Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước nhằm tháo gỡ thẻ vàng đối với thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.75 KB, 14 trang )

International science conference “International trade - Policies and practices in vietnam”,
ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC NHẰM THÁO GỠ THẺ VÀNG
ĐỐI VỚI THỦY SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƢỜNG EU
Improve the efficiency of State management
activities to excapefrom EU’s yellow cards
for Vietnam's seafood exports to the this market

ThS. Lê Quốc Cƣờng
Bộ môn Kinh tế quốc tế - Khoa Thương mại quốc tế
Trường Đại học Thương Mại

TÓM TẮT
Ngành thủy sản nói chung và xuất khẩu thủy sản nói riêng luôn là một
ngành kinh tế mũi nhọn của đất nƣớc với rất nhiều mặt hàng xuất khẩu
chủ lực có kim ngạch trên 1 tỷ đô la Mỹ. Cùng với những kết quả đã đạt
đƣợc, thủy sản xuất khẩu của Việt Nam cũng phải đối mặt với khơng ít
những khó khăn điển hình là cảnh báo thẻ vàng của EU đã gây khơng ít
những tổn thất cả trƣớc mắt cũng nhƣ lâu dài đối với thủy sản xuất khẩu
của Việt Nam. Tuy nhiên, đây cũng là một liều thuốc tốt giúp cho
Ngành thủy sản Việt Nam có thể thay đổi cần thiết về chính sách, vấn
đề quản lý để hƣớng tới sự phát triển của Ngành cũng nhƣ đối với thủy
sản xuất khẩu theo hƣớng bền vững hơn.

856


Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”,


ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3

Từ khóa: Quản lý nhà nƣớc; thủy sản xuất khẩu; thị trƣờng EU; tháo gỡ
thẻ vàng
ABSTRACT
The Vietnam‘s seafood industry in general and seafood export in
particular have always been a spearhead economic sector of the country
with many key export items with a turnover of over US $ 1 billion.
Along with the achieved results, Vietnam's seafood exports also face
many difficulties, typically the EU yellow card warning has caused
many losses both in the short term as well as in the long run. with
export seafood of Vietnam. However, this is also a good medicine for
Vietnam's fisheries sector to make necessary changes in management
policies and issues towards the development of the industry as well as
the export fishery towards a sustainable direction. more solid.
Key words: State management; exported aquatic products; EU market;
remove the yellow card
Tổng quan về thị trƣờng thủy sản EU và xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam sang thị trƣờng EU
EU với 28 thành viên có tổng diện tích khoảng 4 triệu km2, dân số
hơn 500 triệu ngƣời. Bình qn thu nhập tính theo đầu ngƣời của các
quốc gia EU khá cao so với thế giới. Ngƣời dân EU rất thích dùng các
sản phẩm thủy sản trong nhu cầu ăn uống và bảo vệ sức khoẻ do tính ƣu
việt của sản phẩm này là ngon và bổ dƣỡng. Hàng năm, nhu cầu sản
phẩm thủy sản của EU đạt mức 26,3 kg/ngƣời.
EU là một trong những thị trƣờng nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế
giới với giá trị nhập khẩu thủy sản hàng năm vƣợt 5,52 tỷ Euro. Phần
lớn sản phẩm thủy sản đƣợc nhập khẩu từ các nƣớc nội bộ trong khối.
857



International science conference “International trade - Policies and practices in vietnam”,
ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3

