Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Phát triến văn hóa trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh trà vinh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.25 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ NHƯ DIỄM

PHÁT TRIỂN VĂN HĨA TRONG Q TRÌNH
PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở TỈNH TRÀ VINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHÁT TRIỂN VĂN HĨA TRONG Q TRÌNH
PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở TỈNH TRÀ VINH HIỆN NAY

Chuyên ngành : Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số

: 60.22.85

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đinh Ngọc Thạch


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do tôi nghiên cứu dưới sự
hướng dẫn khoa học của GS.TS Đinh Ngọc Thạch. Kết quả nghiên
cứu cơng trình khoa học này là trung thực và chưa từng được công
bố.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 06 năm
2014
Tác giả

Trần Thị Như Diễm


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................... 1
Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA, PHÁT TRIỂN VĂN
HÓAVÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM ....................................................................... 11
1.1 KHÁI NIỆM VỀ VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ............................ 11

1.1.1 Khái niệm văn hóa .................................................................... 11
1.1.2 Khái niệm phát triển văn hóa .................................................. 16
1.2 QUAN NIỆM VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VÀ QUAN HỆ VỚI SỰ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở VIỆT NAM .......... 21


1.2.1 Quan niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam .............................................................................................. 21
1.2.2 Sự tác động kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đến sự phát triển văn hóa ở Việt Nam ............................................... 32
1.2.3 Vai trị của phát triển văn hóa đến quá trình thực hiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ........................ 40
Kết luận chương 1 ............................................................................... 49
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM PHÁT TRIỂN VĂN HĨA TRONG Q TRÌNH PHÁT
TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở TRÀ VINH HIỆN NAY .......................................... 52


2.1 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH
VINH

TRÀ

................................................................................................................... 52

2.1.1 Đặc điểm về điều kiện tự nhiên .................................................... 52
2.1.2 Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ............................................ 54
2.1.3 Về vấn đề dân tộc và tôn giáo trên địa bàn tỉnh Trà Vinh ........ 60
2.2 TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN VĂN HĨA TRONG Q TRÌNH PHÁT TRIỂN
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TRÀ VINH
TỪ KHI TÁI LẬP TỈNH ĐẾN .................................................................................. 63

2.2.1

Những thành tựu trong quá trình xây dựng và phát triển văn


hóa tỉnh Trà Vinh từ khi tái lập tỉnh đến nay ..................................... 63
2.2.2
2.3

Những khuyết điểm, hạn chế và nguyên nhân ........................ 74

PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM

PHÁT TRIỂN VĂN HĨA TRONG Q TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TRÀ VINH HIỆN NAY ......... 83

2.3.1 Phương hướng phát triển văn hóa trong q trình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Trà Vinh hiện nay 83
2.3.2 Mục tiêu và những giải pháp cơ bản phát triển văn hóa trong q
trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Trà Vinh hiện nay ................................................................................. 92
Kết luận chương 2 ........................................................................................... 100
KẾT LUẬN CHUNG .......................................................................... 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................ 103



1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng
đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra và trở thành nền tảng, sức mạnh tinh

thần của dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước. Vì thế trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam ln coi trọng vai trị của văn
hóa, coi đó là một kiến trúc thượng tầng của xã hội; là nền tảng tinh thần của
dân tộc; là mục tiêu, động lực của sự phát triển. Tuy nhiên, để phát huy được
vai trị của văn hóa Việt Nam trong q trình phát triển, cần phải có một
đường lối văn hóa đúng đắn, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong từng thời kỳ. Bước
vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ văn minh, đường lối văn
hóa được Đảng ta xác định là Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Đây là một định hướng đúng đắn, có ý nghĩa thời đại sâu sắc,
nhằm giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu cho nền văn hóa dân tộc.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi mà kinh tế thị trường đã trở thành
quy luật vận hành tất yếu của nền kinh tế thế giới. Cùng với xu thế đó, việc
chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã giúp chúng ta
đã vượt qua khủng hoảng kinh tế xã hội của những năm 80 thế kỷ trước, phát
triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế, giải quyết được nhiều công ăn
việc làm cho người lao động. Cũng nhờ bước sang kinh tế thị trường, đời sống


