Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học mác lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.83 KB, 136 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

NGUYỄN THỊ THẢO

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

NGUYỄN THỊ THẢO

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:


TS. HÀ THIÊN SƠN

TP. HỒ CHÍ MINH - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, dƣới sự hƣớng
dẫn khoa học của TS. Hà Thiên Sơn. Các số liệu trong luận văn là trung thực, đảm
bảo tính khoa học, khách quan và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thảo


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài .........................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ..............................................................5
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài ....................................................5
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ......................................................6
7. Kết cấu của đề tài ............................................................................................6

Chƣơng 1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ
NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN ........... 7
1.1. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH CHỦ
NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN.................................. 7
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội hình thành chủ nghĩa duy vật lịch sử của

C. Mác và Ph. Ăngghen.......................................................................................7
1.1.2. Tiền đề lý luận hình thành chủ nghĩa duy vật lịch sử của C. Mác và
Ph. Ăngghen .......................................................................................................12
1.2. TƢ TƢỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ TRONG
TRIẾT HỌC MÁC - ĂNGGHEN, GIÁ TRỊ KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ .. 19
1.2.1. Các giai đoạn phát triển và nội dung tƣ tƣởng cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử trong triết học Mác - Ăngghen...............................................19
1.2.2. Giá trị khoa học và ý nghĩa lịch sử của chủ nghĩa duy vật lịch sử
trong triết học Mác - Ăngghen .........................................................................58
Kết luận Chƣơng 1 ............................................................................................65


Chƣơng 2. QUÁ TRÌNH V.I. LÊNIN BẢO VỆ, BỔ SUNG, PHÁT
TRIỂN CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ CỦA C. MÁC VÀ
PH. ĂNGGHEN TRONG HOÀN CẢNH LỊCH SỬ MỚI ....................... 68
2.1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỶ XX
VÀ CUỘC ĐẤU TRANH CỦA LÊNIN ĐỂ BẢO VỆ CHỦ NGHĨA DUY VẬT
LỊCH SỬ TRONG TRIẾT HỌC MÁC.................................................................................. 68
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ...............68
2.1.2. Cuộc đấu tranh của V.I. Lênin để bảo vệ chủ nghĩa duy vật lịch sử
trong triết học Mác ............................................................................................73

2.2. V.I. LÊNIN BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH
SỬ TRONG TRIẾT HỌC MÁC VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ .......................... 98
2.2.1. V.I. Lênin bổ sung, phát triển chủ nghĩa duy vật lịch sử trong
triết học Mác ......................................................................................................98
2.2.2. Ý nghĩa lịch sử trong quan niệm duy vật về lịch sử của
V.I. Lênin ..........................................................................................................111
Kết luận Chƣơng 2 ..........................................................................................120


KẾT LUẬN ............................................................................................... 122
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 126


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngƣời cách mạng Việt Nam đầu tiên tìm thấy ánh
sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin để soi tỏ con đƣờng giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp cho cách mạng Việt Nam. Ngƣời khẳng định rằng: “Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhƣng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” [42, tr.268]. Thế giới quan và phƣơng pháp
luận của học thuyết Mác – Lênin luôn luôn là vũ khí sắc bén giúp cho Hồ Chí
Minh đánh giá, phân tích, tổng hợp các học thuyết tƣ tƣởng đƣơng thời cũng nhƣ
kinh nghiệm chính trị của bản thân của mình để tìm ra con đƣờng đúng đắn cho sự
nghiệp cứu nƣớc, giải phóng dân tộc. Từ đó, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn là ngọn
đuốc soi đƣờng cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cách mạng Việt Nam đã
vƣợt qua mn vàn khó khăn giành đƣợc những thắng lợi vẻ vang, đƣa nƣớc ta từ
một nƣớc thuộc địa nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập tự do, có quan
hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành ngƣời làm chủ đất nƣớc, làm chủ xã
hội; đất nƣớc ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bƣớc vào thời kỳ đổi
mới đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Vì vậy, trong q trình đổi
mới hiện nay để tận dụng thời cơ, vƣợt qua thách thức tạo nên sự phát triển nhanh
và bền vững; đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, nắm chắc thực chất nội dung khoa
học của chủ nghĩa Mác – Lênin. Bởi vì, chủ nghĩa Mác – Lênin sẽ trang bị cho
chúng ta một phƣơng pháp nhận thức biện chứng, một thế giới quan khoa học,
một lập trƣờng giai cấp vững vàng. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của

Đảng lần thứ XI đã khẳng định: “Kiên định chủ nghĩa Mác Lênin, tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” [34, tr.838]. Nhƣ vậy, trong
giai đoạn hiện nay cho dù xuất hiện rất nhiều học thuyết, chủ nghĩa mới nhƣng
chúng ta vẫn kiên định lựa chọn chủ nghĩa Mác – Lênnin là nền tảng lý luận, là


2

kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó có triết học – bộ phận cấu thành và hạt
nhân lý luận của nó, là một hệ thống mở. Tính mở, tính sáng tạo đối lập với tính
khép kín, biệt phái và tính giáo điều, xa lạ với chủ nghĩa lạc quan không tƣởng và
duy ý chí. V.I. Lênin viết: “Chúng ta khơng hề coi lý luận của Mác nhƣ là một cái
gì đã xong xi hẳn bất khả xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt
nền móng cho mơn khoa học mà những ngƣời xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển
hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành ngƣời lạc hậu so với cuộc
sống” [62, tr.232]. Hiểu đúng tính mở của Chủ nghĩa Mác – Lênin cho phép hình
thành hƣớng nghiên cứu di sản tinh thần của các nhà kinh điển trong việc tiếp
thêm nguồn năng lƣợng mới cho chủ nghĩa Mác từ chất liệu sống động của thực
tiễn, nhu cầu của nhận thức, để khẳng định hơn nữa sức sống của nó trong thế giới
mở nhƣng hết sức phức tạp hiện nay. Do đó, khi nghiên cứu về quá trình hình
thành và phát triển quan niệm duy vật về lịch sử trong triết học Mác – Lênin sẽ
giúp chúng ta hiểu một cách sâu sắc tính mở của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bởi lẽ, từ
khi quan niệm duy vật về lịch sử hình thành nó khơng phải là một vấn đề bất biến
mà ln đƣợc bổ sung và phát triển theo xu thế vận động chung của lịch sử xã hội,
đáp ứng những yêu cầu mới của thực tiễn.
Bƣớc ngoặt cách mạng vĩ đại nhất mà chủ nghĩa Mác thực hiện là đã đƣa ra
quan điểm duy vật về lịch sử (chủ nghĩa duy vật lịch sử). Trƣớc Mác, các nhà triết
học hiểu sự phát triển của xã hội một cách duy tâm - coi động lực phát triển của xã

hội là ở trong ý thức, tinh thần của con ngƣời. Đối lập với quan điểm trên, C. Mác
và Ph. Ăngghen đã giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trong đời sống
xã hội; không phải ý thức xã hội quyết định tồn tại xã hội, mà ngƣợc lại tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội; sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào nguyên nhân
vật chất, chứ không phụ thuộc vào ý thức của con ngƣời; sự phát triển của xã hội
mang tính quy luật, là quá trình lịch sử tự nhiên. Do sự tác động của các quy luật
vốn có của xã hội, các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau một cách khách
quan độc lập với ý chí và ý thức của con ngƣời; trong sự phát triển ấy, quần chúng