Tuy nhiên, để bổ sung một số sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ (chủ
yếu là các sản phẩm thủy sản nƣớc ấm) EU Do vị trí địa lý và khí hậu
khắc nghiệt, cộng thêm nguồn thủy sản của EU đang nằm dƣới giới hạn
an toàn sinh học, trong khi nhu cầu tiêu dùng thủy sản của EU vẫn tăng
nhanh. Vì vậy, EU buộc phải nhập khẩu thủy sản từ hơn 180 quốc gia
trên thế giới đến từ các quốc gia châu Mỹ, châu Á trong đó có Việt
Nam.
Các sản phẩm thủy sản của Eu nhập khẩu chủ yếu là tôm đông lạnh,
cá tƣơi và cá, giáp xác, nhuyễn thể đơng lạnh; và thủy sản đóng hộp,
thủy sản tẩm bột…trong đó thì cá philê đơng lạnh chiếm tỷ trọng lớn
nhất, tiếp theo là tôm đông lạnh. Tuy nhiên, muốn nhập khẩu đƣợc vào
thị trƣờng EU thì phải vƣợt qua đƣợc rào cản kỹ thuật của EU. "Rào
cản kỹ thuật" là biện pháp chủ yếu để bảo hộ sản xuất và tiêu dùng nội
địa hiện nay vì thuế nhập khẩu vào EU đang giảm dần. Rào cản kỹ
thuật chính là qui chế nhập khẩu chung đƣợc cụ thể hoá ở 5 tiêu chuẩn
của sản phẩm: chất lƣợng, vệ sinh thực phẩm, an tồn cho ngƣời sử
dụng, bảo vệ mơi trƣờng và tiêu chuẩn về lao động.
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã có những bƣớc tiến vƣợt bậc
trong gần 25 năm qua. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản từ mức thấp 550
triệu năm 1995 đã có những bƣớc tăng trƣởng mạnh mẽ qua từng năm
với mức tăng trƣởng bình quân 15,6%/năm. Quá trình tăng trƣởng này
đã đƣa Việt Nam trở thành một trong 5 nƣớc xuất khẩu thủy sản lớn
nhất thế giới, giữ vai trò chủ đạo cung cấp nguồn thủy sản toàn cầu.
EU là thị trƣờng xuất khẩu lớn thứ hai của hải sản Việt Nam trong 5
năm qua, với giá trị xuất khẩu dao động trong khoảng 350 – 400 triệu
USD/năm, chiếm 16 – 17% tổng xuất khẩu hải sản của Việt Nam. Tuy

nhiên thẻ vàng IUU đã kéo giảm xuất khẩu thủy sản khai thác của Việt
Nam sang EU trong thời gian qua. Số liệu ghi nhận kim ngạch xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam đã giảm khoảng gần 30% tổng giá trị đối
với các mặt hàng thủy sản chủ lực sang thị trƣờng EU.

858


Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”,
ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3

Biểu đồ 1: Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU
Nguồn: VASEP
Cơ cấu mặt hàng thủy sản của Việt Nam xuất khẩu sang EU là khá
đa dạng với nhiều chủng loại. Tuy nhiên, những sản phẩm đƣợc ƣa
chuộng và tiêu dùng nhiều nhất là cá, tôm và mực – bạch tuộc.
Bảng 1: Mặt hàng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU 6 tháng đầu
năm 2019
ĐVT: Sản lượng (nghìn tấn); Kim ngạch (triệu USD)
Mặt hàng

Sản lƣợng

Kim ngạch



135

326


Tôm

15,8

115

Mực - Bạch tuộc

11,5

40

Thủy sản khác

10,7

34

Nguồn: Hải quan Việt Nam
Do tính chất quan trọng của thị trƣờng EU về cả kim ngạch cũng nhƣ
tính đa dạng trong các mặt hàng xuất khẩu mà hiện nay số lƣợng các
doanh nghiệp tham gia chế biến, xuất khẩu sang EU ngày càng tăng lên
nhanh chóng và đƣợc phân bố tại một số địa phƣơng thủy sản trọng
điểm . Hiện nay, số lƣợng cơ cở chế biến xuất khẩu thủy sản sang EU
đã đạt con số khoảng 330 doanh nghiệp, các doanh nghiệp phân bố chủ
859


International science conference “International trade - Policies and practices in vietnam”,

ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3

yếu thuộc vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long và một
số ít tại phía Bắc.
Thẻ vàng của EU và những ảnh hƣởng tiêu cực đối với thủy sản xuất
khẩu của Việt Nam
Thẻ vàng của EU đƣợc dựa trên cơ sở quy định số 1005/20081 có
hiêu lực từ ngày 01/10/2010 của Ủy ban châu âu (EC) để chống lại nạn
khai thác bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU).
Thông qua quy định này sẽ thiết lập một thống trên toàn EU nhằm ngăn
chặn và loại bỏ việc NK các sản phẩm thủy sản bị khai thác IUU vào thị
trƣờng mình.
Các nƣớc xuất khẩu thủy sản vào EU, hay các nƣớc cho các tàu đăng
ký quốc tịch tham gia vào chuỗi cung ứng thủy sản cho EU, phải tuyệt
đối hợp tác trong cuộc chiến chống lại nạn khai thác IUU. Đối với các
nƣớc đƣợc xác định là khơng có các biện pháp phù hợp nhằm đảm bảo
khai thác hợp pháp sẽ bị cảnh cáo chính thức hay nhận ―thẻ vàng‖ để
cải thiện. Nếu các nƣớc này không cải thiện, họ sẽ đối mặt với lệnh cấm
xuất khẩu sang thị trƣờng EU phải nhận ―thẻ đỏ. Còn nếu các nƣớc này
đã có những cải cách cần thiết, họ sẽ đƣợc xóa cảnh báo sẽ đƣợc nhận
―thẻ xanh‖.
Các quốc gia nhận thẻ vàng đều bị giữ lại kiểm tra nguồn gốc khai
thác xuất xứ gây mất thời gian và phát sinh thêm chi phí kiểm tra, phí
lƣu cảng sẽ thì bị kiểm tra tồn bộ lơ hàng. Tiếp đến, nếu phát hiện vi
phạm thì tồn bộ lơ hàng sẽ bị tiêu hủy hoặc trả về gây tổn thất rất lớn
cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Nghiêm trọng hơn, nếu tỷ lệ vi phạm
khơng giảm hoặc khơng có biện pháp kiểm sốt tình hình thì EU có thể
ban thẻ đỏ tức là cấm xuất khẩu. Cuối cùng quốc gia xuất khẩu không
chỉ mất thị trƣờng EU mà các thị trƣờng nhập khẩu khác có thể dựa vào
tình trạng này mà ban hành các biện pháp tƣơng tự. Tuy nhiên, đây

cũng là một cảnh báo tốt giúp các quốc gia xuất khẩu thủy sản định
hƣớng lại, rà soát lại các chính sách của mình nhằm hƣớng tới hoạt
động thủy sản mang tính bền vững hơn.
860


Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”,
ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3

Để có thể gỡ đƣợc thẻ vàng, khơng cịn cách nào khác là các quốc
gia xuất khẩu thủy sản vào EU phải thực hiện tốt các quy định của thị
trƣờng trong đó có IUU. Quản lý Nhà nƣớc chính là khâu then chốt để
giải quyết thực tế này. Tuy nhiên, để có thể nâng cao hiệu quả hoạt
động quản lý nhà nƣớc đối với thủy sản xuất khẩu đòi hỏi thời gian,
nguồn lực lớn đồng thời nâng cao đƣợc nhận thức, ý thức chấp hành
pháp luật của tất cả các đối tƣợng có liên quan trong đó đặc biệt nhấn
mạnh vai trị của ngƣời đánh bắt, doanh nghiệp thu mua chế biến thủy
sản xuất khẩu.
Ngày 23/10/2017, EU ―rút thẻ vàng" với ngành thủy sản Việt Nam vì
những nỗ lực của Việt Nam chƣa đủ để quản lý tốt về IUU. Trong
khoảng 2 năm, Việt Nam ghi nhận tác động rõ rệt của thẻ vàng đến xuất
khẩu thủy sản Việt Nam. Trong khoảng thời gian này, cơ quan quản lý
Nhà nƣớc cũng đã có những hoạt động nhằm tích cực rà sốt, chủ động
ban hành quy định pháp lý và tăng cƣờng các biện pháp để kiểm sốt
IUU một cách có hiệu quả. Theo dự kiến, đến tháng 11/2019 đoàn
thanh tra của Tổng vụ các vấn đề về biển và thủy sản của EC sẽ có đợt
đánh giá lại về thẻ vàng đối với hải sản Việt Nam để quyết định có gỡ
bỏ thẻ vàng hay không.
Việc Việt Nam bị EU cảnh báo thẻ vàng đã tác động làm giảm xuất
khẩu các sản phẩm thủy sản khai thác sang EU thời gian qua. Năm

