHTMCP vẫn còn chưa đầy
đủ, việc triển khai cơng tác pháp chế ở nhiều ngân hàng vẫn cịn hạn chế, chưa theo
kịp yêu cầu của thực tiễn. Hiện nay, chưa có một văn bản qui phạm pháp luật nào
qui định cụ thể về tổ chức pháp chế trong NHTMCP và chưa có một cơng trình
nghiên cứu nào nghiên cứu đầy đủ về công tác pháp chế trong NHTMCP. Chính vì
vậy, đây là một vấn đề rất cấp thiết. Lựa chọn nghiên cứu đề tài này tác giả mong
muốn hồn thành khóa luận của mình và khẳng định cơng tác pháp chế là vô cùng
cần thiết và giữ vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các
NHTMCP. Địi hỏi phải có sự quan tâm, nghiên cứu một cách thật thấu đáo về công
tác pháp chế trong các NHTMCP từ mặt lí luận cũng như thực tiễn hoạt động, đồng

thời đưa ra các biện pháp tối ưu để giải quyết những khó khăn, bất cập đang tồn tại,
từ đó xây dựng tính hồn thiện và vững mạnh cho cơng tác pháp chế trong các
NHTMCP.
2. Tình hình nghiên cứu: Đề tài về cơng tác pháp chế trong NHTMCP hiện
nay chưa thu hút được nhiều sự chú ý các học giả và các nhà khoa học. Cho nên số
lượng bài viết, nghiên cứu về đề tài này là không nhiều, thường chỉ tập trung nghiên
cứu một phần nội dung riêng lẽ mà chưa khái quát toàn bộ cơng tác pháp chế trong
NHTMCP.
3. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu, phân tích những quy định của pháp
luật và những hoạt động thực tiễn của công tác pháp chế trong NHTMCP nhằm làm
khẳng định vai trị quan trọng của cơng tác pháp chế trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Đồng thời chỉ ra những khó khăn, bất cập từ đó có những biện pháp
khắc phục hiệu quả để cơng tác pháp chế trong các NHTMCP được ngày càng hoàn
thiện hơn.


4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:


Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chủ yếu mà đề tài muốn

hướng đến đó là cơng tác pháp chế trong NHTMCP, cụ thể hơn đó là cơ cấu tổ chức
và những hoạt động của bộ phận pháp chế trong NHTMCP.


Phạm vi nghiên cứu: Tác giả tìm hiểu về cơng tác pháp chế trong

NHTMCP thông qua việc nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành, những văn bản nội bộ và các số liệu trong thực tiễn hoạt động của bộ phận
pháp chế trong các NHTMCP. Bên cạnh đó, để phục vụ cho cơng tác nghiên cứu tác

giả còn tham khảo thêm các văn bản, tài liệu có liên quan của nhiều tác giả, nhà
nghiên cứu hoặc tổ chức khác.
5. Phương pháp nghiên cứu: Trong đề khóa luận tác giả đã sử dung những
phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân loại và hệ thống hóa.
6. Bố cục khái quát của khóa luận:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về công tác pháp chế trong ngân hàng thương
mại cổ phần.
Chương 2: Thực trạng về tổ chức và hoạt động pháp chế trong ngân hàng
thương mại cổ phần và một số kiến nghị.


Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC PHÁP CHẾ
TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN.
1.1.

Khái quát về ngân hàng thương mại cổ phần.
1.1.1. Sự hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại cổ phần
Trong thời buổi hiện nay, ngân hàng là một thuật ngữ khơng cịn xa lạ đối

với các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế “Ngân hàng được sử dụng như một thuật
ngữ để nói đến các tổ chức làm chức năng nhận thu tiền gửi của công chúng và đem
số tiền gửi đó cho người khác vay” [2;4]. Ngân hàng là một tổ chức tài chính rất
quan trọng trong nền kinh tế, nó thực hiện các hoạt động chấp nhận tiền gửi và phân
phối lại những tiền gửi đấy vào hoạt động cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp thơng
qua các thị trường vốn, bên cạnh đó ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ liên quan
đến tài chính và tiền tệ khác trong nền kinh tế. Ngân hàng cũng được ví như một
cầu nối giữa những người có vốn dư thừa và những người đang thiếu vốn. Theo đạo

luật ngày 3/6/1942 của Pháp quy định: “Được xem là ngân hàng là những xí nghiệp
hay cơ sở nào làm nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức kí thác,
hoặc hình thức khác, những khoản tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ
chiếc khấu, nghiệp vụ tín dụng hay nghiệp vụ tài chính”[1;9]
Trên thế giới những ngân hàng thương mại (NHTM) đầu tiên đã xuất hiện
vào khoảng giữa cuối thế kỉ XVI do quá trình phát triển của nền thương mại và kĩ
nghệ, những NHTM này đều thuộc sở hữu của tư nhân. NHTM lúc bấy giờ đảm
nhiệm nhiều vai trò khác nhau trong nền kinh tế như kinh doanh tiền tệ, cung cấp
các dịch vụ ngân hàng và có một vai trị vô cùng đặt biệt mà không thấy xuất hiện
trong vai trị của NHTM hiện nay đó là phát hành tiền nên trong cùng một quốc gia
sẽ có nhiều loại tiền khác nhau. Qua nhiều giai đoạn phát triển của nền kinh tế đã
nhận thấy rằng, việc trong cùng một quốc gia có nhiều loại tiền khác nhau đã khơng
cịn phù hợp nữa. Chính vì vậy, vào nửa cuối thế kỉ thứ XVII nhà nước đã từng
bước can thiệp vào hoạt động của hệ thống ngân hàng và giảm thiểu các NHTM
được phát hành tiền, cuối cùng chỉ còn lại một ngân hàng duy nhất có chức năng
phát hành tiền đó chính là Ngân hàng Trung ương, điều này mang lại sự thống nhất
trong hoạt động tiền tệ của các quốc gia và tạo ra một sự phân hóa về chức năng của
các ngân hàng một cách rõ rệt. NHTM giờ chỉ cịn đảm nhiệm vai trị kinh doanh

SVTH: Ngơ Hồng Triều

1

Lớp: 14DLK09


Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.

tiền tệ và cung cấp dịch vụ ngân hàng còn việc phát hành và tổ chức điều tiết hoạt
động lưu thông tiền tệ thuộc về nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước.

Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền
kinh tế hàng hóa bởi vì ngân hàng là một sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa.Trong
lịch sử phát triển, trải qua nhiều thăng trầm, nhiều giai đoạn phát triển khác nhau
cho đến nay ngân hàng có nhiều bước phát triển cực kì nhanh và mạnh mẽ, các dịch
vụ tài chính tiền tệ ngày càng được nâng cao và xuất hiện ngày càng nhiều.
Ở Việt Nam, trong suốt thời kì tồn tại của các triều đại phong kiến cho đến
nửa đầu thế kỉ XIX thì hầu như khơng có sự tồn tại của ngân hàng. Trước Cách
mạng tháng Tám, do mục đích đẩy mạnh q trình khai thác thuộc địa ở Đông
Dương nên Pháp đã thành lập Ngân hàng Đông Dương vào năm 1875 ( theo sắc
lệnh ngày 21/1/1875 của Tổng thống Pháp ban hành), vì vậy chính sách tiền tệ tín
dụng do Pháp bảo hộ thơng qua Ngân hàng Đông Dương. Sau khi Cách mạng tháng
Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, hệ thống
ngân hàng Việt Nam cũng bắt đầu được xây dựng từng bước. Ngày 6 tháng 5 năm
1951 đã trở thành một bước ngoặt lịch sử của sự phát triển hệ thống tiền tệ và ngân
hàng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng
Quốc gia Việt Nam-ngân hàng nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á
với Tổng giám đốc đầu tiên là cố Phó Chủ tịch Phạm Lương Bằng, chính thức khai
sinh ra một ngành kinh tế trọng yếu của nhà nước đó là ngành ngân hàng. Văn bản
này có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam và tạo ra
một cơ sở pháp lí đầu tiên cho hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ đây có thể chia làm
hai thời kỳ.Từ năm 1951 đến năm 1987 là thời kì của hệ thống ngân hàng một cấp.
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ban đầu có những nhiệm vụ chủ yếu là quản lý việc
phát hành giấy bạc, thu hồi giấy bạc tài chính, tổ chức lưu thông tiền tệ, quản lý kho
bạc nhà nước, huy động vốn cho vay phục vụ sản xuất và lưu thơng hàng hóa, quản
lý các hoạt động tín dụng bằng biện pháp hành chính, quản lý ngoại hối, các khoản
giao dịch bằng ngoại tệ và đấu tranh tiền tệ với địch. Ngày 21/1/1960 Ngân hàng
quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Thông
tư số 20/VP-TH. Đến năm 1975 Ngân hàng Quốc gia ở miền Nam được hợp nhất


SVTH: Ngơ Hồng Triều

2

Lớp: 14DLK09


Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.

vào Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tạo thành hệ thống ngân hàng duy nhất tại Việt
Nam và đương nhiên các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế cũng như hệ thống
tiền tệ - ngân hàng theo mơ hình ở miền Bắc đã áp dụng thống nhất trong cả nước.
Song do nhiều nguyên nhân mà trong nhiều năm liên tục, cán cân thanh toán quốc tế
bội chi rất lớn, kinh tế vĩ mô mất cân đối nghiêm trọng, tình hình tài chính tiền tệ
căng thẳng, sản xuất trì trệ ... Đại hội Đảng lần thứ 6 đã đề ra đường lối đổi mới cho
đất nước, 2 pháp lệnh ngân hàng do Hội đồng Bộ Trưởng ban hành (Pháp lệnh
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và cơng
ty tài chính) được cơng bố ngày 23/5/1990 là cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định
sự thay đổi mạnh mẽ của ngành ngân hàng: Từ ngân hàng một cấp thành ngân hàng
hai cấp. “Hệ thống ngân hàng hai cấp là mơ hình cải tiến của hệ thống ngân hàng
một cấp cho phù hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế đất nước từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung sang cơ chế thị trường.” [3;11]. Theo đó Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ tín dụng, thanh tốn, ngoại hối… thực
thi nhiệm vụ của một Ngân hàng Trung ương. Theo quá trình đổi mới từ ngân hàng
một cấp thành ngân hàng hai cấp thì hàng loạt ngân hàng cấp hai ra đời thực hiện
chức năng kinh doanh với các loại hình khác nhau như ngân hàng thương mại cổ
phần (NHTMCP), ngân hàng quốc doanh, ngân hàng liên doanh, chi nhánh hoặc đại
diện của các ngân hàng nước ngoài, hợp tác xã tín dụng quỹ tín dụng nhân dân,
cơng ty tài chính. Với một hệ thống ngân hàng hai cấp như vậy hồn tồn có thể
khẳng định rằng q trình chuyển đổi cơ chế kinh tế từ tập trung bao cấp sang kinh

doanh thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơng cuộc đổi mới ngân hàng
nói chung và sự tồn tại, phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng đã
thành cơng ở Việt Nam. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã thực sự làm đổi mới hệ thống ngân
hàng thương mại phù hợp với tình hình ngày càng phát triển về kinh tế của đất
nước.
NHTM ở Việt Nam cũng được ra đời từ bối cảnh đó. NHTM là một tổ chức
kinh tế chuyên thực hiện các hoạt động trong ngân hàng về các lĩnh vực cung cấp
tiền tệ, dịch vụ tài chính giữa khách hàng và ngân hàng hoặc ngược lại.Theo khoản
3 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 thì NHTM được định nghĩa như sau:

SVTH: Ngơ Hồng Triều

3

Lớp: 14DLK09


Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.

“Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động
ngân hàng và các hoạt đông kinh doanh khác theo quy định của luật này nhằm mục
đích lợi nhuận.”
NHTMCP là một trong những loại hình của NHTM. Gọi là NHTMCP để
phân biệt với các ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại liên
doanh và chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngồi tại Việt Nam. Sự góp mặt
của các NHTMCP đã góp phần đa dạng hóa các chủ thể cung cấp dịch vụ ngân
hàng, tăng tính cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của NHTM.
Hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, qua thực tiễn đã yêu cầu đưa hoạt
động ngân hàng nói chung và hoạt động của NHTMCP nói riêng vào một khn

khổ pháp luật cao hơn.Vì thế, có nhiều văn bản pháp luật ra đời nhằm tạo cơ sở
pháp lí vững chắc cho tổ chức và hoạt động của các NHTMCP. Đặt biệt là Luật
ngân hàng nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng được phát triển từ hai
pháp lệnh trước đó có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1998.
Trong giai đoạn này để cụ thể hóa hơn những quy định của Luật Các tổ chức
tín dụng năm 1997 thì vào năm 2000 chính phủ đã ban hành Nghị định số
49/2000/NĐ-CP ngày 12 tháng 9 năm 2000 về tổ chức và hoạt động của ngân hàng
thương mại và hiện nay được thay thế bằng Nghị định 59/2009/NĐ-CP ngày 16
tháng 7 năm 2009. Từ đây các NHTM, đặt biệt là NHTMCP đã tiến hành cải cách
tổ chức và hoạt động để phù hợp hơn với nghị định này, nghị định này quy định khá
cụ thể về cơ cấu tổ chức của loại hình NHTM và các loại hoạt động kinh doanh của
ngân hàng được mở rộng và phong phú hơn.
1.1.2. Hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam hiện nay.
Theo Khoản 3 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đã nêu rõ khái niệm về
NHTM “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của luật này
nhằm mục tiêu lợi nhuận” và Điều 2 Nghị định 59/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt
động của ngân hàng thương mại thì ngân hàng thương mại bao gồm: Ngân hàng
thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng thương mại liên
doanh, ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài. Tại Mục 3 Luật Các tổ chức
tín dụng 2010 chỉ có quy định chung cho những tổ chức tín dụng là cơng ty cổ phần,

SVTH: Ngơ Hồng Triều

4

Lớp: 14DLK09


Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.


tổ chức và hoạt động của NHTMCP được quy định chi tiết tại Nghị định 59/2009
NĐ-CP. Trong số các loại hình của NHTM thì NHTMCP chiếm số lượng đông đảo
nhất. Theo danh sách do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cập nhật thì tính đến ngày
31 tháng 6 năm 2015 hệ thống NHTMCP trong nước có tổng cộng 34 ngân hàng
NHTMCP và tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2017 thì cịn lại 31 NHTMCP tồn tại
và hoạt động. Như vậy, so với năm 2015 thì số lượng NHTMCP trong hệ thống
giảm 3 ngân hàng, đầu tiên phải nhắc đến GP Bank Ngân hàng TMCP Dầu khí tồn
cầu bị Ngân hàng Nhà nước mua lại với giá 0 đồng gây nhiều tranh cãi trong dư
luận, tiếp theo là NHTMCP Phát triển Mê Kông sáp nhập vào ngân hàng Hàng Hải
và NHTMCP Phương Nam sáp nhập vào NHTMCP Thương Tín.
NHTMCP theo quy định của pháp luật Việt Nam phải là ngân hàng thương
mại (được thực hiện toàn bộ hoạt động của ngân hàng và các hoạt đông kinh doanh
khác có liên quan vì mục đích lợi nhuận theo Khoản 1 Điều 5 Nghị định 59/2009
NĐ-CP) và được thành lập dưới hình thức cơng ty cổ phần theo sự điều chỉnh của
luật doanh nghiệp 2014. Như vậy, chúng ta có thể thấy tổ chức và hoạt động của
NHTMCP được điều chỉnh bởi pháp luật về ngân hàng và pháp luật về công ty cổ
phần theo Luật Doanh nghiệp 2014. Nhưng trong đó pháp luật về ngân hàng được
ưu tiên áp dụng vì đây là pháp luật chuyên ngành, điều chỉnh trực tiếp mọi hoạt
động của NHTMCP.
Theo Nghị định 59/2009/NĐ-CP thì cơ cấu tổ chức của ngân hàng thương mại
cổ phần gồm có:
Đại hội đồng cổ đơng: gồm tất cả các cổ đơng của NHTMCP, là cơ quan có
quyền quyết định cao nhất, hoạt động theo quy định của pháp luật và điều lệ của
NHTMCP (Theo Điều 41 Nghị định 59/2009/NĐ-CP )
Hội đồng quản
trị: là cơ quan quản trị ngân hàng, có tồn quyền nhân danh ngân hàng để
quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng, trừ những vấn đề thuộc
thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông, chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông
về kết quả hoạt động cũng như những sai phạm trong quản lí, vi phạm điều lệ, vi

phạm pháp luật gây thiệt hại cho ngân hàng. (Theo Điều 46 Nghị định 59/2009/NĐCP)

SVTH: Ngơ Hồng Triều

5

Lớp: 14DLK09


Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.

Ban kiểm sốt: là cơ quan giám sát hoạt động của ngân hàng nhằm đánh giá
chính xác hoạt động kinh doanh thực trạng tài chính của ngân hàng. (Theo Điều 52
Nghị định 59/2009/NĐ-CP).
Tổng giám đốc: là người điều hành công việc hàng ngày của ngân hàng, chịu
trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước pháp luật về việc điều hành hoạt động
hằng ngày của ngân hàng. Giúp việc cho Tổng giám đốc có các Phó Tổng giám đốc,
các Giám đốc/Phó giám đốc các phịng ban và một bộ máy chun mơn nghiệp vụ.
Phịng pháp chế nằm trong bộ máy chun mơn nghiệp vụ đó. (Theo Điều 55 Nghị
định 59/2009/NĐ-CP).
1.2.

Khái quát về công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần.
1.2.1. Khái niệm về công tác pháp chế.
Pháp chế hay chế độ pháp luật là một chế độ và trật tự pháp luật trong đó tất

cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và
thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. Pháp chế và pháp
luật có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng không đồng nhất. Pháp chế thể hiện sự
đòi hỏi và những yêu cầu đối với các chủ thể pháp luật, phải triệt để tôn trọng và

nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Pháp chế nếu mang ý nghĩa
Nhà nước thì sẽ bao gồm cả pháp luật, nhưng nếu mang ý nghĩa ngành thì sẽ chỉ bao
gồm các quy định pháp luật trong ngành đó cùng với việc vận dụng các quy định
này, có nghĩa là sẽ nhỏ hơn pháp luật. Hiện nay, khái niệm pháp chế chỉ còn là khái
niệm của khoa học pháp lí, trong Hiến pháp 2013 đã bỏ thuật ngữ này.
Theo cuốn Công tác pháp chế tuyên truyền, giáo dục và hồn thiện pháp luật
của Liên Xơ của tác giả Nguyễn Bình xuất bản năm 1981 đã có nêu lên khái niệm
của công tác pháp chế trong nền kinh tế quốc dân “Ở các nước Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa khác ( như Cộng hòa Dân chủ Đức,…), công tác tổ chức thi hành
nghiêm chỉnh pháp luật ( chấp hành, sử dụng, vận dụng, thực hiện pháp luật) được
thống nhất gọi là công tác pháp chế. Công tác pháp chế được thực hiện trong tất cả
các ngành, các cấp, trong tất cả các khâu sản xuất và quản lí, ở bất cứ cấp nào, dù
đó là Bộ, Ủy ban Nhà nước, Tổng cục, Ủy ban Nhân dân, đơn vị cơ sở hay các bộ
phận cơ cấu của các cơ quan, tổ chức đó. Bởi vì, khơng có một cơ quan, một đơn vị
nào mà ở đó khơng có việc thi hành và tổ chức thi hành các qui phạm pháp

SVTH: Ngơ Hồng Triều

6

Lớp: 14DLK09


Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.

luật”[1;14]. Chính vì thế, có thể thấy rằng vai trị của cơng tác pháp chế là vơ cùng
quan trọng, đó là một cơng tác có phạm vị vô cùng rộng lớn, xuyên suốt trong mọi
hoạt động từ nhà nước cho đến tư nhân với cùng một mục đích là tuân thủ đúng quy
định của pháp luật nhưng phạm vi, hình thức và phương pháp của cơng tác pháp chế
cịn tùy vào nơi thực hiện nó. Hiện nay, có rất nhiều người nhầm lẫn giữa cơng tác

pháp chế và bộ phận pháp chế, như trong NHTMCP thì công tác pháp chế là một
công tác tổ chức thi hành pháp luật và quy chế của ngân hàng còn bộ phận pháp chế
trong NHTMCP là một bộ phận của cơng tác quản lí, vận hành của ngân hàng.
Cơng tác pháp chế phủ khắp và đan xen vào mọi hoạt động của ngân hàng bởi vì ở
đâu cũng có vấn đề liên quan đến pháp luật. Qua đó nhận thấy bộ phận pháp chế là
một bộ phận thực hiện công tác pháp chế trong NHTMCP, nếu công tác pháp chế là
một công cụ bảo vệ quyền lợi của ngân hàng thì bộ phận pháp chế là một bộ phận
có chức năng đảm bảo về mặt pháp lí cho ngân hàng thường được xếp vào các khối
phịng, ban có chức năng hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Qua nghiên cứu các khái niệm về pháp chế và công tác pháp chế như trên tác
giả đưa ra định nghĩa về công tác pháp chế trong NHTMCP như sau: Công tác pháp
chế trong NHTMCP là quá trình thực hiện các cơng việc mang tính chất chun
mơn về pháp luật với mục đích nhằm bảo đảm mọi hoạt động quản lí và kinh doanh
của ngân hàng đúng với quy định của pháp luật, giảm thiểu rủi ro pháp lí, bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của ngân hàng.
1.2.2 Sự cần thiết và sự hình thành, phát triển của phòng pháp chế trong
ngân hàng thương mại cổ phần.
Hoạt động kinh doanh có vai trị rất quan trọng đối với nền kinh tế đất nước
cho nên nó được pháp luật điều chỉnh. Vì vậy, việc cần đến sự tư vấn về pháp luật
của các tổ chức bên ngồi như Cơng ty luật, Văn phòng luật sư… hay tự bản thân
mỗi doanh nghiệp tự thành lập cho mình một bộ phận bao gồm những người am
hiểu về pháp luật thuộc cơ cấu tổ chức của công ty là một điều hết sức cần thiết cho
hoạt động kinh doanh và sự phát triển của doanh nghiệp.
Bởi vì, với một khối lượng kiến thức pháp luật, văn bản pháp luật khổng lồ
như ở Việt Nam và cịn có cả pháp luật của quốc tế nên việc không am hiểu pháp
luật và thông lệ quốc tế luôn tiềm ẩn những rủi ro to lớn cho hoạt động kinh doanh

SVTH: Ngơ Hồng Triều

7


Lớp: 14DLK09


Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.

của bản thân doanh nghiệp. Theo Luật sư, Ths Nguyễn Thanh Hà - Chủ tịch Công
ty Luật SBLAW nêu ra quan điểm “Pháp chế là một công cụ trong hoạt động bảo vệ
quyền lợi của doanh nghiệp. Bộ phận pháp chế là một bộ phận có chức năng đảm
bảo về mặt pháp lý cho doanh nghiệp, thường được xếp vào là một bộ phận thuộc
khối các phịng, ban có chức năng hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.”[21;1]. Phịng pháp chế như một cơng cụ hỗ trợ và phịng tránh những rủi
ro pháp lí cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, khi vướng vào những rủi ro
đó dù ít hay nhiều cũng đem đến sự phiền toái nhất định cho doanh nghiệp thậm chí
là nhiều thiệt hại và bất lợi, để có thể giải quyết những rủi ro đó doanh nghiệp phải
tốn kém nhiều chi phí và tiền bạc, khiến họ mệt mỏi không tập trung được vào công
việc kinh doanh, một tổn thất nữa khơng thể cân đo đong đếm được đó là danh dự
và uy tín của doanh nghiệp.
Tuy nhiên trên thực tế, trong quá trình thực hiện hoạt động sản xuất, kinh
doanh, nhiều doanh nghiệp chưa coi trọng yếu tố pháp luật thậm chí cịn lơ là,
khơng quan tâm đến những thay đổi trong các chính sách pháp luật, điều này tập
trung phần lớn trong bộ phận các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sẽ thật là sai lầm nếu
doanh nghiệp tiếp tục hướng đi trên. Theo Trưởng ban Pháp chế (Phịng Thương
mại và Cơng nghiệp Việt Nam) Đậu Anh Tuấn “Tâm lý của nhiều doanh nghiệp
hiện nay là khi có khó khăn nhờ ln cán bộ cơng chức nhà nước làm việc tại đó, là
nguồn gốc của bảo kê, tham nhũng. Tâm lý quen biết, quan hệ một phần nào đấy
hiệu quả nhưng ở mức độ khác lại ảnh hưởng đến tính chuyên nghiệp. Với tâm lý
như vậy nên họ không quan tâm đến việc xây dựng bộ phận pháp chế. Trong khi đó
đối với doanh nghiệp nước ngồi, trước khi ra quyết định, ký kết hợp đồng đều
tham vấn ý kiến luật sư. Ơng Tuấn cịn cho biết, thậm chí cả việc sử dụng luật sư

