Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

KIỂM SOÁT QUYỀN lực NHÀ nước ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.21 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT


BÀI THU HOẠCH
MÔN: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

Học viên: NGUYỄN TRUNG SƠN
Mã số học viên: ...
Lớp: Hoàn chỉnh CCLLCT, K70-C04


HÀ NỘI - 2020


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Khi nói về bản chất nhà nước mà chúng ta đang xây dựng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Ngay ở Điều 1, Hiến pháp năm 1946, Bản Hiến pháp đầu
tiên của nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo, đã
khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hịa. Tất cả quyền
bính trong nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi
giống, gái, trai, giàu nghèo, giai cấp, tơn giáo”. Người nhấn mạnh: Nước ta
là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Do vậy có quyền nhân
dân trực tiếp làm, trực tiếp thực hiện; có quyền nhân dân giao hay ủy quyền


cho một tổ chức, một nhóm người hoặc cho một người thực hiện để thực
hiện mục tiêu chung là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng khẳng định: Để chống lại tình trạng lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng
quyền lực vì lợi ích cá nhân, đòi hỏi các cơ quan Đảng, Nhà nước và cán bộ
phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng, của nhân dân.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng đã khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân”; tổ chức và hoạt động của nó dựa trên một trong những nguyên tắc
nền tảng: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân cơng, phối hợp và
kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp ”.
Trong thời gian qua, kiểm soát quyền lực nhà nước trở thành nhiệm vụ
của cả hệ thống chính trị; trong đó, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội
và của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội được quan tâm tăng
cường; công tác thanh tra, kiểm tra phục vụ quản lý nhà nước trong bộ máy
hành pháp đã được đẩy mạnh, góp phần quan trọng trong quản lý nhà nước và

4


đấu tranh phịng, chống tham nhũng... Vấn đề kiểm sốt quyền lực nhà nước ở
nước ta là nội dung cần được tiếp tục nghiên cứu, đưa ra những định hướng
đúng đắn và phù hợp với những yêu cầu trong điều kiện mới.

5


NỘI DUNG
1. Quá trình nhận thức về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước

Trước thời kỳ đổi mới, trong các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà
nước ta chưa có thuật ngữ “kiểm sốt quyền lực nhà nước”. Tuy nhiên, trong
Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, cũng đã hình thành những
quy định có nội dung kiểm sốt quyền lực nhà nước. Ví dụ, Quốc hội có quyền
hạn, “giám sát việc thi hành Hiến pháp” (khoản 3, Điều 50 Hiến pháp năm
1959); “thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp
luật” (khoản 3, Điều 83 Hiến pháp năm 1980). Hội đồng Nhà nước “giám sát
công tác của Hội đồng Bộ trưởng, Tòa án Nhân dân tối cao và Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao” (khoản 7, Điều 100 Hiến pháp năm 1980);
“giám sát và hướng dẫn hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp” (khoản 9,
Điều 100 Hiến pháp năm 1980). Viện Kiểm sát nhân dân tối cao “kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của các bộ và các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng,
các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và các đơn vị vũ trang
nhân dân...” (Điều 138 Hiến pháp năm 1980). Mặc dù Hiến pháp có những
quy định nói trên, nhưng vì tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập
quyền xã hội chủ nghĩa nên quyền lực nhà nước chưa được phân công một
cách minh bạch và do đó, cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước chưa có cơ sở
ra đời. Như vậy, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước chưa được hình thành
theo đúng nghĩa của nó, là nhằm bảo đảm việc thực hiện quyền lực nhà nước
theo giới hạn của Hiến pháp được nhân dân giao cho.
Trong thời kỳ đổi mới, nhận thức về kiểm soát quyền lực nhà nước của
Đảng và Nhà nước ta đã từng bước có sự phát triển về chất. Trước hết, trong
các văn kiện của Đảng và Nhà nước, việc thừa nhận Nhà nước ta là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bước đột phá về nhận thức để từng bước
chuyển từ tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ
nghĩa sang tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân công quyền lực