2018 ghi nhận kim ngạch xuất khẩu hải sản sang EU giảm khoảng 6,5%
so với năm 2017 và chỉ đạt 390 triệu USD. Theo ghi nhận của Tổng
cục thủy sản Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2019, tỷ trọng của thị
trƣờng EU đã tụt xuống 12% với vị trí thứ 3 sau thị trƣờng Mỹ và
Trung Quốc và kim ngạch giảm khoảng 6,3% cùng kỳ năm 2018.
Bên cạnh những số liệu ghi nhận từ Thủy sản xuất khẩu, các doanh
nghiệp cũng đối mặt với khơng ít những khó khăn về chi phí tăng cao
và khơng xuất khẩu đƣợc do những yêu cầu về giấy phép từ thị trƣờng
EU. Đối với các lô thủy sản khai thác đã bị gia tăng chi phí cho doanh
861


International science conference “International trade - Policies and practices in vietnam”,
ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3

nghiệp xuất khẩu khi 100% containers hàng hải sản xuất khẩu sang EU
bị giữ lại để kiểm tra nguồn gốc khai thác và qui trình kiểm tra thơng
quan đối với các lô hải sản nhập khẩu vào EU cũng trở nên gắt gao hơn,
nhiều hơn 7 - 10 ngày, thậm chí lên đến 20 ngày so với trƣớc đây.
Tuy có những tác động tiêu cực đến từ thẻ vảng của EU cho xuất
khẩu thủy sản đánh bắt, thị trƣờng xuất khẩu thủy sản cũng có những
tín hiệu hết sức tích cực khi một số mặt hàng thủy sản nuôi trồng nhƣ cá
tra ghi nhận mức tăng trong xuất khẩu để bù đắp cho thủy sản xuất
khẩu có nguồn gốc đánh bắt. Theo ghi nhận của Hiệp hội Chế biến và
Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP); trong 7 tháng đầu năm 2019
có một số thị trƣờng xuất khẩu cá tra đã có sự giảm sút về kim ngạch
nhƣ Mỹ, Brazil, Colombia lần lƣợt là 34,3%, 25,4, 18.6% trong khi đó
một số thị trƣờng có ghi nhận tăng nhƣ ASEAN, Nhật bản, Trung
Quốc, Mexico và EU trong đó EU tăng nhiều nhất khoảng 12,6%. Điều
này cho thấy, để hạn chế tác động tiêu cực của thẻ vàng các sản phẩm

thủy sản đƣợc nuôi trồng theo hƣớng bền vững đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm cũng là một giải pháp tốt cho xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam.

Biểu đồ 2: Tăng trƣởng xuất khẩu cá tra sang các thị trƣờng chính 7
tháng đầu năm 2019
862


Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”,
ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3

Nguồn: VASEP
Từ những thực trạng nêu trên có thể thấy, để EU tiếp tục là thị
trƣờng xuất khẩu thủy sản chủ lực của Việt Nam và trƣớc mắt là vấn đề
tháo gỡ thẻ vàng thì quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động thủy sản là
một hoạt động không thể thiếu đƣợc.‘.
Những vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý Nhà nƣớc nhằm tháo
gỡ thẻ vàng đối với thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trƣờng
EU
Trước vấn đề thẻ vàng đã có những tác động rất tiêu cực đối với
thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang EU trong 2 năm vừa qua, Các
cơ quan quản lý Nhà nước của Việt Nam, hiệp hội chế biến và xuất
khẩu thủy sản đã có nhiều nỗ lực triển khai thực hiện các quy định về
khai thác IUU của theo khuyến nghị của EC. Việt Nam đã nhanh chóng
ban hành và hồn thiện một số quy phạm pháp luật, tăng cường nâng
lực thực thi pháp luật cụ thể cũng như các công tác triển khai thực thi
luật pháp.
Thứ nhất: Trong công tác hoàn thiện các quy định nhằm quản lý vấn
đề khai thác thủy sản bất hợp pháp.