3

nhân dân là lực lƣợng quyết định sáng tạo ra lịch sử... Triết học Mác – Lênin là
học thuyết triết học duy vật triệt để nhất không những duy vật đối với tự nhiên mà
cả đối với lĩnh vực xã hội, là một thành tựu vĩ đại của tƣ tƣởng triết học, là biểu
hiện quan trọng nhất của bƣớc chuyển cách mạng do C. Mác và Ph. Ăngghen thực
hiện trong triết học. Quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa duy vật lịch sử
trong triết học Mác – Lênin đã khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật
trƣớc Mác là duy vật không triệt để, duy vật trong tự nhiên nhƣng duy tâm trong
xã hội. Do đó, điều quan trọng chúng ta phải trực tiếp tìm hiểu hệ thống các tác
phẩm của các nhà kinh điển mácxít để nắm đƣợc thực chất cuộc cách mạng trong
triết học do C. Mác và Ph. Ăngghen thực hiện và V.I. Lênin bổ sung, phát triển
trong lịch sử tƣ tƣởng triết học của nhân loại.
Như vậy, để góp phần hiểu biết một cách có hệ thống những cống hiến vĩ
đại của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác trong tƣ tƣởng triết học nhân loại
chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Quá trình hình thành và phát triển chủ
nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác - Lênin” với mong muốn góp một phần
nhỏ bảo vệ và phát triển lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho nó thực sự
có sức sống, mang tính thuyết phục cao về mặt khoa học và có ý nghĩa thực tiễn.
Đồng thời, thông qua việc nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần tạo niềm tin cho

chúng ta trong việc tiếp tục kiên định lựa chọn chủ nghĩa Mác – Lênin làm ngọn
cờ lý luận dẫn đƣờng cho cách mạng Việt Nam hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong những phát minh vĩ đại
nhất của chủ nghĩa Mác. Từ đó cho tới nay, đã có nhiều các tác phẩm, cơng trình
nghiên cứu, sách, báo đề cập đến vấn đề này.
Thứ nhất, trong thời gian qua có nhiều cơng trình nghiên cứu trực tiếp hệ
thống kinh điển triết học Mác nhƣ: Tập bài giảng tác phẩm kinh điển triết học của
C. Mác và Ph. Ăngghen của TS. Bùi Văn Dũng và GVC. Trần Vân Nam (dùng
cho sinh viên chuyên ngành GDCT, Vinh, 2003) đã phân tích một số tác phẩm
quan trọng của C. Mác và Ph. Ăngghen giúp ngƣời đọc có cơ hội tiếp cận những


4

tƣ tƣởng gốc của những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa duy vật biện
chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử; sách tham khảo Vấn đề triết học trong tác
phẩm của C. Mác –

Ph. Ăngghen – V.I. Lênin xuất bản năm 2003 do PGS, TS.

Dỗn Chính – TS. Đinh Ngọc Thạch (chủ biên) đã đi sâu phân tích, giới thiệu
những tác phẩm chủ yếu của các nhà kinh điển nhằm giúp ngƣời đọc nắm vững
những vấn đề lý luận cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin một cách hệ thống; bài
viết “Hệ tư tưởng Đức” – Tác phẩm đánh dấu sự ra đời một thế giới quan mới,
một quan niệm duy vật về lịch sử của PGS, TS. Đặng Hữu Tồn đăng trên Tạp chí
triết học, tháng 1 - 2006, số 1(176); Trần Ngọc Linh với bài viết: Tìm hiểu quan
niệm duy vật lịch sử trong Hệ tư tưởng Đức của C. Mác và Ph. Ăngghen;… Đây là
những nguồn tài liệu quan trọng giúp chúng tôi rất nhiều trong phƣơng pháp tiếp
cận vấn đề, khai thác, phân tích một cách sâu sắc vấn đề.

Thứ hai, từ khi chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời đã có nhiều giáo trình, sách,
báo, bài viết đề cập đến chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác – Lênin nhƣ:
Giáo trình Triết học Mác – Lênin (dùng cho các trường đại học, cao đẳng) của Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2002; Nguyễn Quang Điển (chủ biên) C. Mác
– Ph. Ăngghen – V.I. Lênin: Về những vấn đề triết học; cuốn sách Giá trị bền
vững và sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học của
GS.TS. Hồng Chí Bảo; giáo trình “Lịch sử triết học” do Bùi Thanh Quất và Vũ
Tình (đồng chủ biên);.... Đây là những cuốn sách mang tính lý luận cao đã trình
bày về những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó có nêu lên quan
điểm của các nhà kinh điển Mácxít về chủ nghĩa duy vật lịch sử. Những cơng
trình, bài viết này giúp chúng tơi có thêm nguồn tài liệu tham khảo và kế thừa rất
quý giá trong quá trình thực hiện đề tài luận văn.
Như vậy, thơng qua việc giới thiệu các tác phẩm, giáo trình, sách báo, cơng
trình nghiên cứu khoa học đề cập ở trên chứng tỏ đây là một vấn đề có giá trị khoa
học và thực tiễn đƣợc nhiều tác giả quan tâm. Tuy nhiên, những cơng trình đó cịn
ở tầm vĩ mơ và mang tính khái quát cao hoặc chỉ đề cập tới một khía cạnh, một
mặt nào đó. Vì lẽ đó, chúng tơi chọn đề tài “Q trình hình thành và phát triển


5

chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác - Lênin” là việc nghiên cứu mang
tính hệ thống về một vấn đề trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Hy
vọng cơng trình nghiên cứu này sẽ góp phần làm sáng rõ hơn về q trình hình
thành và phát triển chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác – Lênin.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là góp phần làm rõ một cách có hệ thống về quá
trình hình thành và phát triển quan niệm duy vật về lịch sử trong triết học Mác –
Lênin; từ đó rút ra giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn của nó.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, phân tích quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa duy vật
lịch sử trong giai đoạn C. Mác và Ph. Ăngghen. Từ đó, rút ra những giá trị khoa
học và ý nghĩa lịch sử của nó.
Thứ hai, phân tích q trình V.I. Lênin bảo vệ, bổ sung và phát triển chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Từ đó, rút ra ý nghĩa lịch sử trong quan niệm duy vật về lịch
sử của V.I. Lênin.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi tập trung tìm hiểu một số
tác phẩm tiêu biểu của các nhà mácxít để hiểu sâu sắc hơn q trình hình thành và
phát triển chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác – Lênin, cụ thể trong hai
giai đoạn: giai đoạn C. Mác và Ph. Ăngghen hình thành và phát triển chủ nghĩa
duy vật lịch sử và giai đoạn V.I. Lênin bảo vệ, bổ sung và phát triển. Từ việc
nghiên cứu vấn đề này rút ra giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn của nó.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của
C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin, các giáo trình, sách báo, cơng trình nghiên
cứu của các nhà khoa học có liên quan đến đề tài luận văn.