khi ký kết các hợp đồng kinh doanh cũng là chuyện hiếm. Có những vị chủ doanh
nghiệp ký những hợp đồng có giá trị rất lớn nhưng nội dung các điều khoản lại quá
sơ sài. Vì khơng chú trọng đến những điều đó nên khi có tranh chấp thì thiệt hại rất
lớn”[22;1]. Đó chính là sự khác biệt to lớn giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh
nghiệp nước ngồi, bởi vì họ chưa chú trọng đến tầm quan trọng của công tác pháp
chế mà đó là một trong những ngun nhân chính dẫn đến những thiệt hại cho
doanh nghiệp của họ. Một doanh nghiệp xây dựng một đội ngũ pháp chế vững

SVTH: Ngơ Hồng Triều

8

Lớp: 14DLK09


Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.

mạnh thì sẽ nâng cao được vị thế của mình lên trong những cuộc đàm phán với các
đối tác khác đặc biệt là đối tác nước ngoài. Thể hiện sự hiểu biết về pháp luật,
khẳng định bản thân doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh đàng hồng ln
tn thủ pháp luật, tạo ra sự tin tưởng, hình ảnh tốt cho đối tác trong quá trình hợp
tác kinh doanh. Một lần nữa khẳng định việc ra đời của phòng pháp chế trong doanh
nghiệp là một điều tất yếu, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Việc thành lập phòng pháp chế trong NHTMCP chỉ mới được nhìn nhận một
cách đúng đắn trong những năm trở lại đây cùng với sự phát triển của NHTMCP.
Trước năm 1990 chúng ta chưa có NHTMCP nên khơng đặt ra vấn đề thành lập
phịng pháp chế. Giai đoạn 1990 đến khi có Nghị định 49/NĐ-CP ban hành, có
nhiều văn bản pháp luật ra đời tao cơ sở pháp lí cho tổ chức và hoạt động của ngân
hàng này. Thực chất trước đây các ngân hàng mới được thành lập và hình thức hoạt
động cũng cịn đơn giản nên việc thành lập phịng pháp chế khơng được đề ra, tuy

nhiên sự tồn tại của phòng pháp chế vẫn được hiện hữu, hoạt động của phòng pháp
chế được thực hiện bởi các bộ phận pháp chế thuộc cơ cấu của các phịng ban khác
trong ngân hàng.
Trong thời kì hội nhấp quốc tế việc đảm bảo hoạt động kinh doanh của ngân
hàng đúng pháp luật và phòng tránh những rủi ro là vơ cùng quan trọng, bên cạnh
đó nhiều văn bản pháp luật mới ra đời làm cho tổ chức và hoạt động của NHTMCP
được quy định cụ thể và phong phú hơn, cũng chính vì thế mà mức độ rủi ro trong
lĩnh vực ngân hàng ngày càng gia tăng. Để đảm bảo an toàn bắt buộc ngân hàng
phải làm đúng các quy định của pháp luật, nhưng để làm đúng thì trước tiên cần
phải am hiểu nó. Việc thành lập một phòng ban gồm những người am hiểu pháp
luật thực hiện công việc tư vấn pháp luật là điều phải làm trong giai đoạn này và sự
ra đời của phòng pháp chế là điều tất yếu. Tuy vậy, vào năm 2000 chỉ có một số ít
NHTMCP có phịng pháp chế như NHTMCP Á Châu và NHTMCP Hàng Hải, năm
2001 phòng pháp chế NHTMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam được thành lập.
Để làm rõ thêm về sự cần thiết của việc thành lập phịng pháp chế trong
NHTMCP thì chúng ta cần phải quan tâm đến những nguyên nhân dẫn đến việc
hàng loạt rủi ro pháp lí của các NHTMCP xảy ra liên tục trong thời gian trước đây,
chủ yếu là do không am hiểu pháp luật và thông lệ quốc tế, thậm chí đã từng có

SVTH: Ngơ Hồng Triều

9

Lớp: 14DLK09


Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.

những ngân hàng khơng nắm được quy định của pháp luật Việt Nam, mà quan trọng
hơn là các ngân hàng khơng thấy được vai trị của phòng pháp chế trong hoạt động

đầu tư kinh doanh. Đối với thiệt hại với con số hàng ngàn tỉ đồng kèm theo đó là
những vụ đại án kinh hồng trong ngành ngân hàng rống lên một hồi chuông cảnh
tỉnh cho các ngân hàng về sự quan tâm sâu sắc hơn nữa cho cơng tác phịng chống
những rủi ro về pháp lí. Vẫn biết hiện nay tất cả các NHTMCP đều có phịng pháp
chế với cơ cấu tổ chức và hoạt động khá ổn, nhưng nhận thức về vai trò của hoạt
động pháp chế chỉ còn dừng ở mức vừa phải. Qua đó cho thấy, đã có phịng pháp
chế mà rủi ro vẫn có thể xảy ra nếu phịng pháp chế khơng được thành lập thì rủi ro
sẽ nhiều hơn đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.3. Tổ chức của phòng pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần.
Phòng pháp chế là một phòng ban “sinh sau đẻ muộn” so với các phòng ban
khác trong NHTMCP. Cơ cấu tổ chức, hoạt động và nhiệm vụ của phòng pháp chế
ở mỗi NHTMCP thường được quy định cụ thể trong quy chế tổ chức và hoạt động
của phòng pháp chế do Hội đồng quản trị của ngân hàng đó ban hành. Hiện nay,
chưa có một văn bản pháp luật cụ thể nào quy định về hoạt động và tổ chức của bộ
phận pháp chế trong NHTMCP mà chỉ có Nghị định 122/2004/NĐ-CP ngày
18/05/2004 quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức pháp chế Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ, cơ quan chun mơn thuộc Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương và doanh nghiệp nhà nước nay được
thay thế bằng Nghị định 55/2011/NĐ-CP ngày 4/7/2011 và Thông tư 01/2015
hướng dẫn thi hành nghị định này. Vấn đề này có thể lí giải như sau: bởi vì
NHTMCP là một loại hình doanh nghiệp khơng phải của nhà nước, có chăng nhà
nước chỉ có một phần vốn ở trong đó, vì vậy Nhà nước không muốn can thiệp vào
nội bộ tổ chức của doanh nghiệp, nên nhà nước không ban hành pháp luật qui định
về tổ chức pháp chế trong các doanh nghiêp tư nhân nhưng đối với các cơ quan như
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh thành phố trực thuộc trung ương và doanh nghiệp nhà nước
thì nhà nước có ban hành nghị định 55/2011/NĐ-CP qui định về tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ quyền hạn của tổ chức pháp chế nằm trong các cơ quan này. Các
NHTMCP khi hình thành và phát triển thấy rất cần có phịng pháp chế cho nên dựa