- Luật Thuỷ sản 2017
- Công điện số 732/CĐ-TTg ngày 28 tháng 5 năm 2017 của Thủ
tƣớng Chính phủ về việc ngăn chặn, giảm thiểu và chấm dứt tình trạng
tàu cá và ngƣ dân Việt Nam vi phạm khai thác hải sản trái phép ở vùng
biển nƣớc ngoài
- Chỉ thị số 45/CT-TTg ngày 13/12/2017 của Thủ tƣớng Chính phủ
về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách để khắc phục cảnh báo của Ủy
ban châu Âu về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và
không theo quy định.
- Quyết định số 78/QĐ-TTg ngày 16/01/2018 của Thủ tƣớng Chính
phủ về việc phê duyệt kết hoạch hành động quốc gia nhằm ngăn chặn,

863


International science conference “International trade - Policies and practices in vietnam”,
ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3

giảm thiểu và loại bỏ khai thách hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và
không theo quy định đến năm 2025.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham mƣu trình Chính phủ
phƣơng án thành lập Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống đánh bắt
bất hợp pháp đảm bảo hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
- Tiếp tục hoàn thiện các văn bản hƣớng dẫn thi hành Luật Thủy sản
năm 2017, tổ chức dịch sang Tiếng Anh các dự thảo văn bản pháp luật
để gửi cho Tổng vụ các vấn đề về Biển và Thủy sản của EC tham vấn,
góp ý, bảo đảm có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2019.
- Ban hành văn bản chỉ đạo, hƣớng dẫn các địa phƣơng ven biển
trang bị, lắp đặt, sử dụng, quản lý đồng bộ thiết bị giám sát hành trình
trên tàu cá; trƣớc mắt tập trung theo dõi, giám sát chặt chẽ số lƣợng tàu

cá đã trang bị thiết bị VX-1700, Movimar phục vụ cho công tác thực thi
pháp luật trên biển và xử phạt tàu cá khai thác IUU.
Đồng thời, tăng cƣờng chỉ đạo điều hành, thực thi pháp luật nhằm
đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc trong quản lý nghề cá nói
chung, quản lý chống khai thác IUU từ Trung ƣơng đến địa phƣơng.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nơng thơn, các bộ, ngành có liên quan
đã ban hành các văn bản chỉ đạo, hƣớng dẫn, đôn đốc, kiểm tra thực
hiện; tổ chức các cuộc họp và trực tiếp đi địa bàn để chỉ đạo các tỉnh
ven biển triển khai ngăn chặn, giảm thiểu, chấm dứt tàu cá và ngƣ dân
vi phạm khai thác hải sản trái phép ở vùng biển nƣớc ngoài.
Thứ hai: Các hoạt động quản lý nhà nƣớc nhằm tăng cƣờng chống
khai thác IUU đƣợc áp dụng cụ thể:
Quản lý chặt chẽ hơn việc cấp giấy phép khai thác thủy sản cho tàu
cá; kiểm soát chặt chẽ tàu cá xuất, nhập bến; tăng cƣờng tuần tra, kiểm
tra, kiểm soát trên các vùng biển để ngăn chặn, xử lý, xử phạt nghiêm
theo quy định đối với tàu cá chống khai thác IUU, thực hiện việc truy
xuất nguồn gốc hải sản khai thác theo quy định.