6



nhà nước của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo nguyên tắc tập
quyền xã hội chủ nghĩa, mặc dù quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nhưng
nhân dân không thực hiện được quyền lực nhà nước của mình bằng các hình
thức dân chủ trực tiếp, mà phải thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các
cấp. Vì thế, nhân dân khơng được thừa nhận là chủ thể cao nhất của quyền lập
hiến, mà Quốc hội được Hiến pháp xác định là cơ quan duy nhất có quyền lập
hiến và lập pháp. Do đó, Hiến pháp khơng phải là phương tiện pháp lý cao
nhất để nhân dân giao quyền, ủy quyền (quyền lực nhà nước) của mình cho
Quốc hội, Chính phủ, Tịa án Nhân dân tối cao và các cơ quan nhà nước khác.
Theo đó, Hiến pháp không được quan niệm là một phương tiện pháp lý cao
nhất để giới hạn quyền lực nhà nước, bắt buộc Nhà nước phải hoạt động trong
giới hạn của Hiến pháp.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (năm 1991) đã đề ra một nguyên tắc mới về tổ chức quyền lực nhà nước
trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: “Nhà
nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự
phân công rành mạch ba quyền”. Tuy trong nguyên tắc này chưa có yếu tố
kiểm sốt quyền lực nhà nước, nhưng đây là bước đổi mới rất cơ bản trong tư
duy về “xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân”
mà Đại hội VII của Đảng đã khẳng định. Xây dựng nhà nước pháp quyền trở
thành một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, có tầm chiến lược, bao gồm
tồn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo đó, năm 2001, Nhà
nước ta đã tiến hành sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức
bộ máy nhà nước để thể chế hóa một số quan điểm, đường lối của Đảng ta về
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, và khẳng định: “Nhà nước
ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

7



pháp, tư pháp”. Lần đầu tiên, thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa” và nguyên tắc “phân công, phối hợp...” được trang trọng ghi nhận
trong Hiến pháp nước ta. Đây chính là nền tảng để tất yếu đi đến nhận thức
phải kiểm soát quyền lực nhà nước tại Đại hội X và Đại hội XI của Đảng. Văn
kiện Đại hội X, trong mục “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa” đã đề cập đến vấn đề “xây dựng, hoàn thiện cơ chế
kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động và quyết định của
các cơ quan công quyền”, trong đó đề cập sâu về vấn đề “xây dựng cơ chế
phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp
và tư pháp”. Có thể coi đây là một nhận thức mới, một sự thay đổi về chất
trong tư duy lý luận. “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” mà các
bản Hiến pháp trước đây thừa nhận và khẳng định thì đến đây mới thực sự có
sự nhận thức đầy đủ và nhất quán. Bởi, không thừa nhận quyền lập hiến là
quyền lực gốc, quyền lực thiết lập nên quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp; quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, quyền hành pháp,
quyền tư pháp thì không thể thừa nhận theo đúng nghĩa “Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân” và khơng thể có cơ sở để hình thành cơ chế kiểm
sốt quyền lực nhà nước một cách đầy đủ và đúng đắn.
Từ nhận thức mới về kiểm soát quyền lực nhà nước được ghi nhận ở
Văn kiện Đại hội X của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đưa vào
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam một yếu tố mới, đó là kiểm sốt quyền lực nhà nước. Có thể nói, lần
đầu tiên trong văn kiện của Đảng ta đã ghi nhận một nguyên tắc cơ bản về tổ
chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chứa đựng đầy
đủ các giá trị mới về chất so với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong
nhà nước tập quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là nguyên tắc: Quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong


8


việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thể chế hóa nguyên
tắc này, Hiến pháp năm 2013 đã nêu ở Điều 2: “(i) Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; (ii) Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức;
(iii) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”.
Như vậy, nhận thức về kiểm sốt quyền lực nhà nước từ mơ hình tập
quyền xã hội chủ nghĩa, khơng xem kiểm sốt quyền lực nhà nước là một tất
yếu khách quan, đến việc thừa nhận nhà nước pháp quyền mà trong đó, kiểm
sốt quyền lực nhà nước như một yếu tố cấu thành không thể thiếu trong tổ
chức và hoạt động của nhà nước phải trải qua một q trình 20 năm. Đó là
quá trình kế thừa và phát triển tư duy, đấu tranh với quan điểm và thói quen
của mơ hình tập quyền xã hội chủ nghĩa, bởi sức ỳ của mô hình này đã tồn tại
nhiều thập niên, ăn sâu, bám rễ chắc vào tư duy của nhiều người mà không
thể thay đổi nhanh chóng được. Từ khởi xướng chủ trương cải cách bộ máy
nhà nước một cách mạnh mẽ tại Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đến Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991)
thừa nhận nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp với sự phân cơng rành mạch ba quyền đó; rồi đến việc thừa nhận “Nhà
nước ta... là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, vận hành theo
nguyên tắc căn bản “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối
hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp” là cả một quá trình. Xét về thời gian, quá trình

này tuy dài, nhưng đó là sự vận động tất yếu của nhận thức với sự thay đổi và
nâng cao từng bước qua các kỳ đại hội Đảng.

9


2. Ý nghĩa của kiểm soát quyền lực nhà nước
Trước hết, kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và
bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN là “Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân”. Quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự có của
Nhà nước mà quyền lực của nhân dân, được nhân dân ủy quyền, nhân dân
giao quyền. Nhân dân không trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước của
mình mà lại giao cho Nhà nước thay mình thực hiện, nên tất yếu nảy sinh
địi hỏi chính đáng và tự nhiên phải kiểm soát quyền lực nhà nước. Mặt
khác, khi ủy quyền cho Nhà nước, quyền lực nhà nước lại thường vận động
theo xu hướng tự phủ định mình, trở thành đối lập với chính mình lúc ban
đầu (từ của nhân dân là số đơng chuyển sang số ít của một nhóm người hoặc
của một người). C.Mác gọi hiện tượng này là sự tha hóa của quyền lực nhà
nước. Quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước
suy cho cùng là giao cho những con người cụ thể thực thi. Mà hành động
của con người thì ln ln chịu sự tác động của các loại tình cảm và dục
vọng khiến cho lý tính đơi khi bị chìm khuất. Đặc biệt là khi lý tính bị chi
phối bởi các dục vọng, thói quen hay tình cảm thì khả năng sai lầm trong
việc thực thi quyền lực nhà nước càng lớn. Với đặc điểm đó của con người,
không thể khẳng định người được ủy quyền luôn luôn làm đúng, làm đủ
những gì mà nhân dân đã ủy quyền. Vì vậy, kiểm sốt quyền lực nhà nước là
một nhu cầu khách quan từ phía người ủy quyền là nhân dân đối với người
được ủy quyền là Nhà nước. Hơn thế nữa, quyền lực nhà nước không phải là
một đại lượng có thể cân, đong, đo, đếm xác định được một cách chính xác,
để có thể giao quyền một cách cụ thể. Điều đó lại càng địi hỏi phải kiểm

soát quyền lực nhà nước để hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, mâu thuẫn
chồng chéo hoặc trùng lắp trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước giữa
các cơ quan nhà nước, làm cho hiệu lực và hiệu quả thực thi quyền lực nhà
nước bị hạn chế.

10


Xuất phát từ địi hỏi khách quan nói trên, quyền lực nhà nước thường
được lượng hóa, phân định thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Sự lượng hóa này là để giao cho các cơ quan nhà nước khác nhau, thay mặt
nhân dân thực hiện. Sự phân định các quyền như vậy là điều kiện cơ bản để
nhân dân giao quyền mà không bị lạm quyền, nhân dân kiểm soát và đánh
giá được hiệu lực và hiệu quả thực hiện các quyền mà mình đã giao. Đồng
thời cũng là để cho các cơ quan tương ứng được giao quyền đề cao trách
nhiệm trong việc thực thi quyền lực nhà nước và tự kiểm tra việc thực hiện
quyền lực nhà nước được giao của mình. Vì thế, phân cơng quyền lực nhà
nước là cơ sở, là đòi hỏi khách quan để thực hiện được việc kiểm soát quyền
lực nhà nước.
Quyền lập pháp là quyền đại diện cho nhân dân thể hiện ý chí chung
của quốc gia. Những người được nhân dân trao quyền này là những người do
phổ thông đầu phiếu bầu ra hợp thành cơ quan gọi là Quốc hội. Thuộc tính
cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đại diện cho nhân dân,
bảo đảm cho ý chí chung của nhân dân được thể hiện trong các đạo luật mà
mình là cơ quan duy nhất được nhân dân giao quyền biểu quyết thông qua
luật là quyền lập pháp. Đồng thời, là người thay mặt nhân dân giám sát tối
cao mọi hoạt động của Nhà nước, nhất là hoạt động thực hiện quyền hành
pháp. Đây là một hình thức kiểm sốt quyền lực nhà nước bên trong tổ chức
bộ máy nhà nước để góp phần giúp cho các cơ quan hành pháp và tư pháp
làm đúng, làm đủ nhiệm vụ quyền hạn được giao, hạn chế sự lạm quyền,

