Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận Trọng tài Thương mại.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.67 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................1
NỘI DUNG..................................................................................................1
I.

Khái quát về trọng tài thương mại và thỏa thuận trọng tài:...1
1. Một số khái niệm:.........................................................................1
2. Những ưu điểm và hạn chế của việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thương mại:..............................................................2
3. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài trong giải quyết tranh
chấp thương mại:...............................................................................3

II.

Các quy định của pháp luật về thỏa thuận trọng tài:............4

1. Điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài:......................4
2. Hình thức của thỏa thuận trọng tài:.........................................5
3. Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài:............................................5
4. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu:....................................................6
5. Thỏa thuận trọng tài không thực hiện được:...........................8
6. Thỏa thuận trọng tài được kí giữa nhà cung cấp hàng hóa,
dịch vụ và người tiêu dùng:..............................................................9
III.

Một số kiến nghị:..........................................................................9

1. Về khái niệm thỏa thuận trọng tài – vấn đề tranh chấp phát
sinh từ quan hệ hợp đồng:...............................................................9
2. Về vấn đề thỏa thuận trọng tài quốc tế:................................10
KẾT LUẬN.................................................................................................10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................11


MỞ ĐẦU
Trọng tài thương mại (TTTM) là một trong bốn phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam bên cạnh Thương
lượng, Hòa giải và giải quyết bằng Tòa án. Nếu như Tòa án Nhân
dân là một cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp thì TTTM lại
một tổ chức xã hội – nghề nghiệp, có thể coi như “tòa án tư”.
Đây là một phương thức giải quyết tranh chấp được các doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có hoạt động thương mại
với nước ngồi tin tưởng lựa chọn. Trong TTTM, thỏa thuận trọng tài
là yếu tố cơ bản cần thiết, xuyên suốt toàn bộ hoạt động trọng tài kể từ lúc khởi
đầu trọng tài cho đến khi công nhận và thi hành phán quyết trọng tài. Nhận
thấy tầm quan trọng của vấn đề, em xin phép lựa chọn đề bài
“Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa
thuận Trọng tài Thương mại.”
NỘI DUNG
I.

Khái quát về trọng tài thương mại và thỏa thuận

trọng tài:
1.
Một số khái niệm:
a. Trọng tài Thương mại:
Khoản 1 Điều 3 Luật TTTM 2010 quy định: “Trọng tài thương mại là phương
thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy
định của Luật này”.
Theo đó, TTTM là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động

thương mại tiến hành theo trình tự, thủ tục do các bên thỏa thuận hoặc theo quy
định của pháp luật. Việc giải quyết tranh chấp được tiến hành bởi Hội đồng
trọng tài thuộc một trung tâm trọng tài nhất định hoặc bởi Hội đồng trọng tài do
các bên thành lập, tùy thuộc vào quyền lựa chọn của các bên. Các bên có thể tìm

1


hiểu trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thơng qua quy tắc tố tụng trọng tài
của các trung tâm TTTM hoặc các văn bản pháp luật của nhà nước về TTTM.
Có hai loại trọng tài là trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực. Điểm khác biệt
cơ bản giữa hai mơ hình này là ở chỗ, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi
phát sinh tranh chấp và sẽ tự giải thể khi tranh chấp được giải quyết xong.
Trong khi đó, trọng tài thường trực – như chính tên gọi của nó – tồn tại có tính
chất ổn định, có trọng tài viên riêng, có điều lệ và quy tắc tố tụng riêng. Tuy
nhiên, dù là trọng tài thường trực hay trọng tài vụ việc thì đều không phải là cơ
quan thuộc bộ máy nhà nước, do vậy trong hoạt động xét xử, trọng tài không
được sử dụng quyền lực cơng như tịa án. Chính vì hoạt động xét xử của trọng
tài không gắn với quyền lực công nên trọng tài được coi là cơ quan tài phán tư.
b.Thỏa thuận trọng tài:
Khoản 2 Điều 3 Luật TTTM 2010 quy định:“Thỏa thuận trọng tài là thỏa
thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát
sinh hoặc đã phát sinh”. Thỏa thuận trọng tài là một thỏa thuận bằng văn bản
mà theo đó các bên kí kết nhất trí đưa ra tất cả hoặc một số tranh chấp đã hoặc
sẽ có thể phát sinh từ giao dịch thương mại có khả năng được áp dụng trọng tài
ra giải quyết bằng con đường trọng tài. Bản chất của trọng tài là phương thức
giải quyết tranh chấp dựa trên sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. Điều này
khác với việc các bên tranh chấp yêu cầu giải quyết tranh chấp tại tòa án, cơ
quan đương nhiên có thẩm quyền xét xử bất kỳ tranh chấp trong nước nào (chỉ
trừ khi các bên có thỏa thuận khác). Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử khi các