864


Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”,
ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3

Các hiệp hội, hội nghề cá, cộng đồng ngƣ dân triển khai các hành
động cụ thể trong chống khai thác IUU nhƣ: cộng đồng doanh nghiệp
phát động chƣơng trình ―doanh nghiệp hải sản cam kết chống khai thác
IUU‖, ban hành sách trắng về IUU, ký cam kết chống khai thác IUU...
Ngoài ra, tăng cƣờng theo dõi, giám sát, kiểm soát hoạt động tàu cá
thông qua việc xây dựng quy định chặt chẽ và lộ trình lắp đặt thiết bị

giám sát tàu cá đối với tàu cá có chiều dài từ 15m trở lên. Sửa đổi quy
trình kiểm sốt tàu cá ra vào cảng, kiểm soát chặt chẽ sản lƣợng cập bến
gắn với quy trình xác nhận, chứng nhận. Điều chỉnh quy trình kiểm sốt
tàu nƣớc ngồi tại cảng Việt Nam theo Quy định của Hiệp định biện
pháp quốc gia có cảng.
Đồng thời, thực hiện tốt việc truy xuất nguồn gốc hải sản từ khai
thác thông qua tăng cƣờng trách nhiệm cho cơ quan quản lý cảng cá,
đảm bảo kiểm tra chéo các thông tin trong chuỗi. Quản lý năng lực khai
thác thông qua việc triển khai các quy định mới trong Luật Thủy sản về
kiểm soát số lƣợng tàu cá và xây dựng thí điểm cấp hạn ngạch khai thác
cá ngừ đại dƣơng dựa trên số liệu điều tra nguồn lợi.
Song song đó, tăng cƣờng hợp tác quốc tế; tham gia tích cực vào các
sáng kiến khu vực về chống khai thác IUU; Đẩy mạnh hợp tác song
phƣơng với các nƣớc trong khu vực, kí đƣờng dây nóng trao đổi thơng
tin về IUU.
Mặc dù đã nỗ lực rất nhiều nhưng trong quá trình triển khai các quy
định đáp ứng yêu cầu của EC về khai thác hải sản,có thể thấy xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU trước mắt cũng như về mặt lâu
dài sẽ gặp phải những khó khăn cụ thể như sau:
Thứ nhất: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU mặc dù bao
gồm cả thủy sản nuôi trồng và thủy sản đánh bắt trong đó tỷ trọng thủy
sản ni trồng trên thủy sản đánh bắt có xu hƣớng tăng mạnh (tỷ lệ hải
sản đánh bắt của Việt Nam xuất sang EU hiện nay rất thấp, chỉ chiếm
có 5,1%"). Tuy nhiên, nếu không xử lý tốt vấn đề này, sẽ ảnh hƣởng
865


International science conference “International trade - Policies and practices in vietnam”,
ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3