2

văn hóa của xã hội trở nên năng động, nhiều nhu cầu văn hóa của quần chúng
được đáp ứng. Tuy vậy, một thực tế khá khắc nghiệt đã diễn ra: cùng với sự
tăng trưởng về kinh tế là sự suy thoái về đời sống tinh thần, đặc biệt trên lĩnh
vực tư tưởng, đạo đức, lối sống. Đó là chưa kể đến những bất cập đang diễn ra
trên các lĩnh vực kinh tế và xã hội: sự tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, môi
trường bị ô nhiễm, chênh lệch giàu nghèo, tội phạm xã hội có chiều hướng gia
tăng, an sinh xã hội chưa bảo đảm,… Những khuyết tật đó khơng chỉ gây tổn
hại đến đời sống văn hóa, mà còn tác động xấu đến sự phát triển trước mắt và

lâu dài cho đất nước.
Một câu hỏi được đặt ra, khi văn hóa bị xuống cấp, tư tưởng, đạo đức,
lối sống của con người bị suy giảm, tình thương và tinh thần trách nhiệm của
con người bị xúc phạm, thì sự tăng trưởng kinh tế liệu có khả năng mang lại
cho con người niềm vui và hạnh phúc chân chính được khơng. Trước tình hình
đó, việc quan tâm xây dựng và phát triển văn hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường đã trở nên đáng quan tâm hơn lúc nào hết. Bởi chúng ta biết rằng văn
hóa vốn gắn liền với toàn bộ cuộc sống với sự phát triển của xã hội. Con
người ra đời cùng với văn hóa, trưởng thành với văn hóa, hướng tới tương lai
cũng từ văn hóa. Nhận thức được tầm quan trọng ấy, theo tinh thần của Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thì gắn phát triển kinh tế với phát triển văn
hóa, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt
hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Quán triệt quan điểm đó, trong
những năm qua, Trà Vinh luôn phấn đấu vươn lên tạo nên những bước phát
triển mới góp phần thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cả nước
nói chung. Việc chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa


3

đã đã mang lại những thành tựu rất đáng ghi nhận, làm thay đổi diện mạo tỉnh
nhà, đời sống vật chất và tinh thần nhân dân không ngừng được nâng cao. Tuy
nhiên, là một tỉnh vùng sâu nghèo của vùng Đồng bằng sơng Cửu Long, diện
tích tự nhiên 2.229 km2, dân số hơn 1 triệu người trong đó có trên 300 ngàn
người (chiếm trên 30% tổng số dân) là dân tộc Khmer, mặt bằng dân trí và
trình độ lao động xếp loại thấp nhất trên cả nước cho nên, khi chuyển sang
kinh tế thị trường một bộ phận do chưa chủ động và lường trước những mặt
trái của nó, sự biến động phức tạp của tình hình kinh tế - xã hội trong nước và
thế giới, bị những mặt tiêu cực, lối sống thực dụng, buông thả, cá nhân chủ
nghĩa và các tệ nạn xã hội chi phối dẫn tới khơng ít người vi phạm pháp luật,

biến thành tội phạm. Những vấn nạn đó xuất phát từ sự xuống cấp về văn hóa,
do mặt trái của cơ chế thị trường mang lại, đã gây cản trở không nhỏ sự phát
triển của tỉnh. Do đó, hơn lúc nào hết, việc xây dựng và phát triển văn hóa
trong tình hình hiện nay đang là vấn đề có tính thời sự cấp thiết đang được sự
quan tâm nghiên cứu.
Đối với Trà vinh, một tỉnh có đa thành phần dân tộc cùng sinh sống đan
xen nhau, tiêu biểu với ba dân tộc chính là Kinh, Khmer, Hoa. Với đặc điểm
nổi bậc đó, thì việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay là một nhu cầu cấp
bách.
Vì những lý do đó, việc nghiên cứu đề tài: "Phát triển văn hóa trong
q trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
tỉnh Trà Vinh hiện nay" vừa có ý nghĩa lý luận, thực tiễn cấp thiết và lâu dài.
Đồng thời với việc thực hiện tốt vấn đề này đây là điều kiện cần thiết đảm bảo


4

cho yếu tố phát triển bền vững trên địa bàn tỉnh Trà Vinh nói riêng và cả nước
nói chung.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề về kế thừa và phát triển văn hóa trong q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa cũng như nghiên cứu về văn hóa trong kinh tế thị trường là
vấn đề đã được nhiều tập thể, nhiều nhà khoa học nước ta và nước ngoài quan
tâm, nghiên cứu ở những mức độ khác nhau.
Tiêu biểu cho các thành tựu nghiên cứu về văn hóa và kế thừa, phát
triển văn hóa có thể kể đến các cơng trình sau:
- PGS.TS Phạm Đức Duy (chủ biên) với “Phát triển văn hóa Việt Nam
giai đoạn 2011-2020 xu hướng và giải pháp”, (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2011). Trong cuốn này, tác giả đã nêu ra những vấn đề lý luận chung về