6

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận chung của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, trong quá trình
nghiên cứu, chúng tơi đã sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
nhƣ: Đọc và nghiên cứu văn bản, phân tích – tổng hợp, lơgíc – lịch sử, cụ thể khái quát, khái quát hóa, trừu tƣợng hóa… Ngồi ra, đề tài cịn có sự liên hệ giữa
lý luận và thực tiễn để có cách nhìn nhận đúng đắn, khoa học hơn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Kết quả thực hiện của đề tài tìm hiểu góp phần trong

việc nghiên cứu một cách sâu sắc và mang tính hệ thống về quá trình hình thành
và phát triển chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác – Lênin.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
học tập, nghiên cứu, giảng dạy triết học ở các trung tâm bồi dƣỡng chính trị cấp
quận, huyện và các trƣờng đại học, cao đẳng…
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn đƣợc kết cấu thành 2 chƣơng, 4 tiết.


7

Chƣơng 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA
DUY VẬT LỊCH SỬ CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN
1.1. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH
THÀNH CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội hình thành chủ nghĩa duy vật lịch sử
của C. Mác và Ph. Ăngghen
Sự hình thành chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác không phải là
một sản phẩm có tính chất chủ quan mà nó là sản phẩm tất yếu của lịch sử. Sự ra
đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử gắn liền với những điều kiện khách quan của sự
phát triển kinh tế - xã hội và sự phát triển của khoa học đƣơng thời.
Đến những năm 30 – 40 của thế kỷ XIX chủ nghĩa tƣ bản đã có hơn 100
năm tồn tại. Vai trị tích cực của giai cấp tƣ sản đối với lịch sử nhân loại đƣợc thể
hiện thông qua cuộc đấu tranh thủ tiêu chế độ phong kiến, giải phóng cá nhân,
phát triển sức sản xuất. Phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa đã phá vỡ những
quan hệ lỗi thời, mang nặng tính đẳng cấp. Chủ nghĩa tƣ bản ở một số nƣớc Tây
Âu nhƣ Anh, Pháp và một phần ở Đức có bƣớc phát triển mới. Nƣớc Anh khi đó
đã là một nƣớc tƣ bản, một cƣờng quốc cơng nghiệp hùng mạnh. Nƣớc Pháp cũng

hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp vào những năm 50 – 60 của thế kỷ XIX.
Nhờ cách mạng công nghiệp lực lƣợng sản xuất xã hội tăng lên rất nhiều. Từ
những năm 30 – 40 số máy hơi nƣớc, độ dài đƣờng sắt tăng lên hàng chục lần.
Các ngành công nghiệp nặng khai thác than đá, sản xuất gang, sắt thép cũng tăng
nhiều lần. Ở Đức tuy còn phụ thuộc vào nƣớc Anh và Pháp nhƣng cuộc cách
mạng công nghiệp cũng làm cho phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa lớn lên
nhanh chóng, tỷ trọng các ngành sản xuất công nghiệp càng tăng. Ở một số nƣớc
Tây Âu khác nhƣ Hà Lan – Ý và Bắc Mỹ cũng có sự phát triển tƣơng tự. Sự phát
triển nhanh chóng của sản xuất cơng nghiệp chứng minh rõ ràng tính chất tiến bộ
của phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa so với chế độ phong kiến và các chế


8

độ xã hội trƣớc đây. C. Mác nói: “Giai cấp tƣ sản trong quá trình thống trị giai cấp
chƣa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lƣợng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn
lực lƣợng sản xuất của tất cả các thế hệ trƣớc kia cộng lại” [9, tr.603].
Có thể nói thời đại tƣ bản là thời đại năng động nhất so với các thời đại đã
qua. Tính biện chứng của thời đại tƣ bản thể hiện ở chỗ nó khơng thể tồn tại bình
thƣờng nếu khơng tạo ra những biến đổi liên tục trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội, cải tiến liên tục công cụ sản xuất, tích cực khai thác và tìm kiếm các nguồn
tài nguyên và nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế. Trong Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản C. Mác và Ph. Ăngghen viết: “Giai cấp tƣ sản đã đóng một vai
trị hết sức cách mạng trong lịch sử […] Giai cấp tƣ sản không thể tồn tại, nếu
khơng ln ln cách mạng hóa cơng cụ sản xuất, do đó cách mạng hóa những
quan hệ sản xuất, nghĩa là cách mạng hóa tồn bộ những quan hệ xã hội […] Tất
cả những quan hệ xã hội cứng đờ và hoen rỉ […] đều đang tiêu tan […] Tất cả
những gì mang tính đẳng cấp và trì trệ đều tiêu tan nhƣ mây khói” [9, tr.599 601]. Tuy nhiên, theo Mác, sự phát triển của nền sản xuất tƣ bản dựa trên các
thành tựu khoa học, kỹ thuật của nhân loại, dù thúc đẩy về cơ bản sự vận động xã
hội tiến về phía trƣớc, vẫn khơng khắc phục đƣợc những mâu thuẫn cố hữu của xã

hội có các giai cấp đối kháng, sự tha hóa con ngƣời, mà thậm chí cịn làm cho
những mâu thuẫn ấy ngày càng trở nên trầm trọng và khơng thể kiểm sốt. Xã hội
tƣ sản đào sâu thêm khoảng cách giữa thành thị với nông thôn, giữa sản xuất công
nghiệp và sản xuất nông nghiệp, tạo nên những chênh lệch lớn trong đời sống kinh
tế lẫn mơi trƣờng văn hóa, nhận thức, sự phân hóa mới trong quan hệ giữa ngƣời
với ngƣời. Nó chẳng những không khắc phục đƣợc mâu thuẫn và xung đột xã hội
do trật tự phong kiến để lại, mà còn làm trầm trọng thêm. C. Mác chỉ rõ rằng, tích
lũy của cải và “tích lũy” sự bần cùng dƣờng nhƣ song hành, tạo nên bức tranh xã
hội với những đƣờng nét tƣơng phản với nhau, và điều đó cũng có nghĩa việc cải
tạo lại các quan hệ xã hội đã trở thành nhu cầu tất yếu, khách quan.
Nhƣ vậy, sự phát triển của phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa lại làm
cho những mâu thuẫn bên trong vốn có của nó (mâu thuẫn giữa lực lƣợng sản xuất