SVTH: Ngơ Hồng Triều

10

Lớp: 14DLK09


Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.

vào mơ hình pháp chế của doanh nghiệp nhà nước để xây dựng cho mình một
phịng pháp chế.
Phòng pháp chế trong NHTMCP sẽ được thành lập theo điều lệ ngân hàng. Phòng
pháp chế được lập ra để bảo vệ quyền lợi của ngân hàng, giảm thiểu rủi ro, duy trì
sự ổn định trong kinh doanh của ngân hàng, hơn nữa bản chất của phòng pháp chế
là một bộ phận hỗ trợ, việc thành lập phòng pháp chế do các ngân hàng tự nhận thấy
sự cần thiết trong thực tiễn hoạt động, nó là một cơng cụ để tự bảo vệ chính bản
thân ngân hàng, cịn về việc nội dung bảo vệ, hình thức bảo vệ như thế nào là do
bản thân mỗi ngân hàng quyết định nên nhà nước không muốn can thiệp vào nội bộ
của ngân hàng, nhằm tạo tính linh hoạt cho hoạt đơng kinh doanh, khơng bó buộc
các doanh nghiệp xây dựng một phịng pháp chế theo một khn khổ nhất định.
Căn cứ theo điểm d khoản 1 Điều 54 Quyết định số 383/2002/QĐ-NHNN
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Mẫu điều lệ ngân hàng
thương mại cổ phần thì Tổng giám đốc có nhiệm vụ trình cho Hội đồng quản trị về
cơ cấu tổ chức quản lí và điều hành tại trụ sở chính, cơ cấu tổ chức điều hành của sở
giao dịch, chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp. Như vậy, việc thành lập
phòng pháp chế trong NHTMCP sẽ thuộc thẩm quyền của Hội đồng quản trị.
Phòng pháp chế thường được đặt ở hội sở chính của ngân hàng, tuy nhiên ở
một số NHTMCP các chi nhánh có khoảng cách địa lí xa so với hội sở chính thì có
thể có bộ phận pháp chế của chi nhánh với mục đích nhằm giảm tải áp lực cho bộ
phận pháp chế ở hội sở chính, giải quyết cơng việc một cách nhanh chóng và kịp

thời tránh mất nhiều thời gian.
Hầu hết tất cả các NHTMCP hiện nay đều có phịng pháp chế nhưng có
nhiều hình thức tổ chức khác nhau ví dụ như NHTMCP Phương Đơng, NHTMCP
Việt Á thì phịng pháp chế sẽ trực thuộc Tổng giám đốc, ngồi ra cịn có một số
ngân hàng mà phòng pháp chế nằm trong một khối của ngân hàng như NHTMCP Á
Châu Phòng Pháp chế và Tuân thủ nằm trong khối vận hành, NHTMCP Sài Gòn
phòng pháp chế nằm trong khối nghiệp vụ của ngân hàng, NHTMCP Kiên Long
phòng pháp chế trực thuộc khối quản lí rủi ro và giám sát … Tùy thuộc vào quy mô
của ngân hàng, cách thức tổ chức, điều hành của Ban Tổng giám đốc của từng ngân
hàng, nhận thức đánh giá về vai trò phòng pháp chế của Ban lãnh đạo ngân hàng và

SVTH: Ngơ Hồng Triều

11

Lớp: 14DLK09


Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.

mức độ sử dụng của hoạt động tư vấn pháp luật mà cơ cấu tổ chức của phòng pháp
chế ở mỗi ngân hàng là khác nhau. Ví dụ như NHTMCP Kiên Long Phịng Pháp
chế và Xử lí nợ gồm ba bộ phận: bộ phận pháp lí tuân thủ, bộ phận pháp lí chứng từ
và các bộ phận xử lí nợ khu vực. NHTMCP ACB thì Phịng Pháp chế và Tuân thủ
được chia thành bộ phận tư vấn pháp luật, bộ phận kiểm soát tuân thủ, bộ phận xử lí
nợ. Tuy cơ cấu tổ chức phịng pháp chế ở mỗi ngân hàng là khác nhau nhưng nhìn
chung thì về cơ bản thì vẫn giống nhau. Thơng thường phòng pháp chế của các
NHTMCP sẽ bao gồm Trưởng phòng có ngân hàng sẽ gọi là Giám đốc, giúp việc
cho Trưởng phịng (Giám đốc) là Phó Trưởng phịng (Phó Giám đốc) và các chuyên
viên, chịu sự quản lý và điều hành trực tiếp của Ban Tổng giám đốc. Trưởng phòng

pháp chế là người đứng đầu phòng pháp chế, chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc
về mọi hoạt động của phòng, Trưởng phòng pháp chế do Tổng giám đốc quyết định
bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức, Phó Trưởng phịng cũng do Tổng giám đốc quyết
định miễn nhiệm, bổ nhiệm, cách chức nhưng theo đề nghị của Trưởng phịng.

SVTH: Ngơ Hồng Triều

12

Lớp: 14DLK09


Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.