văn hóa, phát triển văn hóa. Đồng thời vạch ra những thực trạng và bài học
kinh nghiệm trong việc xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong 25
năm đổi mới, từ đó tác giả đề xuất một số phương hướng, quan điểm và giải
pháp phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
- Hội thảo Lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc lần thứ sáu (từ ngày 8 – 10, tháng 9, năm 2010) với chủ đề “Đẩy
mạnh xây dựng văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế
quốc tế kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc” đây là tập hợp
cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả, trong Hội thảo này các tác giả đã đi
vào nghiên cứu văn hóa dưới nhiều gốc độ khác nhau và ở những khía cạnh
khác nhau của văn hóa. Trên cơ sở đó, cũng đã đề ra những giải pháp quan
trọng nhằm xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam phù hợp với tình hình
mới hiện nay.


5

- Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) cùng tập thể tác giả đã thực hiện đề
tài khoa học cấp nhà nước “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc”, (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001). Xuất phát từ
sự tiếp cận văn hóa, những yếu tố cấu thành của nó, những tiền đề lý luận
và thực tiễn hoạt động văn hóa hơn nửa thế kỷ qua, nhóm tác giả đã khảo
sát thực trạng văn hóa, đạo đức lối sống, đặc biệt là của thanh niên, qua đó
đề xuất một số giải pháp để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
- GS,TS Đỗ Huy trong cuốn: “Nhận diện văn hóa Việt Nam và sự biến
đổi của nó trong thế kỷ mới”, (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002). trên
cơ sở nhìn lại văn hóa Việt Nam trong thế kỷ XX, tác giả đã đề cập đến việc
xây dựng những giá trị văn hóa Việt Nam trong thế kỷ mới.
- Ở góc độ đạo đức, tập thể tác giả là nhà khoa học, nhà nghiên cứu,

nhà lý luận nước ta đã tiếp cận khái niệm lối sống như là một phạm trù Đạo
đức học trong quyển “Về giáo dục đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng
viên hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2004). Qua đó, các tác giả phân tích thực trạng vấn đề đạo đức, lối sống và đề
ra các giải pháp giáo dục đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay.
- TS Nguyễn Viết Chức (chủ biên) với quyển “Xây dựng tư tưởng, đạo
đức, lối sống và đời sống văn hóa ở thủ đơ Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,(Nxb.Văn hóa - Thơng tin & Viện
Văn hóa , Hà Nội, 200), gồm các bài tham luận của nhiều nhà nghiên cứu, nhà
quản lý văn hóa, ở những góc độ khác nhau đã đề cập đến tầm quan trọng và
cần thiết của việc xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa ở
thủ đô Hà Nội.


6

- Trên bình diện xem xét bản sắc văn hóa dân tộc, PGS,TS. Lê Như
Hoa đã đề cập đến vấn đề nếp sống, lối sống, lối sống đô thị, lối sống gia đình
trong giai đoạn hiện nay. Các vấn đề này được tác giả đề cập trong quyển
“Bản sắc văn hóa trong lối sống hiện đại” , (Nxb. Văn hóa - Thơng tin & Viện
Văn hóa, Hà Nội, 2003).
- Ở góc độ tâm lý, tập thể tác giả thuộc Hội Khoa học Tâm lý - Giáo
dục Việt Nam, Viện nghiên cứu con người và Viện Khoa học xã hội Việt Nam
trong quyển “Tâm lý người Việt Nam đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa Những điều cần khắc phục” do GS.VS Phạm Minh Hạc (chủ biên), (Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004), đã đề cập đến những mặt mạnh, mặt yếu,
khẳng định những cái hay cần kế thừa, phát huy, những điều dở cần khắc phục
trong lao động, học tập và lối sống của người Việt Nam trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đồng thời đề xuất một số kiến nghị về
chiến lược và chính sách nhằm phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn
cách mạng hiện nay.

GS.TS. Trần Văn Bính, Văn hóa các dân tộc Tây Nam bộ thực trạng
và những vấn đề đặt ra, (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004). Đã tổng kết
những thành tựu và hạn chế trong đời sống văn hóa của đồng bào vùng Tây
Nam Bộ nói chung trong đó có tỉnh Trà Vinh, đồng thời tác giả đã chỉ ra
những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế và nêu những giải pháp thiết thực
nhằm khắc phục những khó khăn, tiếp tục đẩy mạnh bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa của vùng.
Về mặt lý luận và thực tiễn, các cơng trình đã nêu, ở những phương
diện khác nhau đã có những đóng góp nhất định cho việc kế thừa các giá trị
văn hóa truyền thống trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam


7

trong q khứ cũng như hiện tại.
Ngồi ra, cịn có một số bài báo bài viết về vấn đề văn hóa tỉnh Trà
Vinh trong giai đoạn hiện nay, tiêu biểu như Tạp chí văn hóa Trà Vinh, thuộc
Sở Văn hóa thể thao du lịch Trà Vinh có bài viết về Đời sống văn hóa, Số 1
năm 2012. Đã tổng kết những thành tựu đạt được trong quá trình bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hó tỉnh nhà sau 20 năm tái lập tỉnh, xem đó là tiền đề
quan trọng để sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung trong điều kiện kinh tế
thị trường, giao lưu và hội nhập.
Hội nghị Hội thảo triển khai thực hiện Đề án "Bảo tồn, phát triển văn
hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020", được Bộ Văn hóa thông tin
du lịch trực tiếp tổ chức thực hiện đề án, phối hợp với UBND tỉnh Trà Vinh
tổ chức Hội nghị ngày 23/12/2011. Đề án hướng tới các đối tượng là các dân
tộc thiểu số Việt Nam, tập trung ưu tiên cho phát triển văn hóa các dân tộc
thiểu số rất ít người, các dân tộc khơng có điều kiện tự bảo vệ và phát huy di
sản văn hóa của dân tộc mình. Địa bàn triển khai tại miền núi, dân tộc thiểu
số; ưu tiên cho vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo;

những vùng phải di dời để phát triển kinh tế; vùng có nguy cơ cao bị mai một
bản sắc văn hóa; vùng dân tộc trọng điểm (Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam
bộ) trước sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình nào tập trung nghiên cứu về
q trình phát triển văn hóa trong q trình thực hiện kinh tế thị trường trên
địa bàn tỉnh Trà Vinh trong giai đoạn hiện nay một cách có hệ thống và hồn
chỉnh.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề
3.1 Mục đích của đề tài


8

Trên cơ sở làm rõ vấn đề lý luận về văn hóa và phát triển văn hóa trong q
trình thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
mối quan hệ giữa phát triển văn hóa và kinh tế thị trường, đồng thời chỉ ra
những thực trạng phát triển văn hóa trên địa bàn tỉnh Trà Vinh trong giai
đoạn hiện nay, từ đó đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm nhằm phát triển
văn hóa của tỉnh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
3.2 Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đích trên, đề tài tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ
bản sau:
Thứ nhất, phân tích và làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về văn
hóa và phát triển văn hóa.
Thứ hai, phân tích thực trạng của việc phát triển văn hóa của tỉnh Trà Vinh,
chỉ ra những thành công, hạn chế chủ yếu và các nguyên nhân của nó. Kiến
nghị một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển văn hóa trong quá trình thực
hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên địa bàn tỉnh trong
giai đoạn hiện nay.

3.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài được xác định là nghiên cứu về phát triển
văn hóa tỉnh Trà Vinh trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phạm vi nghiên cứu là tiếp cận phạm trù về văn hóa và phát triển văn hóa
dưới gốc độ lý luận và thực tiễn. Làm rõ sự cần thiết phải phát triển văn hóa
trong q trình phát triển kinh tế thị trường ở Trà Vinh hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài


9

Đề tài được thực hiện dựa trên cở sở thế giới quan và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về văn hóa và phát triển văn hóa trong quá trình thực hiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để làm rõ những nội dung cơ bản đặt ra của luận văn, trong quá trình
nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp: phương pháp hệ thống, phương
pháp thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp ... trong quá trình nghiên cứu.
Khi sử dụng phương pháp so sánh, đề tài chủ yếu so sánh những đặc điểm
tự nhiên, kinh tế, xã hội của Trà Vinh với các địa phương khác trong cả nước,
đặc biệt là các tỉnh thuộc đồng bằng sơng Cửu Long, để từ đó rút ra những kết
luận lý thuyết và kiến nghị phù hợp với điều kiện của tỉnh Trà Vinh trong việc
phát triển văn hóa.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Việc nghiên cứu để xây dựng đề tài “Phát triển văn hóa trong q
trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
tỉnh Trà Vinh hiện nay” là việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng,
giúp cung cấp những thông tin cần thiết về vấn đề phát triển văn hóa trên
địa bàn tỉnh Trà Vinh trong giai đoạn hiện nay. Ý nghĩa khoa học và tính
thực tiễn của đề tài thể hiện qua các nội dung sau đây:

Thứ nhất, hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hoạch định
chiến lược phát triển văn hóa ở Việt Nam nói chung và tỉnh Trà Vinh nói
riêng.
Thứ hai, bằng các số liệu chứng minh, luận văn phân tích và làm sáng
tỏ hiện trạng việc phát triển văn hóa của tỉnh; từ đó, rút ra nguyên nhân và