9

có trình độ xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở chế độ tƣ hữu tƣ
nhân tƣ bản chủ nghĩa về tƣ liệu sản xuất), phát triển ngày thêm gay gắt. Mâu
thuẫn này biểu hiện thành sự xung đột giữa giai cấp vô sản và giai cấp tƣ sản ngày
một mạnh mẽ; đã xuất hiện nhiều cuộc đấu tranh của công nhân chống lại giai cấp
tƣ sản mang tính chất của cuộc đấu tranh giai cấp nhƣ cuộc khởi nghĩa của những
ngƣời thợ dệt ở Lyông (Pháp) vào năm 1831 và 1834. Cuộc nổi dậy của công
nhân Pari năm 1832; cuộc khởi nghĩa của những ngƣời thợ dệt ở Xilêdi của Đức
năm 1844; phong trào Hiến chƣơng ở Anh từ 1830 – 1840 mang tính chất chính trị
và quần chúng rộng lớn đã buộc nhà nƣớc phải bảo đảm các quyền lợi của công
nhân về tiền lƣơng và giờ làm việc. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở
Tây Âu những năm 30 – 40 của thế kỷ XIX chứng tỏ rằng:
Thứ nhất, xã hội tƣ bản khơng phải là sự hịa hợp lợi ích chung giữa tƣ bản
và lao động; khơng phải là sự kết hợp hài hòa hạnh phúc chung cho tất cả mọi
ngƣời nhƣ các nhà tƣ tƣởng tƣ sản quan niệm, mà trái lại trong chủ nghĩa tƣ bản

đang diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa tƣ sản và cơng nhân.
Thứ hai, vai trị lịch sử của giai cấp tƣ sản về cơ bản đã bắt đầu mất dần.
Trƣớc đây trong quá trình làm cách mạng lật đổ chế độ phong kiến, giai cấp tƣ sản
đã từng giƣơng cao ngọn cờ tự do, dân chủ, bình đẳng, bác ái và đã tập hợp đƣợc
dƣới ngọn cờ đó đơng đảo nhân dân, bao gồm cả lực lƣợng là tiền thân của giai
cấp vô sản sau này. Nhƣng sau khi giai cấp tƣ sản giành đƣợc địa vị thống trị, giai
cấp công nhân trở thành lực lƣợng đối lập số một với giai cấp tƣ sản, thì giai cấp
tƣ sản liền thỏa hiệp với giai cấp phong kiến quý tộc để đàn áp phong trào cơng
nhân. Vì vậy một số học thuyết tƣ sản trƣớc đây có giá trị khoa học nhất định, nay
do phải phục tùng mục đích chính trị của giai cấp thống trị nên khơng cịn mang
tính khách quan khoa học nữa. Điều đó địi hỏi phải xây dựng một hệ thống lý
luận mới đáp ứng đòi hỏi mới của phong trào cách mạng của giai cấp công nhân.
Thứ ba, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại cơng nghiệp, nó khơng
ngừng lớn mạnh cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp đã thể hiện là một
lực lƣợng xã hội to lớn, đóng vai trị quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị,


10

xã hội, nó là lực lƣợng quyết định đến tƣơng lai của xã hội. Nhƣng chính những
ngƣời vơ sản lại chƣa ý thức đƣợc địa vị của mình trong tiến trình lịch sử; chƣa
nhận thức đƣợc con đƣờng và thủ đoạn thực hiện việc giải phóng bản thân mình và
giải phóng tồn xã hội. Phong trào cơng nhân ở Tây Âu khi đó cịn mang tính chất
tự phát chƣa có tổ chức thống nhất, chƣa có lý luận khoa học dẫn đƣờng, còn chịu
nhiều ảnh hƣởng của các trào lƣu tƣ tƣởng tƣ sản. Những học thuyết xã hội chủ
nghĩa khơng tƣởng của Xanhximơng, Phurie, Ooen tuy có giá trị lớp trong việc phê
phán xã hội tƣ bản, nhƣng vẫn chƣa phản ánh đƣợc lợi ích căn bản của giai cấp vơ
sản trong sự nghiệp giải phóng mình và giải phóng tồn thể quần chúng lao động bị
áp bức bóc lột. Đến những năm 30- 40 của thế kỷ XIX giai cấp vô sản, con đẻ của
nền công nghiệp, trở thành một lực lƣợng chính trị độc lập, phát triển cuộc đấu

tranh từ trình độ tự phát lên trình độ tự giác, từ những yêu sách thuần túy kinh tế
chuyển dần sang mục tiêu chính trị. Để đạt đƣợc mục tiêu đó cần phải có một hệ
thống lý luận mang tính định hƣớng, đƣợc xác lập trên cơ sở hiện thực, nắm bắt và
phân tích khoa học những vấn đề của thời đại, vạch ra con đƣờng giải phóng cho
giai cấp vô sản và các tầng lớp ngƣời lao động bị áp bức, dự báo xu thế vận động
của lịch sử… Chính C. Mác và Ph. Ăngghen đã khái quát kinh nghiệm đấu tranh
cách mạng của giai cấp vô sản, sáng tạo ra lý luận khoa học trong đó phát minh ra
quan niệm duy vật về lịch sử trong triết học Mác đã đáp đƣợc ứng nhu cầu lịch sử
của phong trào vô sản. Hệ thống lý luận nhƣ vậy ra đời là cần thiết và tất yếu; nó
gắn liền với tên tuổi của Mác và Ăngghen từ giữa thập niên 40.
Vào những năm 1845 – 1846, Tây Ây đang tiến nhanh đến cuộc cách mạng
vô sản, phong trào công nhân đã phát triển rộng nhƣng lại chịu ảnh hƣởng của
nhiều môn phái xã hội không tƣởng. Lúc này, C. Mác và Ph. Ăngghen đã đi sâu
vào vận động chính trị. Hai ông thấy cần phải xây dựng lý luận chủ nghĩa xã hội
một cách khoa học, phải phân ranh giới giữa hệ tƣ tƣởng của giai cấp vô sản
không những với hệ tƣ tƣởng của giai cấp tƣ sản, mà cả hệ tƣ tƣởng của giai cấp
tiểu tƣ sản. Từ đó, vạch ra con đƣờng đấu tranh cách mạng một cách hiện thực mà
giai cấp vô sản đang đi vào một cách tự phát, để có thể chuyển thành tự giác.