Sơ đồ tổ chức Phịng Pháp chế và Xử lí nợ của NHTMCP Kiên Long
GIÁM ĐỐC

Phó giám đốc phụ
trách pháp chế

Phó giám đốc phụ
trách xử lý nợ

Bộ phận xử
lý nợ khu
vực 1

Bộ phận xử
lí nợ khu
vực 2


Bộ phận xử
lí nợ khu
vực 4

Bộ phận xử
lí nợ khu
vực 3

Bộ phận
pháp lí tuân
thủ

Bộ phận
pháp lí
chứng từ

Bộ phận xử
lí nợ khu
vực 5

Qua nghiên cứu một số quy chế tổ chức và hoạt động của phòng pháp chế
trong NHTMCP tác giả thấy rằng nhiệm vụ của các vị trí trong phịng pháp chế như
sau:
Nhiệm vụ của Trưởng phòng pháp chế bao gồm :
- Quản lí, điều hành và tổ chức thực hiện các công việc thuộc chức năng và
nhiệm vụ của phịng.
- Tổ chức thực hiện các cơng việc theo ý kiến chỉ đạo của Hội đồng quản trị và
Ban Tổng giám đốc.
- Lập và triển khai thực hiện kế hoạch của phịng.

- Tồn quyền quyết định việc phân cơng, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cán
bộ nhân viên của phòng.
- Đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, nâng lương, khen thưởng, kỷ luật, tuyển
dụng và bồi dưỡng cán bộ theo thẩm quyền đã được phân cấp.

SVTH: Ngơ Hồng Triều

13

Lớp: 14DLK09


Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.

- Tham gia các cuộc họp do Ban Tổng giám đốc triệu tập.
- Chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về tiến độ, chất lượng và kết quả hoạt
động của phòng.
- Đại diện theo ủy quyền để tham gia tố tụng, giải quyết tranh chấp tại tòa án,
trọng tài thương mại và các cơ quan khác trên cơ sở pháp luật.
- Thực hiện các công việc cụ thể khác theo sự phân công của Hội đồng quản
trị và Ban Tổng giám đốc.
- Phụ trách công tác tư vấn pháp lí, kí nháy kiểm sốt hợp đồng, góp ý kiểm
tra tính pháp lí của quy chế, quy định, hướng dẫn của NHTMCP.
Nhiệm vụ của Phó Trưởng phịng bao gồm:
- Phụ trách cơng tác tư vấn pháp lí, kí nháy kiểm sốt hợp đồng, góp ý và kiểm
tra tính pháp lí quy chế, quy định, hướng dẫn của NHTMCP.
- Đại diện theo ủy quyền để tham gia tố tụng, giải quyết tranh chấp tại Tòa án,
Trọng tài thương mại và các cơ quan khác trên cơ sở pháp luật theo sự phân cơng
của Trưởng phịng.
- Quản lí điều hành phịng, kí thay trưởng phịng khi Trưởng phịng đi vắng

hoặc đi công tác; Thực hiệc các nhiệm vụ khác theo sự phân cơng của Trưởng
phịng.
Nhiệm vụ của nhân viên pháp chế bao gồm:
- Nghiên cứu, cập nhật các văn bản pháp luật, thơng tin pháp lý, chế độ, chính
sách của nhà nước về các lĩnh vực họat động của ngân hàng.
- Quản lí thư viện pháp luật , văn bản nội bộ của ngân hàng.
- Xem xét tất cả các thủ tục, quy định nội bộ phù hợp với pháp luật Việt Nam
nói chung và quy định của Ngân hàng Nhà nước nói riêng.
- Tư vấn, soạn thảo, rà soát, đàm phán các loại hợp đồng trong các lĩnh vực
kinh doanh, đầu tư, mua sắm và chuyển nhượng tài sản của ngân hàng.
- Soạn thảo văn bản chỉ đạo, điều hành liên quan đến việc thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của phòng pháp chế.
- Tư vấn pháp lý trong lĩnh vực quản trị nội; Tư vấn giải quyết các vụ việc
trong lĩnh vực xử lý nợ và tố tụng.
- Hướng dẫn các phòng ban, các đơn vị về việc thực hiện các quy định pháp

SVTH: Ngơ Hồng Triều

14

Lớp: 14DLK09


Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.

luật trong q trình tổ chức, hoạt động của ngân hàng.
- Thực hiện các thủ tục thu hồi nợ.
- Theo dõi các thủ tục pháp lý khác phát sinh trong hoạt động hàng ngày của
ngân hàng.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Trưởng phòng phân cơng.

Việc xây dựng một phịng pháp chế tại NHTMCP có cơ cấu tổ chức tốt là vấn
đề vô cùng quan trọng. Nhìn chung cơ cấu tổ chức của phịng pháp chế ở các
NHTMCP hiện nay khá chặt chẽ và linh hoạt đảm bảo cho cơng tác hỗ trợ pháp lí
cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, là lá chắn pháp lí bảo vệ cho ngân hàng
phịng tránh những rủi ro một cách đáng kể.
1.4.

Nội dung của công tác pháp chế và hoạt động của phòng pháp chế trong

ngân hàng thương mại cổ phần.
1.4.1.

Nội dung của công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần.

Qua nghiên cứu quy chế của các NHTMCP tác giả nhận thấy công tác pháp chế
trong các NHTMCP có các nội dung sau:
- Một là, tư vấn pháp lí cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Hai là, soạn thảo và thẩm định văn bản của ngân hàng.
- Ba là, xây dựng quản lí hệ thống biểu mẫu hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo
đảm tiền vay.
- Bốn là, giải quyết tranh chấp.
- Năm là, quản lí nợ xấu và xử lí thu hồi nợ xấu.
- Sáu là, tham gia đóng góp ý kiến vào q trình xây dựng chính sách và pháp luật
có liên quan đến ngân hàng.
- Bảy là, xây dựng và quản lí hệ thống thơng tin dữ liệu pháp luật.
- Tám là, thực hiện thủ tục xin cấp giấy phép, điều chỉnh giấy phép cho hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
1.4.2. Hoạt động của phòng pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần.
Để thực hiện những nội dung trên thì phịng pháp chế phải tiến hành những
hoạt động:

Thứ nhất, hoạt động tư vấn pháp lí cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

SVTH: Ngơ Hồng Triều

15

Lớp: 14DLK09


Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.