10

bài học kinh nghiệm cho việc hoạch định chiến lược phát triển văn hóa
trong q trình thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
tỉnh Trà Vinh.
Ngoài ra, đề tài còn chỉ ra những kết quả đạt được những hạn chế và
những nguyên nhân quản lý, phát triển văn hóa và thơng qua đó đề xuất
những giải pháp để xây dựng và phát triển văn hóa trên địa bàn tỉnh một
cách hiệu quả nhất.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có hai chương và năm tiết


11

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1

KHÁI NIỆM VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HĨA


1.1.1

Khái niệm văn hóa

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực tác động vào con
người và xã hội, làm hình thành và phát triển nhân cách, tâm hồn, nâng cao
năng lực, hiệu quả hoạt động xã hội của con người. Văn hóa là một thuật ngữ
được sử dụng rộng rãi và phổ biến trong cuộc sống hàng ngày và trong ngôn
ngữ khoa học, là một thuật ngữ đa nghĩa gắn liền với tất cả hoạt động sống của
con người. Chúng ta vẫn thường nói đến văn hóa ăn, văn hóa ở, văn hóa mặc,
văn hóa gia đình, văn hóa tế lễ, văn hóa hội hè, văn hóa nghe, văn hóa đọc,...
Trong ngơn ngữ thường ngày, sắc thái nhiều vẻ và ý nghĩa đa dạng của từ văn
hóa đã được thể hiện trong các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, khoa học; xuất
hiện trong các văn kiện, cương lĩnh chính trị của một Đảng và được báo chí sử
dụng làm cơng cụ truyền đạt tư tưởng. Các nhà khoa học xã hội và khoa học
tự nhiên cũng thường xuyên dùng từ văn hóa để minh chứng cho các luận
chứng khoa học của mình.
Ở phương Tây, văn hóa là một thuật ngữ có rất nhiều ý nghĩa: người Anh
(Culture), người Đức (Kultur), người Nga (Культура đọc là cultura), theo
tiếng Latinh (Cultural animi) văn hóa chỉ việc cày bừa hay canh tác đất đai;
chỉ sự trao dồi linh hồn hay trí tuệ, vì trái đất dù tốt nhưng nếu không được


12

gieo trồng, vun xới, canh tác thì cũng sẽ trở thành mảnh đất khơng có giá trị.
Và theo nghĩa này thì tinh thần con người sẽ khơng đạt đến những điều tốt đẹp
nếu khơng được đào tạo, giáo dục.
Văn hóa có thể truy ngun về thuật ngữ Civis (Cơng dân, xã hội công

dân và nền văn minh). Thuật ngữ này phản ánh nhu cầu của một cá nhân thuộc
về nhóm hay một cộng đồng xã hội vì tinh thần nhân văn tạo ra những kết quả
tốt đẹp phục vụ đời sống con người. [16, tr.225-270]
Theo nghĩa chung nhất, văn hóa được hiểu trên hai bình diện.
Một là, thích ứng với điều kiện tự nhiên, khai thác tự nhiên, khắc phục
những khó khăn trong cuộc sống con người. Hai là, giáo dục và đào tạo cá thể
và cộng đồng để họ ngày càng hồn thiện hơn, tốt đẹp hơn.
Ở phương Đơng, văn hóa đã có trong ngơn ngữ từ rất sớm, văn hóa được
hiểu là phương thức giáo hóa con người – văn hóa giáo hóa. Tức là giáo hóa
làm cơng cụ căn bản nhất để giáo dục con người. [28, tr.16]
Như vậy, văn hóa khơng phải là khái niệm có nội dung bó hẹp, đơn
nghĩa, được sử dụng trong việc khái quát các tri thức của lịch sử hay một tri
thức xã hội nào đó. Cho đến nay, có rất nhiều quan niệm, định nghĩa, khái
niệm khác nhau về văn hóa, nguyên nhân là do việc nghiên cứu về văn hóa
xuất phát từ nhiều khía cạnh, chun ngành khác nhau. Và chắc chắn số lượng
định nghĩa về văn hóa sẽ tăng lên. Bởi “nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực
vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì khơng phải là thiên
nhiên mà liên quan đến con người trong quá trình tồn tại và phát triển, con
người làm nên lịch sử. Cố lỗi của sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao
quát và cao đẹp nhất của nó” [29, tr.225-270]. Tựu chung có thể tiếp cận có
thể tổng kết một số cách tiếp cận định nghĩa về văn hóa sau đây.