chung đến thƣơng hiệu thủy sản xuất khẩu của Việt Nam mặc dù nếu
Việt Nam có khắc phục đƣợc nhƣng cũng khó để quay lại thị trƣờng
này khi thƣơng hiệu đã mất.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP),
trong những năm gần đây để đáp ứng các đơn hàng, Việt Nam đã nhập
khẩu nguyên liệu thủy sản từ 84 quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau, với
tổng giá trị gần 1 tỷ USD, trong đó 40% là mặt hàng tơm. Thực tế có
tình trạng khơng ít doanh nghiệp tạm nhập tái xuất hay nhập khẩu
nguyên liệu thủy sản để tiêu thụ nội địa nhƣng không quan tâm đến quy
định của IUU. Nếu khơng có biện pháp quản lý tốt tình trạng này, có
thể dự báo EU sẽ coi đây là vấn đề đáng quan ngại đối với tình trạng
thủy sản bất hợp pháp.
Thứ hai: Đây là một trong những rào cản quan trọng trong tiến trình
phê chuẩn và có hiệu lực chính thức cho Hiệp định thƣơng mại tự do
Việt Nam và EU (EVFTA). Điều này cũng ảnh hƣởng không nhỏ đến
xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trƣờng quan trọng này.
Theo trung tâm WTO, ngay khi EVFTA có hiệu lực, khoảng 50% số
dịng thuế của EU dành cho thủy sản Việt Nam sẽ đƣợc xóa bỏ. 50% số
dịng thuế cịn lại đƣợc xóa bỏ theo lộ trình từ 3-7 năm. Đối với một số
mặt hàng "nhạy cảm" nhƣ cá ngừ và cá viên đóng hộp, phía EU cam kết
dành một hạn ngạch miễn thuế nhất định cho hàng hóa từ Việt Nam. Cụ
thể các sản phẩm cá ngừ đại dƣơng chế biến đƣợc miễn thuế trong
phạm vi cộng dồn 11.500 tấn/năm; sản phẩm Surimi (cá viên đóng hộp)
đƣợc miễn thuế trong hạn ngạch 500 tấn/năm.
Nhƣng với việc bị EU giơ thẻ vàng, nếu thời gian tới VN không đáp
ứng đƣợc các tiêu chuẩn quốc tế cũng nhƣ quy định của EU về chống
khai thác đánh bắt bất hợp pháp thì khơng chỉ ngành thủy sản VN bị
―thẻ đỏ‖ cấm hoàn toàn xuất khẩu vào EU.
Thứ ba: Xuất khẩu thủy sản sang thị trƣờng EU sẽ gặp một loạt
những cản trở liên quan đến IUU trong q trình xuất khẩu nhƣ q

trình thơng quan, chi phí chững nhận, kiểm tra…Điều này ảnh hƣởng
866


Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”,
ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3

nghiêm trọng đến kim ngạch xuất khẩu, năng lực cạnh tranh đối với
hàng thủy sản của Việt Nam.
Theo (VASEP), trong thời gian bị ―dính thẻ vàng‖, 100% container
hàng xuất khẩu có nguy cơ bị giữ lại để kiểm tra nguồn gốc khai thác,
thời gian sẽ kéo dài tới 3 - 4 tuần/container; phí kiểm tra nguồn gốc
khoảng 500 bảng Anh/container, chƣa kể phí lƣu giữ cảng và hệ lụy
kinh doanh của đối tác khách hàng bên cạnh đó rủi ro lớn nhất là tỷ lệ
lớn các lô hàng bị từ chối thông quan, trả hàng tƣơng tự nhƣ trƣờng hợp
của Philippine khi có tới 70% số lô hàng bị từ chối thông quan.
Thứ tƣ: Đây là vấn đề có tính nhãn tiền đối với hoạt động lập pháp
và hành pháp đối với các cơ quan chức năng của Việt Nam, đây không
dừng lại đối với thị trƣờng EU mà còn tiếp tục diễn ra đối với các thị
trƣờng khác nếu các cơ quan chức năng khơng có động thái tích cực.
Một đề nghị của EU cực kỳ quan trọng đối với vấn đề pháp lý của
VN trong dự thảo Luật Thủy sản sửa đổi là quy định về chế tài xử phạt.
Các quy định chế tài xử phạt khai thác bất hợp pháp thƣờng đƣợc Việt
Nam đƣa vào văn bản dƣới luật, mức xử phạt thấp, khơng mang tính
răn đe. Chƣa kể văn bản lƣới luật đều dễ thay đổi.
Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nƣớc nhằm tháo
gỡ thẻ vàng đối với thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trƣờng
EU
Để tiếp tục duy trì là một thị trƣờng xuất khẩu hàng đầu của Việt
Nam trong thời gian tới, trên quan điểm nhận diện đây là một bài học

kinh nghiệm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề bị phạt
―thẻ vàng của EU đối với xuất khẩu thủy sản của Việt Nam cần sớm
khắc phục một số vấn đề quan trọng sau:
Một là: Việt Nam cần hoàn thiện thể chế, quy định để phù hợp với
quốc tế và EU. Cụ thể là sửa Luật thủy sản và đã đƣợc thơng qua, trong
đó đƣa tối đa các khuyến nghị của EU vào Luật. Một số khuyến nghị
chƣa phù hợp với luật của Việt Nam chƣa đƣợc đƣa vào luật thì đã có
867