11

Tính tất yếu của sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác
phản ánh tính tất yếu của vận động lịch sử ở một nấc thang cụ thể, gắn với những
nhu cầu cụ thể, những nhu cầu mà các thời đại trƣớc còn chƣa biết đến. Tính chất
của thời đại quy định về cơ bản tính chất của một học thuyết, nhƣng ở thời đại nào
cũng chứa đựng bên trong nó vơ số các sự vật, hiện tƣợng, quá trình, các nhu cầu,
các thiên hƣớng khác nhau, nên xuất hiện nhiều trƣờng phái tƣ tƣởng khác nhau,
đôi khi đối lập nhau. Vấn đề là ở chỗ trong số những khuynh hƣớng ấy khuynh
hƣớng nào sẽ đóng vai trị chủ đạo, khơng chỉ thể hiện thành cơng các điểm nóng

của thực tại, mà cịn vạch đƣợc con đƣờng đúng đắn nhất hƣớng đến chân lý.
C. Mác (1818 – 1883) và Ph. Ăngghen (1820 – 1895) xuất thân từ tầng lớp
cao trong xã hội tƣ sản. Bản thân C. Mác có trình độ học vấn tiến sỹ, có thể tiến
thân bằng cơng việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học, hay các hoạt động phục
vụ chế độ xã hội hiện hành. Ph. Ăngghen là con của một nhà kinh doanh giàu có,
buộc phải bỏ dở phổ thơng trung học vì cơng việc kinh doanh của gia đình. Từ vị
trí xã hội nhƣ thế C. Mác và Ph. Ăngghen đến với những ngƣời vơ sản (đúng
nghĩa của hình ảnh cơng nhân làm th, khơng có tài sản gì khác lúc đầu, trừ sức
lao động), và từ sự đồng cảm với họ hai ngƣời đã xây dựng hệ thống lý luận, học
thuyết bảo vệ quyền lợi của họ và vạch hƣớng cho họ trong cuộc đấu tranh tự giải
phóng. Điều này cho thấy cùng với điều kiện lịch sử - xã hội, thì để có một hệ
thống tƣ tƣởng mang ý nghĩa vạch thời đại rất cần xuất hiện những cá nhân giàu
bản lĩnh chính trị và tinh thần nhạy bén khoa học.
Triết học là giá trị văn hóa tinh thần cô đọng nhất, tinh tuý nhất, là thời
đại lịch sử hiện thực đƣợc tái hiện dƣới hình thức tƣ tƣởng, trong hệ thống các
vấn đề triết học. Những tƣ tƣởng triết học đƣợc sinh ra, chịu sự quy định bởi
những điều kiện lịch sử – xã hội của thời đại mình, cùng với các học thuyết, các
tƣ tƣởng khác làm nên diện mạo tinh thần của thời đại, đóng góp vào giá trị
chung của nhân loại. Mác đã từng viết: “Các triết gia không mọc lên nhƣ nấm từ
trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình, mà dịng sữa tinh tế
nhất, q giá và vơ hình đƣợc tập trung lại trong những tƣ tƣởng triết học” [6,


12

tr.156]. Nhƣ vậy, sự xuất hiện của chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác
và chủ nghĩa Mác nói chung phản ánh nhu cầu khách quan của các quá trình kinh
tế - xã hội, phản ánh nhu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và
tƣ sản ở các nƣớc Tây Âu giữa thế kỷ XIX.
1.1.2. Tiền đề lý luận hình thành chủ nghĩa duy vật lịch sử của C. Mác

và Ph. Ăngghen
Sự xuất hiện của chủ duy vật lịch sử trong triết học Mác không chỉ đƣợc
quyết định bởi những điều kiện kinh tế - xã hội mà còn bị quy định bởi đời sống
văn hóa, những thành tựu của tƣ tƣởng khoa học của nhân loại trƣớc đó. Triết học
Mác khơng phải là một trào lƣu biệt phái. Sự ra đời của nó là sự kế thừa nền văn
minh của nhân loại, trực tiếp nhất là những trào lƣu tƣ tƣởng và lý luận Tây Âu
thế kỷ XIX nhƣ: triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh, chủ nghĩa xã hội
Pháp và Anh. Trên cơ sở kế thừa và phát triển những mặt tích cực của các hệ
thống lý luận trên, C. Mác và Ph. Ăngghen đã xây dựng một thế giới quan triết
học mới.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác ra đời trong bối cảnh diễn ra
q trình phi cổ điển hóa trong tƣ duy triết học. Vào những năm 20 – 30 của thế
kỷ XIX, khi Hêghen đang còn là thần tƣợng của giới trẻ có học thức và cách mạng
tại Đức, những toan tính xem xét lại một cách có phê phán tồn bộ truyền thống
cổ điển phƣơng Tây nói chung, triết học Hêghen nói riêng, đã hình thành dƣới tác
động của q trình phi cổ điển hóa tƣ duy. Sơpenhauơ (1788 – 1860) là một trong
những ngƣời đầu tiên khởi xƣớng quá trình đó. Trong tác phẩm chủ yếu “Thế giới
như ý chí và biểu tượng” (1818) Sơpenhauơ phê phán chủ nghĩa duy lý truyền
thống, đặc biệt là hệ thống Hêghen, thay sự sùng bái lý trí bằng sùng bái ý chí.
Trong “Siêu hình học tình u và cái chết” Sơpenhauơ vạch ra bản chất vị kỷ của
con ngƣời, từ đó phát họa bức tranh bi quan về lịch sử. Sau Sôpenhauơ tại Đan
Mạch nhà triết học Kiếckego (1813 – 1858), ngƣời sống hầu nhƣ cùng thời với
Mác, đặt nền móng cho Chủ nghĩa hiện sinh trong tƣơng lai (nhánh Hiện sinh tôn
giáo). Tại Pháp Côntơ (1798 – 1857), ngƣời khởi xƣớng Chủ nghĩa thực chứng,


13

tuyên bố về một thứ triết học vƣợt qua cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy
tâm, hình thành cái gọi là con đường thứ ba trong triết học. Muộn hơn, các trào

lƣu triết học tôn giáo thực hiện q trình hiện đại hóa bằng cách kết hợp các vấn
đề của thời đại với giáo lý Kytô trung cổ. Nói cách khác, bức tranh triết học nửa
đầu thế kỷ XIX tại các nƣớc Tây Âu đƣợc hình thành với ba khuynh hƣớng cơ bản
là khuynh hƣớng duy lý hiện đại, hay khuynh hướng khoa học (để phân biệt với
duy lý truyền thống), khuynh hướng phi duy lý, và khuynh hướng tơn giáo
(khuynh hƣớng thứ hai này có nhiều mối liên hệ với khuynh hƣớng phi duy lý).
Trong tình hình phức tạp nhƣ thế, Mác đã thể hiện một thái độ khác đối với
truyền thống. Khi xác lập học thuyết triết học của mình Mác chẳng những khơng
xét lại truyền thống một cách cực đoan, mà còn kế thừa và phát triển những yếu tố
tích cực của nó. C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục nhấn mạnh sự cần thiết của việc
phân tích hệ thống các vấn đề triết học do truyền thống để lại, trong đó có vấn đề cơ
bản của triết học. Bƣớc ngoặt có tính cách mạng trong lịch sử triết học, do C. Mác
và Ph. Ăngghen thực hiện, thực chất là sự kế thừa, đổi mới, phát triển lên trình độ
cao các giá trị truyền thống, đặc biệt là truyền thống phƣơng Tây, cải tạo và khắc
phục hạn chế của các học thuyết trƣớc đó mà hai ơng có dịp tìm hiểu.
Tiền đề sâu xa của triết học Mác là toàn bộ tinh hoa tinh thần của nhân loại,
mà chủ yếu là tinh hoa phƣơng Tây, đƣợc tích lũy trong các học thuyết triết học từ
hơn hai ngàn năm qua, bắt đầu từ Hy Lạp cổ đại. Triết học Mác là một vòng khâu
trong chuỗi các vòng khâu nối tiếp nhau qua các thời đại, với sự mở rộng không
ngừng tri thức triết học trong mối liên hệ với hoạt động thực tiễn, với khoa học và
trình độ nhận thức chung. Sự kế thừa ấy thể hiện ở các bình diện bản thể luận,
nhận thức luận, phƣơng pháp luận và nhân sinh – xã hội. Khi tìm hiểu triết học Hy
Lạp, Mác viết: “Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời
đại mình” […] Mác cũng chỉ rõ “Triết học hiện đại chỉ tiếp tục cái cơng việc mà
Hêraclít và Arixtốt đã mở đầu mà thôi” [6, tr.157 - 166]. Tƣ tƣởng nhân văn Phục
hƣng, chủ nghĩa duy vật, nhận thức khoa học và phong trào Khai sáng của thời đại