13

UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa với ý nghĩa rộng nhất “văn
hóa hơm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất,
trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm
người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối
sống những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những

tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét
bản thân, có lý trí, có óc phê phán và có dấn thân một cách có đạo lý. Chính
nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình
là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xết những thành tựu của
bản thân, tìm tịi khơng biết mệt mỏi những ý nghĩa mới mẽ và sáng tạo những
cơng trình vượt trội lên bản thân”. [8, tr.30]
Tại lễ phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa tổ chức tại Paris
ngày 21 tháng 1 năm 1988, Tổng giam đốc UNESCO Fiderico Mayor lại đưa
ra định nghĩa “văn hóa phản ánh và thê hiện một cách tổng quát sống động
mọi mặt của cuộc sống của con người đã diễn ra trong quá khứ và cũng như
đang diễn ra trong hiện tại qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên hệ thống
giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng
định bản sắc riêng của mình”. [8, tr.40]
Như vậy, văn hóa nằm trong con người, văn hóa chính là con người được
biểu hiện trong phương thức sống, trong năng lực hoạt động và là sức mạnh
của bản chất con người, là trình độ phát triển của chính con người. Văn hóa là
sản phẩm riêng có của con người, như C.Mác đã nói văn hóa là thiên nhiên
thứ hai do con người làm nên, văn hóa có từ buổi bình minh lịch sử lồi
người.


14

Trong khi các nhà văn hóa trên thế giới cịn rất nhiều tranh luận và định
nghĩa khác nhau về văn hóa thì vào năm 1942, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây
dựng định nghĩa về văn hóa “vì lẽ sinh tồn cũng như vì mục đích cuộc sống,
lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương tiện, phương thức sử dụng tồn bộ
những sáng tạo và phát minh đó chính là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi

phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh
ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
Đây là một định nghĩa rất khoa học về văn hóa. Nội hàm định nghĩa văn
hóa khơng q hẹp, q rộng. Nó phù hợp với mọi điều kiện lịch sử - xã hội
trong quá trình phát triển của con người. Bản chất văn hóa trong định nghĩa
của Hồ Chí Minh là hướng đến chủ nghĩa nhân văn cao cả. Văn hóa được hiểu
đồng nghĩa với những giá trị chân – thiện – mỹ.
Trước hết, văn hóa theo quan niệm của Hồ Chí Minh là nét riêng biệt chỉ
có ở lồi người, được hình thành “vì lẽ sinh tồn, mục đích của cuộc sống”.
Con người là một thực thể sinh học – xã hội khác con vật bởi con người có ý
thức, có sáng tạo, có văn hóa. Con người trong cuộc đấu tranh để sinh tồn và
phát triển đã sáng tạo ra văn hóa. Là thiên nhiên thứ hai do con người sáng tạo
ra, văn hóa chính là sản phẩm riêng có của con người và chính văn hóa giúp
con người phát triển ngày càng hoàn thiện hơn, ngày càng đẹp hơn.
Thứ hai, cấu trúc văn hóa được Hồ Chí Minh trình bày trên quan điểm
duy vật lịch sử gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể (văn hóa tinh thần
hay văn hóa theo nghĩa hẹp). Văn hóa tinh thần là những hoạt động những giá
trị tinh thần được tạo ra như ngôn ngữ, chữ viết, nghệ thuật, đạo đức, pháp


15

luật, khoa học, tơn giáo.... Văn hóa vật thể gồm đền, chùa, các cơng trình kiến
trúc, được tạo nên trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Điểm
khác biệt trong định nghĩa về văn hóa của Hồ Chí Minh là người đã thừa nhận
tôn giáo lá một thành tố của văn hóa. Đây là điểm sáng tạo của nhà văn hóa
kiệt xuất Hồ Chí Minh. Người đã vượt lên những thành kiến, những nhận thức
không đầy đủ về tôn giáo, như trong quan điểm của C.Mác xem tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân, là liệu pháp tâm lý, tinh thần, giúp con người vơi
bớt những nổi đau trong hiện thực. Người đã thấy được những đóng góp tích