bên tranh chấp có thỏa thuận chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp, điều này
đồng nghĩa với việc thỏa thuận trọng tài là điều kiện tiên quyết để tiến hành tố
tụng trọng tài.
2. Những ưu điểm và hạn chế của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài thương mại:
a. Ưu điểm:
2


Thứ nhất, tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định trọng tài đối với việc giải
quyết tranh chấp. Trong khi đa số các vụ việc do Tòa án xử phải kéo dài, từ sơ
thẩm đến phúc thẩm, rồi còn thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, rồi còn khiếu nại,
khiếu kiện và cịn có sự tham gia của nhiều cơ quan khác (như Viện kiểm sát…)
thì cách thức giải quyết bằng trọng tài lại hết sức đơn giản và linh động. Tính
chung thẩm của quyết định trọng tài khơng chỉ có giá trị bắt buộc đối với các
bên đương sự mà nó cịn khiến các bên khơng thể chống án hay kháng cáo. Xét
xử tại trọng tài chỉ có một cấp xét xử. Khi tuyên phán quyết xong, Uỷ ban Trọng
tài (Hội đồng trọng tài) hoàn thành nhiệm vụ và chấm dứt sự tồn tại của mình.
Thứ hai, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật. Tính bí mật thể
hiện rõ ở nội dung tranh chấp và danh tính của các bên được giữ kín, đáp ứng
nhu cầu tin cậy trong quan hệ thương mại.
Thứ ba, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng,
linh hoạt cho các bên. Điều này có thể làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu
quả cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, trọng tài cho phép các bên sử dụng được kinh nghiệm của các chuyên
gia. Ưu điểm này thể hiện ở quyền được chọn trọng tài viên của các bên đương
sự, điều mà khơng tồn tại ở Tịa án.
Thứ năm, tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài – một tổ chức
phi chính phủ, nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của Toà án.
b. Hạn chế:

Thứ nhất, phán quyết của trọng tài mang tính chung thẩm là một ưu thế lớn
nhưng mặt nào đó cũng chính là nhược điểm của phương thức này vì việc
khơng cho các bên kháng cáo, kháng nghị có thể dẫn tới khó khăn trong việc
phát hiện và sửa chữa sai phạm trong q trình giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài thường được ấn định
trước và thường cao hơn rất nhiều so với các phương thức giải quyết tranh chấp
khác.
3


3.

Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài trong giải

quyết tranh chấp thương mại:
Thỏa thuận trọng tài là nguồn gốc phát sinh hoạt động của trọng tài. Thỏa thuận
trọng tài là cơ sở để vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, qua đó giúp
các bên thực hiện quyền tự do kinh doanh, trong đó có quyền lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp.
Thỏa thuận trọng tài có tác dụng ràng buộc các bên, bởi nó được xác lập dựa
trên cơ sở ý chí tự nguyện và bình đẳng của chính các bên. Một khi đã xác lập
thỏa thuận trọng tài thì khơng bên nào được thối thác việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài.
Thỏa thuận trọng tài là yếu tố quan trọng nhất, luôn được đặt lên hàng đầu từ
khi đưa tranh chấp thương mại ra trọng tài cho đến khi phán quyết cuối cùng
được đưa ra. Thỏa thuận trọng tài với nội dung chính là quyền lựa chọn của các
bên về các yếu tố của luật tố tụng trọng tài sao cho phù hợp nhất với mình nên
sẽ giúp hình thành những điều kiện tốt nhất để tiến hành trọng tài và thi hành
quyết định trọng tài.
Thỏa thuận trọng tài loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với tranh chấp.

Tuy nhiên điều này không loại trừ sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động giải
quyết tranh chấp của trọng tài khi: có khiếu nại liên quan đến thỏa thuận trọng
tài vô hiệu, yêu cầu các bên áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, chỉ định trọng
tài viên (trọng tài vụ việc), triệu tập người làm chứng, yêu cầu cơ quan tổ chức
thu thập chứng cứ và khi có căn cứ pháp luật đề nghị Tòa án hủy phán quyết
trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc.
Thỏa thuận trọng tài trao cho các trọng tài viên thẩm quyền giải quyết tranh
chấp có thể xảy ra giữa các bên. Đồng thời với việc loại trừ thẩm quyền của tòa
án quốc gia, thỏa thuận trọng tài trao cho các trọng tài viên thẩm quyền giải
quyết tranh chấp và đây chính là cơ sở pháp lý cho các trọng tài viên thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình.
II. Các quy định của pháp luật về thỏa thuận trọng tài:
4


1.

Điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài:

Luật TTTM 2010 khơng quy định các điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng
tài. Với tư cách là một giao dịch dân sự, thỏa thuận trọng tài phải tuân theo các
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại Điều 122 BLDS 2005.
2.

Hình thức của thỏa thuận trọng tài:

Hình thức của thỏa thuận trọng tài là sự thể hiện ra bên ngoài sự thống nhất ý
chí của các bên tham gia quan hệ thương mại. Pháp luật Việt Nam cũng giống
như pháp luật của hầu hết các quốc gia khác đều quy định thỏa thuận trọng tài
phải được thể hiện dưới dạng văn bản quy định tại Khoản 2 Điều 16 Luật

TTTM 2010. Có hai hình thức tồn tại của thỏa thuận trọng tài được ghi nhận tại
Khoản 1, Điều 16 Luật TTTM 2010 như sau:
Một là, các bên dự đoán trước và thỏa thuận ngay từ khi bắt đầu quan hệ thương
mại việc sẽ đưa ra trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh trong tương lai.
Sự thỏa thuận này thường được thể hiện thành một điều khoản trọng tài trong
hợp đồng xác lập quan hệ thương mại giữa hai bên. Điều khoản này thường nằm
cuối hợp đồng sau khi các bên đã thỏa thuận xong các điều khoản chính. Điều
khoản trọng tài chỉ mang tính dự liệu, chưa chắc chắn hoặc khơng bao giờ xảy
ra nên thường ngắn gọn.
Hai là, sau khi tranh chấp phát sinh, các bên mới thỏa thuận đưa tranh chấp ra
giải quyết bằng trọng tài. Thỏa thuận này thường dưới hình thức một văn bản
thỏa thuận riêng và được coi như gắn liền với hợp đồng chính hay còn gọi là
thỏa thuận đưa các tranh chấp hiện thời ra giải quyết theo phương thức trọng tài.
3.

Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài:

Thỏa thuận trọng tài là một hợp đồng trong đó các bên đồng ý đệ trình các tranh
chấp đang tồn tại hoặc các tranh chấp phát sinh trong tương lai của mình ra
trọng tài, mà khơng phải ra tòa án. Điều 19 Luật TTTM 2010 quy định: “Thoả
thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ
5


hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu
lực của thoả thuận trọng tài”.
Theo đó, thỏa thuận trọng tài có hiệu lực độc lập với hợp đồng, trong cả trường
hợp thỏa thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng. Dù thỏa thuận trọng
tài được thể hiện dưới hình thức một điều khoản nằm trong hợp đồng chính hay
dưới hình thức văn bản riêng đi kèm hợp đồng chính thì thỏa thuận.

4.

Thỏa thuận trọng tài vơ hiệu:

Điều 18 Luật TTTM 2010 có quy định cụ thể các trường hợp vô hiệu của thỏa
thuận trọng tài như sau:
- Tranh chấp phát sinh không thuộc thẩm quyền của Trọng tài
Pháp luật luôn tôn trọng sự tự do thỏa hiệp giữa các bên về việc đưa tranh chấp
trong quan hệ thương mại ra giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên, dù giữa các
bên có tồn tại thỏa thuận trọng tài xuất phát từ sự tự do thỏa thuận nhưng tranh
chấp giữa họ không thuộc phạm vi thẩm quyền của Trọng tài thì thỏa thuận
trọng tài cũng vô hiệu và dẫn đến hậu quả là trọng tài khơng có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp. Vấn đề thỏa thuận trọng tài vô hiệu do “tranh chấp phát sinh
không thuộc thẩm quyền của Trọng tài” được quy định tại Khoản 1, Điều 18
Luật TTTM 2010. Để có cách hiểu thống nhất về tranh chấp thuộc thẩm quyền
của trọng tài, Tại Điều 2 Luật TTTM 2010 đã quy định cụ thể Trọng tài có thẩm
quyền giải quyết với các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại, có ít
nhất một bên có hoạt động thương mại hoặc giữa các bên mà pháp luật quy định
được giải quyết bằng trọng tài. Như vậy, ngồi việc có thẩm quyền đối với các
tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại, Luật cịn để mở khả năng trọng
tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp không phát sinh từ hoạt động
thương mại nhưng được pháp luật có liên quan quy định sẽ được giải quyết
bằng trọng tài.
- Người xác lập thỏa thuận trọng tài khơng có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật
6


Theo Khoản 2, Điều 18 Luật TTTM 2010 thì người khơng có thẩm quyền ký kết
thỏa thuận trọng tài được hiểu là người khơng có quyền theo luật định để ký kết

thỏa thuận trọng tài, ví dụ như người khơng được ủy quyền hợp pháp, người
được ủy quyền vượt quá phạm vi ủy quyền...
Tuy nhiên, không phải trường hợp nào thỏa thuận trọng tài cũng vô hiệu do
được ký kết bởi người khơng có thẩm quyền. Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết
01/2014/NQ-HĐTP có qui định: “Trường hợp thỏa thuận trọng tài do
người khơng có thẩm quyền xác lập nhưng trong quá trình xác
lập, thực hiện thỏa thuận trọng tài hoặc trong tố tụng trọng tài
mà người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài đã chấp
nhận hoặc đã biết mà khơng phản đối thì thỏa thuận trọng tài
khơng vơ hiệu.” Những quy định này của pháp luật thể hiện sự linh hoạt
mềm đối với hoạt động tố tụng trọng tài. Việc chủ thể hợp pháp cho biết ý kiến
bằng văn bản chấp nhận thỏa thuận trọng tài như một sự ủy quyền hợp pháp cho
chủ thể khơng có thẩm quyền ký kết, qua đó đảm bảo ý muốn giải quyết tranh
chấp của chủ thể hợp pháp.
- Người xác lập thỏa thuận trọng tài khơng có năng lực hành vi dân sự theo
qui đinh của Bộ luật dân sự (BLDS)
Thỏa thuận trọng tài là sự tự do thỏa thuận của các bên về việc đưa tranh chấp
ra giải quyết bằng trọng tài, nó là sự thể hiện ý chí của các bên trên cơ sở tự
nguyện. Chính vì vậy, chỉ có những chủ thể có đủ năng lực năng lực hành vi dân
sự mới thể hiện ý chí của mình cụ thể và chính xác nhất. Năng lực hành vi dân
sự là một yếu tố đóng vai trị quan trọng trong việc xác định hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài. Việc các chủ thể xác lập khơng có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ sẽ dẫn đến sự vô hiệu của thỏa thuận trọng tài theo quy định tại Khoản 3,
Điều 18 Luật TTTM 2010.
- Thỏa thuận trọng tài vi phạm các quy định về hình thức
Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy định thỏa thuận trọng
tài phải được thể hiện bằng văn bản. Nghĩa là thỏa thuận trọng tài có giá trị
7