14


các cuộc cách mạng tƣ sản thế kỷ XVII – XVIII đã trở thành tiền đề quan trọng
đối với quá trình hình thành chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác.
Tiền đề trực tiếp của sự ra đời chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng và triết
học Mác nói chung là triết học cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng Hêghen
và chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc. Cuộc hành trình tƣ tƣởng của Mác bắt
đầu từ phép biện chứng Hêghen, và từ cuối năm 1842 chuyển dần sang chủ nghĩa
duy vật.
Vào năm 1837, Mác đến với triết học Hêghen, một hệ thống triết học đã
chiếm một địa vị thống trị độc tôn nhất ở nƣớc Đức thuộc giai đoạn 1830 - 1940.
Ơng đã tìm thấy nơi hệ thống triết học Hêghen một nguồn suối quan trọng nhất
cho sự hình thành tƣ tƣởng của mình và gắn với nó cho đến cuối đời. C. Mác và
Ph. Ăngghen đánh giá cao tƣ tƣởng biện chứng của triết học Hêghen. C. Mác cho
rằng, tính chất thần bí mà phép biện chứng mắc phải ở triết học Hêghen tuyệt
nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành ngƣời đầu tiên trình bày một cách bao
qt và có ý thức hình thái vận động chung của phép biện chứng ấy. Ở Hêghen
phép biện chứng bị lộn ngƣợc đầu xuống đất; chỉ cần dựng nó lại sẽ phát hiện
đƣợc cái hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí. Chính cái “hạt nhân hợp lý” đó
đã đƣợc Mác kế thừa bằng cách cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lý
luận mới của phép biện chứng – phép biện chứng duy vật. Trên cơ sở phép biện
chứng duy vật, Mác đã tạo ra một phƣơng pháp luận khoa học cho việc nghiên
cứu tiến trình phát triển của xã hội loài ngƣời.
Trong khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của triết học Hêghen, C. Mác đã
dựa vào truyền thống của chủ nghĩa duy vật triết học mà trực tiếp là chủ nghĩa duy
vật của L. Phoiơbắc. Hai tác phẩm tác động tích cực đến sự chuyển tiếp này là
Bản chất Kytô giáo (1841) và Luận cương sơ bộ về cải cách triết học (1842) của
L. Phoiơbắc. Trong Bản chất Kytô giáo Phoiơbắc vạch ra cơ sở tâm lý của sự ra
đời tôn giáo nhƣ cảm giác bất lực và yếu đuối của con ngƣời trƣớc các lực lƣợng
hùng mạnh và bí hiểm xung quanh, nhấn mạnh rằng tơn giáo là hình thức sinh
hoạt tinh thần cần thiết của nhiều dân tộc, rằng Chúa của Kytô giáo là mục tiêu



15

cao nhất, là cái Tuyệt đối mà con ngƣời phấn đấu vƣơn tới, nói khác đi con ngƣời
tạo ra Thƣợng đế, chứ không phải Thƣợng đế sáng tạo ra con ngƣời. Phoiơbắc đƣa
bản chất tôn giáo về bản chất con ngƣời, bản chất của thế giới trần tục, đồng thời
vạch ra hạn chế của chủ nghĩa duy tâm Hêghen, chứng minh mối liên hệ giữa chủ
nghĩa duy tâm trên trời và chủ nghĩa duy tâm dƣới mặt đất, tức hệ thống Hêghen.
Ý tƣởng cải cách mà Phoiơbắc đặt ra trong Luận cương sơ bộ về cải cách triết học
đã kích thích C. Mác xây dựng một học thuyết triết học thâm nhập vào đời sống
hiện thực thông qua các nguyên lý có tính khoa học của nó, khắc phục tính tƣ biện
cố hữu ở triết học Hêghen. Phoiơbắc chỉ ra sự cần thiết thay thế chủ nghĩa kinh
viện mới (ám chỉ triết học Hêghen) bằng thuyết nhân bản, xem con ngƣời là nền
tảng, xem tự nhiên là hiện thực duy nhất, loại bỏ Thƣợng đế ra khỏi đối tƣợng
nghiên cứu. Cải tổ triết học cũng có nghĩa là giải phóng triết học ra khỏi thần học
dƣới bất kỳ hình thức nào. Triết học Phoiơbắc là chiếc cầu nối để Mác đi đến chủ
nghĩa duy vật biện chứng nhƣ sự thống nhất chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng, khắc phục những hạn chế lịch sử của các bậc tiền bối trực tiếp. Hình thức
hiện đại của chủ nghĩa duy vật (chủ nghĩa duy vật biện chứng) và phép biện chứng
(phép biện chứng duy vật), gắn liền với tên tuổi của C. Mác và Ph. Ăngghen, là sự
phát triển mới về chất của lịch sử triết học nói chung, của chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng nói riêng. Trong tiền đề lý luận Đức không thể không đề cập đến
vai trị của phái Hêghen trẻ, bởi lẽ chính thơng qua phái Hêghen trẻ mà C. Mác và
Ph. Ăngghen trƣởng thành dần về tƣ tƣởng. Trong quá trình chuyển biến thế giới
quan phái Hêghen trẻ khơng chỉ đóng vai trị cầu nối, mà còn là phép thử tƣ tƣởng
đối với C. Mác và Ph. Ăngghen, nhất là khi cả hai đang đứng trƣớc sự lựa chọn
quyết định.
Triết học chính trị của C. Mác tập trung vào việc tìm kiếm phƣơng thức tồn
tại và phát triển của xã hội trong điều kiện phân hóa gay gắt. Q trình làm quen
với chủ nghĩa cộng sản không tƣởng của Xanhximông, Phuriê, Ooen đƣa C. Mác

và Ph. Ăngghen đến với tƣ tƣởng cốt lõi của họ nhƣ xóa bỏ tình trạng ngƣời bóc
lột ngƣời, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hơn nền dân chủ