International science conference “International trade - Policies and practices in vietnam”,
ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3

thông báo cần thiết với EU. Đặc biệt cần đƣa các quy định chế tài vào
trong luật, tăng mức chế tài cao hơn, thể hiện đƣợc sự quyết liệt của
Chính phủ Việt Nam trong công tác chống khai thác bất hợp pháp.
Hai là: Việt Nam cần nâng cao năng lực thực thi của hệ thống quản
lý Nhà nƣớc với chủ tàu, ngƣ dân song song với vấn đề năng lực thực
thi và cam kết, đây là yếu tố quan trọng nhất, vì EU muốn Việt Nam
chứng minh bằng năng lực thực tiễn, cần có sự chuyển biến từ thực tế.
Các bộ có liên quan trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu thủy sản nhƣ Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an, Bộ
Thơng tin truyền thơng có những giải pháp cấp bách để triển khai chủ
trƣơng của Chính phủ đối với việc ngăn chặn, giảm thiểu và chấm dứt
tình trạng tàu cá và ngƣ dân Việt Nam khai thác hải sản trái phép ở
vùng biển nƣớc ngồi.
Thứ ba: Trong qua trình xuất khẩu thực tế, cần có sự điều chỉnh thời
hạn giấy chứng nhận kiểm dịch vệ sinh an tồn thực phẩm theo thơng lệ
quốc tế, thay vì chỉ có 2 tháng nhƣ hiện nay bởi trên thực nguyên do từ
việc thông thƣờng doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu thủy sản để dự

trữ chờ đơn hàng, không phải nào cũng nhập khẩu nguyên liệu để chế
biến ngay.
Thứ tƣ: Việt Nam cần tham gia đầy đủ các tổ chức của khu vực và
thế giới liên quan về IUU, cũng nhƣ ký kết hiệp định với các quốc gia
có cảng cá, giúp cung cấp thơng tin về nguồn nguyên liệu hải sản khai
thác tại các nƣớc có hợp pháp hay không.
Thứ năm: Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản trong đó cơ quan đại
diện là Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam VASEP tiếp
tục nghiên cứu, phổ biến kinh nghiệm, thực hiện nghiêm túc các cam
kết thu mua và nhập khẩu nguyên liệu hải sản khai thác hợp pháp, có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, nói khơng với những hải sản bị cấm đánh
bắt, xây dựng quy tắc thu mua hải sản minh bạch. Tiếp tục phối hợp
chặt chẽ, tích cực hỗ trợ các cơ quan quản lý nhà nƣớc trong thực thi
các quy định chống khai thác IUU, đề xuất thay đổi phƣơng thức quản
868


Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”,
ISBN: 978 – 604 – 67 – 1403 – 3

lý các cảng cá, xây dựng cơ sở dữ liệu nghề cá phục vụ cho việc quản
lý và truy xuất nguồn gốc, đáp ứng yêu cầu của thị trƣờng EU…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trung tâm dữ liệu thƣơng mại – Trade Map, Palais des Nations; CH1211 Geneva 10; Switzerland
Oleksandr Shepotylo – Effect of non- tariff measures on extensive and
intensive margins of export in seafood trade, Norwegian Institute of
International Affairs, 2015.
Mahfuzuddin Ahmed – Fish to 2020 in changing global market: trade
liberalization and market access constrains for developing countries,
WorldFish Center, Malaysia.

Lee F. Peoples – International Trade In Agricultural Producs (2004) –
Oklahoma University School of Law, United States.
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn: www.mard.gov.vn/
Tổng cục thủy sản: />Phịng thƣơng mại cơng nghiệp Việt Nam: vcci.com.vn/
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam: vasep.com.vn

869



×