-

Phịng pháp chế thực hiện hoạt động tham mưu cho Hội đồng quản trị, Tổng

giám đốc những vấn đề pháp lí có liên quan đến q trình quản lí và điều hành hoạt động
kinh doanh của ngân hàng, giúp ngân hàng tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và
đạt hiểu quả cao trong kinh doanh. Hoạt động này của phòng pháp chế là hết sức quan
trọng bởi vì đối với một hệ thống pháp luật bao gồm nhiều loại văn bản pháp luật đan
xen, chồng chéo nhau sẽ gây khó khăn trong hoạt động áp dụng pháp luật vào quá trình
kinh doanh của NHTMCP nên cần phải có những sự tư vấn cụ thể chính xác về mặt pháp
lí của những người am hiểu về pháp luật.
-

Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng việc giao dịch với đối tác, khách

hàng diễn ra thường xuyên hơn nữa hoạt động của ngân hàng liên quan đến nhiều lĩnh
vực, ngành nghề chịu tác động của nhiều văn bản pháp luật khác nhau chính vì vậy
phịng pháp chế có chức năng tư vấn, có ý kiến, giải pháp pháp lí cho Ban lãnh đạo ngân
hàng cũng như các phòng, ban, trung tâm hội sở, đơn vị trong hoạt động nghiệp vụ, giao

dịch với đối tác, khách hàng khi có u cầu. Bên cạnh đó phịng pháp chế còn phải đưa
ra những cảnh báo về rủi ro pháp lí cho từng vụ việc cụ thể trong hoạt động nghiệp vụ
của ngân hàng nhằm bảo vệ quyền lợi của ngân hàng và phịng tránh những tổn thất
khơng đáng có. Đối với các phòng ban, trung tâm hội sở, đơn vị hoạt động nghiệp vụ,
các chi nhánh thì có 3 hình thức tư vấn theo mức độ và nghiêm trọng của sự việc.


Gọi điện thoại: thơng thường sử dụng hình thức này đối với những sự việc ở

mức độ đơn giản, muốn khẳng định lại. Mặc dù, hình thức này có ưu điểm là tiết kiệm
được thời gian những khi có các vấn đề liên quan đến trách nhiệm cơng việc phát sinh thì
khơng có chứng cứ để chứng minh là đơn vị đã nhận được sự tư vấn từ nhân viên pháp
chế.


Gửi mail hoặc gửi văn bản trực tiếp: hình thức này mất nhiều thời gian nhưng

nếu phát sinh vấn đề về trách nhiệm cơng việc thì có bằng chứng để chứng minh về việc
tư vấn của nhân viên pháp chế. Khi tư vấn bằng văn bản hoặc Email thì bắt buộc phải có
sự phê duyệt của trường phịng pháp chế sau đó mới được trả về đơn vị cần tư vấn. Nếu
sự việc cần được tư vấn nằm ngoài quy định của ngân hàng cần phải gửi lên Ban
lãnh đạo của ngân hàng phê duyệt.
- Đối với các quy định, quy chế, quy trình nội bộ mà các phòng, ban, trung tâm hội
sở, đơn vị chưa hiểu rõ hoặc chưa đầy đủ thì phịng pháp chế phải hướng dẫn, giải đáp.

SVTH: Ngơ Hồng Triều

16

Lớp: 14DLK09



Công tác pháp chế trong ngân hàng thương mại cổ phần-Lí luận và thực tiễn.

- Việc ban hành pháp luật một cách khơng rõ ràng, thiếu tính thực tiễn, chồng chéo
là vấn đề xảy ra thường xuyên ở Việt Nam đặt biệt là đối với ngành ngân hàng, nó gây
nhiều khó khăn trong q trình hoạt động của ngân hàng đặt biệt là đối với những bộ
phận trực tiếp thực hiện nghiệp vụ. Chính vì vậy, phịng pháp chế giữ vai trò là đầu mối
tiếp nhận những đề nghị từ các phòng, ban, trung tâm, hội sở, đơn vị để xem xét và có
hướng đề xuất với Ban lãnh đạo ngân hàng giải quyết những trường hợp mà quy định
của pháp luật quy định chưa rõ, còn chồng chéo về mặt pháp lí khi thực hiện nghiệp vụ
theo quy định, quy chế, quy trình của nội bộ.
-

Phịng pháp chế phải thường xuyên theo dõi, cập nhật các văn bản pháp luật

liên quan đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng từ đó tư vấn cho Ban lãnh đạo ngân
hàng ban hành các văn bản sao cho phù hợp với những quy định của pháp luật, phổ biến
giới thiệu những những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động kinh doanh đó.
-

Đối với các loại hợp đồng khi ngân hàng kí kết với các đối tác, phịng pháp chế

có nhiệm vụ soạn thảo và thẩm định các loại hợp đồng như hợp đồng hợp tác kinh tế,
hợp đồng lao động, hợp đồng mua sắm trang thiết bị ... tham gia vào q trình đàm phán
kí kết hợp đồng; Xem xét căn cứ, cơ sở pháp lí về nội dung của hợp đồng; Phân tích và
tư vấn cho Ban lãnh đạo, các phòng, ban, hội sợ, đơn vị về những rủi ro của hợp đồng.
Quy trình thẩm định hợp đồng của phòng pháp chế như sau:
Phòng pháp chế tiếp nhận u cầu từ đơn vị, phải có tờ trình duyệt chủ trương của
ban lãnh đạo (tùy vào giá trị hợp đồng mà thẩm quyền phê duyệt khác nhau). Phòng

pháp chế sẽ tiến hành cho ý kiến pháp lí để bảo vệ quyền lợi của ngân hàng sau đó
chuyển về lại cho đơn vị xin thẩm định, đơn vị xin thẩm định gửi phản hồi lại cho đối
tác. Nếu đối tác đồng ý thì kí hợp đồng, nếu khơng đồng ý thì chỉnh sửa và tiến hành
đàm phán lại. Nếu đối tác tiếp tục không đồng ý với ý kiến của phòng pháp chế mà
phòng pháp chế nhận thấy thật sự có rủi ro cho ngân hàng thì làm tờ trình xin ý kiến chỉ
đạo của Ban lãnh đạo ( trong tờ trình phải nêu rõ lợi ích, quyền lợi, rủi ro gặp phải ) sau
đó thực hiện theo phương án được Ban lãnh đạo phê duyệt và gửi phản hồi lại cho đơn
vị, đơn vị sẽ trả lời với đối tác.
- Khi ngân hàng chuẩn bị đưa ra một sản phẩm mới trong hoạt động dịch vụ của
ngân hàng thì phịng pháp chế có nhiệm vụ thẩm định tính pháp lí của các sản phẩm đó
trước khi cho áp dụng, tư vấn pháp lí cho Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc những vấn

SVTH: Ngơ Hồng Triều

17

Lớp: 14DLK09


×