cực, những giá trị tốt đẹp trong giáo lý của tôn giáo, để hướng con người tự do
tôn trọng đức tin, hướng con người luôn phấn đấu để “tốt đời, đẹp đạo”.
Thứ ba, Hồ Chí Minh định nghĩa về văn hóa theo hướng phát triển. Văn
hóa chính là sự tổng hòa các phương thức sinh hoạt vật chất và sinh hoạt tinh
thần của con người. Cùng với quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, xây
dựng cái tự nhiên thứ hai, con người ngày càng hoàn thiện và phát triển hơn.
Dưới gốc độ tiếp cận của chủ nghĩa xã hội khoa học, văn hóa được hiểu
là tồn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử
bằng lao động của mình trên cả lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất tinh
thần.[24, tr.37] Như vậy, có thể hiểu trước hết văn hóa là sự sáng tạo của con
người trong cuộc sống. Con người khơng chỉ có lao động mà trong q trình
quan sát, hiểu biết và sáng tạo để thích ứng với thế giới, hồn thiện cuộc sống
theo hướng nhân bản hóa. Chính văn hóa chứa đựng những tri thức và vốn
sống của con người. Văn hóa là sản phẩm của con người có tư duy, có trí tuệ,
có sự cảm thụ tinh tế. Có thể đây là đặc trưng cố lõi nhất, chính tính sáng tạo
đã làm cho văn hóa đóng vai trò là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Thứ
hai, văn hóa có tính giá trị là cái cao q có ích trong cuộc sống con người và


16

xã hội. Nâng cao và hoàn thiện con người theo hướng chân – thiện – mỹ. Thứ
ba, văn hóa có tình lịch sử, được hình thành trong quá trình lịch sử nhất định
và được tích lũy và sàn lọc qua quá trình vận động và phát triển của xã hội.
Do đó, khi nói đến văn hóa là nói đến con người, nói đến những đặc
trưng riêng có của lồi người, nói tới việc phát huy những năng lực và bản
chất của con người nhằm hoàn thiện con người, hướng con người khát vọng
vươn tới những giá trị chân – thiện – mỹ. Đó là ba giá trị trụ cột vĩnh hằng của
văn hóa nhân loại. Văn hóa đã có mặt trong tất cả các hoạt động của con người
dù đó chỉ là những suy tư thầm kín, những cách giao tiếp ứng xử cho đến các

hoạt động kinh tế, chính trị xã hội. Như vậy, hoạt động văn hóa là hoạt động
sản xuất ra các giá trị vật chất và tinh thần nhằm giáo dục cho con người khát
vọng vươn tới các giá trị chân – thiện – mỹ và khả năng sáng tạo chân – thiện
– mỹ của đời sống. Hay nói cách khác, văn hóa là sản phẩm do con người
sáng tạo ra, sản phẩm riêng có của con người.
1.1.2 Khái niệm phát triển văn hóa
Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, thực thể người là sự thống nhất toàn
vẹn giữa cái sinh học, cái xã hội và cái lịch sử . Do đó, phát triển văn hóa với
tư cách là sự phát triển con người không phải là sự phát triển về mặt ý thức
của con người mà là sự phát triển con người toàn vẹn lịch sử. Trình độ phát
triển của con người với tư cách là chủ thể của lịch sử, đó là trình độ hoạt động
thực tiễn vật chất và tinh thần của con người. Sự phát triển của văn hóa khơng
tách rời sự tồn tại tự nhiên và tồn tại xã hội của con người. Tính tồn vẹn sinh
học - xã hội - lịch sử của con người là thước đo cho sự phát triển văn hóa của
con người.


17

Khái niệm phát triển văn hóa được hiểu là phát triển đồng bộ và tồn diện
các quan hệ văn hóa – xã hội và các thành tố văn hóa theo hướng tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối văn hóa của Đảng nhằm phát triển con người
và mơi trường văn hóa, tạo động lực để xây dựng thành công sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Theo C. Mác, văn hóa với tư cách là phương thức hoạt động sống đặc
thù của con người để tạo dựng nên nền tảng tinh thần cho sự phát triển cả xã
hội loài người theo các quy luật của cái đẹp. Văn hóa là tồn bộ những thành
quả được tạo ra nhờ hoạt động lao động sáng tạo của con người – hoạt động
sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực của con người. Nhưng

trong thực tế xu hướng trọng kinh tế, duy kinh tế đã chi phối sự phát triển
trong hiện tại, nhất là xã hội tư bản đang đặt ra sự mất cân bằng và khủng
hoảng văn hóa.
Vào những năm cuối thế kỷ XX, trên thế giới thông qua tổ chức Liên
hợp quốc, đã có quan niệm mới về vai trị của văn hóa trong phát triển. Văn
hóa trở thành mục tiêu, nền tảng và là động lực cho sự phát triển bền vững,
phát triển nhân văn. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm đến vai trị
của văn hóa, phát huy vai trị của văn hóa nhất là từ sau Nghị quyết TW5
(Khóa VIII), đã có những sáng tạo mới về quan niệm phát triển văn hóa gắn
với phát triển đất nước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Khi nói đến phát triển văn hóa, UNESCO đã nêu lên quan niệm phát triển
mới theo góc nhìn văn hóa “Phát triển văn hóa, theo chúng tơi là q trình
sáng tạo các giá trị tinh thần và vật chất, phát huy các giá trị truyền thống,
tiếp thu, tiếp biến giá trị văn hóa trong giao lưu, đưa văn hóa vào cuộc sống