chứng cứ xác định ý chí của các bên khi muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài. Các hình thức khác của thỏa thuận trọng tài như lời nói hay hành vi đều dẫn
tới hậu quả pháp lý là thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Trường hợp thỏa thuận trọng
tài vơ hiệu do vi phạm quy định về hình thức được thể hiện tại Khoản 4, Điều
18 Luật TTTM 2010.
- Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa
thuận trọng tài và có u cầu tun bố thỏa thuận trọng tài vơ hiệu
Thỏa thuận trọng tài là kết quả của sự thống nhất ý chí giữa các bên dựa trên
nguyên tắc tự do, bình đẳng. Sự thống nhất ý chí ấy khơng thể bị ràng buộc, tác
động hay áp đặt bởi pháp luật hay bất kỳ cá nhân, tổ chức, cơ quan nào. Chính
vì thế sự lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép giữa các bên tham gia ký kết thỏa thuận
trọng tài là những hành động đi ngược lại với nguyên tắc tự do thỏa thuận và hệ
quả tất yếu sẽ dẫn tới thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả
thuận trọng tài là trường hợp bị lừa dối, đe dọa quy định tại khoản 5 Điều 18
Luật TTTM 2010, Điều 4 và Điều 132 của BLDS 2015. Khi một trong các bên
cho rằng mình bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép và có đơn yêu cầu Tịa án, Trọng tài
tun bố thoả thuận trọng tài đó vơ hiệu thì Tịa án thụ lý, xem xét thỏa thuận
trọng tài đó. Như vậy, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên ký kết
bị lừa gạt, đe dọa hay cưỡng ép, pháp luật đã trao cho họ quyền yêu cầu tuyên
bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
- Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật
Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật là thỏa thuận vi phạm quy
định tại Điều 128 của BLDS 2015. Cụ thể là Giao dịch dân sự có mục đích và
nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vơ hiệu. Ðiều
cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực
hiện những hành vi nhất định.
5.

Thỏa thuận trọng tài không thực hiện được:

8


Trên thực tế, có nhiều trường hợp, các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và
thỏa thuận trọng tài đó có hiệu lực theo quy định của pháp luật nhưng khi tranh
chấp xảy ra, thỏa thuận trọng tài đó không thể thực hiện được do nhiều nguyên
nhân. Theo Điều 6 Luật TTTM 2010 trong trường hợp thỏa thuận trọng tài
khơng thể thực hiện được, các bên tranh chấp có thể khởi kiện ra tịa án có thẩm
quyền để giải quyết tranh chấp. Cụ thể, tại Điều 4 của nghị quyết 01/2014/NQHĐTP đã quy định khá chi tiết và rõ ràng về thỏa thuận trọng tài không thể thực
hiện được.
6.

Thỏa thuận trọng tài được kí giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch

vụ và người tiêu dùng:
Theo Điều 17 Luật TTTM 2010, đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng
hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong
các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn
thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc
Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được
quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận. Quy định
này dựa trên một thực tế là thông thường người tiêu dùng bị đặt ở một vị thế có
nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi các điều kiện và điều khoản trong hợp đồng in
sẵn của người bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ, do vậy cần có quy định
bảo vệ họ trong các tình huống cần thiết.
III.