16

hiện tại với sở hữu cộng đồng về tƣ liệu sản xuất và sự phân phối sản phẩm xã hội
một cách hợp lý. C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp thu có chọn lọc những tƣ tƣởng ấy
và vận dụng vào triết học chính trị của mình, hình thành nên lý luận về vai trò của
quần chúng nhân dân trong lịch sử, học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về
nhà nƣớc và cách mạng xã hội, đặc biệt là lý luận giải phóng con ngƣời. Do chịu
sự chi phối của điều kiện lịch sử cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX các nhà cộng
sản không tƣởng chƣa thể vạch đƣợc con đƣờng và phƣơng thức giải phóng ngƣời
lao động ra khỏi ách áp bức tƣ sản một cách khoa học. C. Mác và Ph. Ăngghen
vƣợt qua hạn chế đó, xác lập quan niệm duy vật về lịch sử, gợi mở những khả
năng biến ý tƣởng của các bậc tiền bối thành hiện thực.
Các đại biểu lớn của kinh tế chính trị học Anh, Xmít và Ricácđơ, cũng nhƣ
kinh nghiệm thực tiễn xã hội tại Anh (sự vận động của nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa,
xung đột giai cấp, tình cảnh giai cấp cơng nhân Anh) đã đem đến cho C. Mác một
số kinh nghiệm và phƣơng pháp phân tích các hoạt động kinh tế, các quy luật chi
phối sự phát triển của xã hội. Tiếp thu có chọn lọc và phê phán kinh tế chính trị
học tƣ sản cổ điển, C. Mác và Ph. Ăngghen đƣa vào học thuyết của mình những
vấn đề và những luận giải mang tính khám phá. Học thuyết về giá trị thặng dƣ
của C. Mác vƣợt ra khỏi khuôn khổ của một học thuyết kinh tế, trở thành cơ sở
giải thích bản chất của xã hội tƣ sản, từ đó khẳng định rằng chủ nghĩa tƣ bản
không phải là sự lựa chọn cuối cùng của nhân loại.
Triết học Mác đã kế thừa có phê phán tồn bộ triết học trƣớc đó nhất là triết
học duy vật và phép biện chứng. Đó là những tiền đề lý luận khơng thể thiếu đƣợc
của triết học Mác. Đồng thời sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết
học Mác gắn liền với những thành tựu của khoa học tự nhiên. Liên minh giữa triết

học với các lĩnh vực tri thức cụ thể, đặc biệt là khoa học tự nhiên, có lịch sử lâu
dài và mang ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của triết học, nhất là chủ nghĩa
duy vật. Các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cổ đại đều là những bộ óc lớn.
Talét, Anaxago, Arixtốt và nhiều ngƣời khác đƣợc biết đến không chỉ với tƣ cách
là những triết gia, mà còn là những bậc thông thái, am tƣờng nhiều thứ, chẳng hạn


17

toán học, vật lý học, thiên văn học, sinh vật học… những lĩnh vực đang cịn ở
trong tình trạng tản mạn, sơ khai. Cùng với q trình chun biệt hóa tri thức, vị
trí của triết học nhƣ “khoa học của các khoa học” cũng cần đƣợc xem xét lại.
Song, liên minh giữa triết học với các khoa học chuyên biệt là điều kiện tất yếu
cho sự phát triển của cả hai. Đã có lúc, do những nguyên nhân khác nhau, triết học
bị đặt dƣới sự chế ngự và giám sát của thần học, bị biến thành hệ thống các quan
điểm mang nặng tính giáo huấn, tính minh họa một chiều cho các tín điều. Khi ấy
những khám phá khoa học, với những chất liệu thực tiễn không thể bác bỏ, đã trở
thành chỗ dựa vững chắc đối với quá trình giải phóng triết học ra khỏi ảnh hƣởng
của thần học, tiếp tục con đƣờng hƣớng tới chân lý. Triết học khơng thể phát triển,
nếu tách ra khỏi trình độ nhận thức chung của thời đại, trong đó có trình độ phát
triển của tri thức khoa học.
Thế kỷ XVIII – XIX khoa học tự nhiên phát triển nhƣ vũ bão với hàng loạt
phát minh mang ý nghĩa vạch thời đại, đƣa đến sự biến đổi trong cách thức tƣ duy
của con ngƣời. Ba phát minh lớn mà Ăngghen nhắc đến trong tác phẩm Lútvích
Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức đƣợc gọi là các phát minh
vạch thời đại do tác động quyết định của chúng đến chủ nghĩa duy vật: Định luật
bảo tồn và chuyển hóa năng lượng; thuyết tế bào; thuyết tiến hóa.
Phát minh thứ nhất, tạo nên chất liệu sống động cho sự lý giải mới về toàn
bộ thế giới vật chất, khẳng định rằng, thứ nhất, thế giới vật chất không chỉ đƣợc
xác định là “khơng bị tiêu diệt”, mà cịn là một q trình ln trải qua sự liên hệ,

tác động, chế ƣớc, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu tố trong mỗi sự vật, hiện
tƣợng và giữa các sự vật, hiện tƣợng; thứ hai, do đó, cách hiểu “bảo tồn” phải
gắn với cách hiểu về vận động, biến đổi, chuyển hóa.
Với hai phát minh tiếp theo các luận cứ do khoa học tự nhiên đem đến đã
khẳng định nguồn gốc tự nhiên của sự sống (thuyết tế bào) từ đơn giản đến phức
tạp, từ thấp đến cao, từ chƣa hoàn thiện đến hồn thiện hơn. Bức tranh sự sống vơ
cùng phong phú, phức tạp, song tuân theo tính quy luật bên trong, khách quan của
mình, trong đó có quy luật đấu tranh sinh tồn, tính thích nghi, tự đào thải, chọn lọc


18

tự nhiên và cân bằng sinh thái (thuyết tiến hoá của Đácuyn). Khẳng định chân lý
khoa học này cũng có nghĩa là bác bỏ quan niệm về nguồn gốc siêu nhiên của sự
sống, cũng nhƣ sự giải thích giản đơn, máy móc, siêu hình về thế giới, đặc biệt là
thế giới hữu sinh. Sự ra đời thuyết tế bào và thuyết tiến hóa đã kích thích các nhà
khoa học đào sâu q trình tìm hiểu tính thống nhất và đa dạng của tồn tại, khám
phá những bí ẩn của thế giới, đồng thời góp phần đƣa đến sự hình thành phƣơng
pháp tƣ duy mới. Những thành tựu mới nhất của sinh học, y học, tế bào học hiện
đại tiếp tục soi sáng các vấn đề mà vào thời Đácuyn chỉ mới là những phác thảo
hoặc chƣa đề cập đến. Điều đáng nói là mỗi bƣớc đi, mỗi phát minh tiêu biểu của
khoa học đều buộc các nhà lý luận tìm hiểu, khái quát, biến thành những yếu tố
thẩm định giá trị của một quan điểm, một học thuyết có liên quan.
Những phát minh vạch thời đại trong khoa học tự nhiên, cùng với những
biến đổi trong các khoa học lịch sử, đã góp phần đƣa đến sự cáo chung hình thức
cũ của chủ nghĩa duy vật, tức chủ nghĩa duy vật siêu hình (đúng hơn, chủ nghĩa
duy vật trong phạm vi Siêu hình học của thế kỷ XVII – XVIII ); nó cần đƣợc
thay thế bằng hình thức hiện đại của chủ nghĩa duy vật, tức chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Ph. Ăngghen viết: “Mỗi lần có một phát minh mang ý nghĩa thời đại
ngay cả trong lĩnh vực khoa học lịch sử – tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại

khơng tránh khỏi thay đổi hình thức của nó” [16, tr.409]. Ph. Ăngghen cho rằng,
để trở thành một nhà triết học chân chính điều kiện trƣớc tiên là phải nắm vững
kiến thức về khoa học tự nhiên – lịch sử, từ toán học, vật lý, đến các khoa học về
con ngƣời. Trƣớc tình hình phát triển của khoa học tự nhiên, cần phải có một sự
kiến giải mới về sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tƣ duy. Và tất yếu xuất hiện
một học thuyết mới đó là học thuyết triết học khoa học, do Mác và Ăngghen đề
xƣớng, sau này đƣợc Lênin phát triển.
Chủ nghĩa Mác cũng nhƣ các học thuyết triết học khác, không thể hình thành
một cách tự phát. Để tạo nên một hệ thống lý luận chặt chẽ phải tiến hành một
khối lƣợng công việc đồ sộ, sự hoạt động nghiên cứu không mệt mỏi của tƣ duy,
sự nhận thức thấu đáo về mặt lý luận toàn bộ thành tựu khoa học và kinh nghiệm


19

đấu tranh xã hội của các thời đại lịch sử. Bƣớc ngoặt cách mạng trong triết học
đƣơng nhiên gắn liền một cách biện chứng với với việc nắm bắt các thành tựu tƣ
duy lý luận và văn hóa của quá khứ. Trong tác phẩm Ba nguồn gốc và ba bộ phận
cấu thành của chủ nghĩa Mác, V.I. Lênin chỉ rõ rằng mọi toan tính xem xét chủ
nghĩa Mác bên ngồi con đƣờng phát triển của văn hóa thế giới, biến nó thành một
học thuyết biệt phái khép kín nào đó, là biểu hiện của cách tiếp cận có tính xun
tạc, trái với chân lý. Các thành quả của tƣ tƣởng quá khứ, trong đó có triết học,
chứa đựng những vấn đề địi hỏi có lời giải đáp mới lẫn những “hạt nhân hợp lý”
mà C. Mác và Ph. Ăngghen sử dụng nhƣ tiền đề lý luận của mình.
Nhƣ vậy, sự hình thành của chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác
cũng nhƣ toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời nhƣ một tất yếu lịch sử khơng những vì
đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp cơng nhân, địi hỏi
phải có lý luận mới soi đƣờng mà cịn vì những tiền đề cho sự ra đời lý luận mới
đã đƣợc nhân loại tạo ra.
1.2. TƢ TƢỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

TRONG TRIẾT HỌC MÁC - ĂNGGHEN, GIÁ TRỊ KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA
LỊCH SỬ
1.2.1. Các giai đoạn phát triển và nội dung tƣ tƣởng cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử trong triết học Mác - Ăngghen
Xét về thực chất sự phát triển của triết học Mác trải qua các thời kỳ chính
là thời kỳ chuyển tiếp, định hình, và thời kỳ phát triển. Về mặt thời gian có thể
tạm chia lịch sử triết học Mác thế kỷ XIX ra các thời kỳ sau: a) thời kỳ hình thành
triết học Mác (1837 -1848), bao gồm quá trình chuyển tiếp tƣ tƣởng (1837 –1844)
và sự xác lập những luận điểm đầu tiên (1844 - 1848); b) thời kỳ phát triển triết
học Mác từ năm 1848 đến Công xã Pari, bao gồm các chặng ngắn, đó là sự phát
triển quan niệm duy vật về lịch sử trong quá trình cách mạng dân chủ tƣ sản 1848
– 1852, sự phát triển triết học Mác trong quá trình xây dựng kinh tế chính trị học
vào những năm 50 – 60; các vấn đề của triết học Mác những năm 60 – 70; c) sự
phát triển triết học Mác sau Công xã Pari Thời kỳ thứ ba chủ yếu gắn liền với tên


20

tuổi của Ăngghen, ngƣời đã làm sâu sắc thêm triết học Mác trên cơ sở khái quát
các thành tựu của khoa học và các vấn đề của đời sống xã hội – lịch sử.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác cũng đƣợc hình thành ngay từ
trong giai đoạn hình thành triết học Mác (1837 – 1848). Trong giai đoạn này, bao
gồm sự chuyển tiếp tƣ tƣởng của C. Mác và Ph. Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm và
chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản, với
các tác phẩm chủ đạo là Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen
(C. Mác), Các bức thư từ nước Anh (Ph. Ăngghen); những phác thảo đầu tiên của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và quan niệm duy vật về lịch sử, với các tác phẩm
Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 (C. Mác), Luận cương về Phoiơbắc (C. Mác),
Sự khốn cùng của triết học (C. Mác), Gia đình thần thánh, Hệ tư tưởng Đức, Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản (C. Mác và Ph. Ăngghen).

Thời gian từ 1837 đến năm 1848 là quá trình C. Mác và Ph. Ăngghen từng
bƣớc xây dựng những nguyên lý triết học duy vật lịch sử. Trong đó, Góp phần phê
phán triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu (1843) là bằng chứng về sự
kết thúc quá trình chuyển tiếp thế giới quan của Mác. “Lời nói đầu” viết sau tác
phẩm chính 6 tháng, chứa đựng các luận điểm xuất phát của triết học mácxít ở
thời kỳ đầu. Trong khi vạch ra tính quy định lịch sử – xã hội và những hạn chế của
triết học Hêghen và phái Hêghen trẻ, Mác nhấn mạnh sự cần thiết phủ định triết
học theo nghĩa cũ, xác lập triết học gắn với những nhu cầu thực tiễn của con
ngƣời, đi từ phê phán lý luận sang phê phán hiện thực, từ phê phán thƣợng giới
đến phê phán cõi trần. Nhân đó C. Mác đánh giá tơn giáo nhƣ nhu cầu tinh thần
của con ngƣời và chỉ ra cơ sở xã hội của sự ra đời tôn giáo: “Sự nghèo nàn của tôn
giáo vừa là sự biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống
sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là
trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng giống nhƣ nó là tinh thần của những
trật tự khơng có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [6, tr.570]. Nhƣ
vậy, nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử đƣợc coi là một trong những phát minh quan
trọng nhất của chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tơn giáo là một trong


×