18

thành nên tảng tinh thần, động lực và nguồn nội sinh, mục tiêu của phát triển
kinh tế và chính trị, xã hội, tạo nên chất lượng mới của cuộc sống” [27, tr.37]
Có thể xem phát triển văn hóa (chủ yếu về mặt tinh thần) bao gồm tổng
thể các yếu tố và tính chất, tiêu chí và đặc trưng sau đây:
1. Sự gia tăng giá trị trong các tác phẩm và đa dạng về hình thức phát
triển văn hóa.
2. Sự tham gia và hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân nhân
3. Sự chuyển đổi cơ cấu giá trị, và hình thành cơ cấu ngành nghề hợp lý
4. Phát triển nhân cách và nguồn nhân lực
5. Dân chủ hóa mơi trường văn hóa lành mạnh, giao lưu phong phú và xã
hội hóa các hoạt động văn hóa
6. Hiệu quả đầu tư cho văn hóa, vai trị động lực văn hóa được phát huy

7. Xã hội an ninh, bình yên, năng động và tiến bộ.
8. Đổi mới tư duy các hoạt động và lối sống
9. Văn hóa thấm vào các lĩnh vực hoạt động trở thành bản lĩnh, năng lực
phát triển
Phát triển xã hội bền vững thực chất là phát triển thấm nhuần văn hóa,
dựa vào văn hóa dân tộc, phát triển có văn hóa, từ văn hóa và vì văn hóa. Phát
triển như là một giá trị bao trùm và giá trị của sự phát triển chính là phát triển
bền vững. Ngày nay, phát triển kinh tế mà hy sinh văn hóa, lấn át văn hóa nhất
là văn hóa nhân văn thì sẽ trả giá dắt cho sự suy tàn văn hóa dân tộc, cũng như
phát triển mà tàn phá mơi trường tự nhiên vậy.
Phát triển văn hóa là phát triển các ngành, các lĩnh vực các cách thức hoạt
động văn hóa. Làm cho các lĩnh vực văn hóa này phát triển hài hòa với nhau,
đồng bộ với nhau và hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế và mục tiêu phát


19

triển con người, nhưng mục tiêu cuối cùng, tối cao là văn hóa, là hạnh phúc
của con người, có sự hài hòa trong đời sống vật chất lẫn tinh thần, giữa cá
nhân và cộng đồng, văn hóa và tự nhiên, chứ không phải là tăng trưởng kinh
tế, là nhiều của cải vật chất. Khi văn hóa trở thành nền tảng thì mới vững chắc,
tức là đã thấm sâu vào đời sống xã hội, trở thành nguồn gốc của đời sống. Văn
hóa trở thành mơi trường cho mọi sự phát triển, tức là không gian rộng lớn,
năng động, cởi mở cho mọi sự phát triển. Văn hóa khi trở thành mục tiêu thì
nó có vai trị định hướng, điều tiết cuộc sống và hoạt động của con người và
cũng sẽ trở thành động lực. Văn hóa như thế sẽ là nguồn nội sinh và trở thành
động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Nắm bắt được tinh thần của thời đại và dựa trên thực tiễn của đất nước,
Đại hội lần thứ XI của Đảng yêu cầu ''Phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với
phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và

từng chính sách phát triển”[10, tr.40]; ''Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài
hịa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không
ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân''[10,tr.98]; ''Phát triển
toàn diện các lĩnh vực văn hóa xã hội hài hịa với phát triển kinh
tế”[10,tr.124]. Tuy nhiên, Đảng ta cũng thẳng thắn nhận thấy: ''Văn hóa phát
triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế'' [10,tr.169]. Như vậy, tại Đại
hội lần này, Đảng ta đã khẳng định về mặt lý luận: đổi mới văn hố chính là
phát triển văn hóa hài hịa với phát triển kinh tế. Điều đó có nghĩa là việc đổi
mới văn hố khơng chỉ liên quan đến sự phát triển tự thân của văn hố mà cịn
quan hệ sâu sắc đến kinh tế. Từ quan điểm phát triển mới của Đảng chúng ta
cần phải xác định chính xác vai trị của văn hóa trong phát triển, sự thâm nhập
của văn hóa vào mọi lĩnh vực của đời sống, làm sao để văn hóa ngày càng gắn


×