Một số kiến nghị:
1.
Về khái niệm thỏa thuận trọng tài – vấn đề


tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng:
Khoản 2 Điều 3 Luật TTTM 2010 vẫn chưa làm rõ được vấn đề tranh chấp phát
sinh từ quan hệ ngồi hợp đồng có được giải quyết bằng Trọng tài hay khơng.
Vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thẩm quyền của Trọng tài
cũng như việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài. Do đó, để hạn
chế tối đa những rủi ro trong việc áp dụng luật, cần cụ thể hóa việc xác định
9


thẩm quyền của Trọng tài. Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành
quyết định của trọng tài nước ngoài cũng quy định rất rõ về vấn đề này “Mỗi
quốc gia thành viên sẽ công nhận một thỏa thuận bằng văn bản, theo đó các
bên cam kết đưa ra trọng tài xét xử mọi tranh chấp đã hoặc có thể phát sinh
giữa các bên từ một quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay
khơng, liên quan đến một đối tượng có khả năng giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài” (Điều II). Luật Trọng tài của hầu hết các nước trên thế giới như Luật
Trọng tài Anh, Luật Trọng tài Đức, Luật Trọng tài Hàn Quốc, Luật Trọng tài
Nga, Luật Trọng tài Nhật Bản v.v… đều quy định các tranh chấp phát sinh từ
quan hệ hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng đều được giải quyết bằng Trọng tài.
2.

Về vấn đề thỏa thuận trọng tài quốc tế:

Ở Việt Nam hiện nay, số vụ tranh chấp có liên quan tới thương mại quốc tế
được xét xử bằng trọng tài không nhiều và tập chung chủ yếu tại Trung tâm
Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phịng Thương mại và Cơng
nghiệp Việt Nam. Thực tiễn xét xử TTTM quốc tế tại Việt Nam cho thấy, đối
với các vấn đề về thoả thuận trọng tài, các trọng tài viên Việt Nam thường chỉ
phải giải quyết sự mập mờ, không rõ nghĩa trong thoả thuận chọn trọng tài giải

quyết tranh chấp, mà hiếm khi phải xác định luật áp dụng cho thoả thuận trọng
tài vì vấn đề hiệu lực của nó, đặc biệt là trường hợp các bên tranh chấp không
thoả thuận về luật áp dụng cho thoả thuận trọng tài. Chính vì vậy cần có một
phương pháp xác định luật áp dụng cho thoả thuận trọng tài có tính thống nhất
trong xét xử TTTM quốc tế ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
Qua những phân tích nêu trên có thể thấy pháp luật Việt Nam
đã có những quy định tương đối đầy đủ về thỏa thuận trọng tài.
Tuy vậy, vẫn cịn đó là những hạn chế cần được khắc phục, tiếp

10


tục hoàn thiện để phù hợp với pháp luật quốc tế trong thời kỳ
hội nhập hiện nay.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ luật Dân sự 2015.
2. Luật Trọng tài Thương mại 2010.
3. Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số
quy định Luật Trọng tài Thương mại.
Văn bản khác
4. Nguyễn Vũ Hồng (2014), “Chế định thỏa thuận trọng tài
dưới góc độ pháp luật so sánh - thực tiễn các nước và Việt
Nam”, Tạp chí Nghề Luật, số 1, tr.10-15.
5. Đàm Trung Kiên (2020), “Giải pháp hoàn thiện pháp luật

về trọng tài thương mại ở Việt Nam”, Tạp chí Nghề Luật,
số 6, tr.3-11,17.
6. Nguyễn Thùy Linh (2014), Thỏa thuận trọng tài theo quy
định của pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
7. Nguyễn Viết Tý (2019), “Đặc trưng cơ bản của trọng tài
thương mại ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 4, tr.51-60.

12



×