lộng quyền.
Quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện ý chí chung của quốc gia
do Chính phủ đảm trách. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của
quyền này là quản lý nhà nước (hay cai trị) mà thực chất là tổ chức thực hiện
pháp luật để bảo đảm an ninh, an toàn và phát triển xã hội. Khơng có một
Chính phủ quản lý nhà nước hữu hiệu, thơng minh thì khơng thể có một Nhà

11


nước giàu có, phát triển ổn định cả về mặt kinh tế lẫn mặt xã hội. Thực hiện
quyền này đòi hỏi Chính phủ và các thành viên của Chính phủ phải nhanh
nhạy, quyết đoán kịp thời và quyền uy tập trung thống nhất. Đồng thời phải
thường xuyên kiểm tra, thanh tra - một hình thức kiểm sốt quyền lực bên
trong bộ máy hành pháp.
Quyền tư pháp là quyền xét xử, được nhân dân giao cho Tòa án và các
cơ quan tư pháp. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt
và cao nhất trong tổ chức thực hiện quyền này. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ
chức không được phép can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Đây thực
chất là quyền bảo vệ ý chí chung của quốc gia bằng việc xét xử các hành vi
vi phạm Hiến pháp, pháp luật từ phía cơng dân và cơ quan nhà nước. Vì vậy,
bảo vệ pháp luật, công lý, tự do của công dân là trách nhiệm hàng đầu của
quyền tư pháp. Mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ tơn trọng, giữ
gìn và bảo vệ tính pháp quyền và cơng lý trong các phán quyết của Tòa án.
Kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát, phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm của Tịa án - là các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước
bên trong bộ máy tư pháp để đảm bảo cho quyền tư pháp độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quyền lực nhà nước, việc phân
định thành ba quyền nói trên là một nhu cầu khách quan. Thực tiễn xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta chỉ ra rằng, việc phân định rành
mạch ba quyền là cách thức tốt nhất để phát huy vai trò của nhà nước đồng
thời là cơ sở để kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Ngoài ra, trong quan hệ với quyền lực nhà nước, một thực tế khách
quan thường xảy ra là cơng dân khơng được bình đẳng với Nhà nước về
thơng tin, nên thường xảy ra tình trạng: (1) người chủ quyền lực nhà nước
(nhân dân) thiếu thông tin hoặc không được thông tin đầy đủ; (2) khả năng
Nhà nước khơng nắm bắt đúng mục đích, lợi ích của nhân dân; (3) khả năng

12


những người thực thi quyền lực cụ thể không hiểu rõ mục đích; (4) khả năng
hiểu đúng mục đích nhưng không sử dụng quyền lực đúng cách, hợp lý; (5)
khả năng các đại diện vì lợi ích riêng có thể vượt quyền, lạm quyền làm tổn
hại đến mục đích chung. Hơn nữa, Nhà nước là tổ chức duy nhất có thuộc
tính cưỡng chế. “Thuộc tính cưỡng chế mang lại cho Nhà nước quyền lực
can thiệp một cách có hiệu quả vào các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội,
nhưng với độc quyền này, Nhà nước có thể can thiệp một cách độc đoán,
chuyên quyền, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Quyền
này cộng với bất bình đẳng về thơng tin giữa dân chúng và Nhà nước tạo ra
những cơ hội cho các công chức xúc tiến những lợi ích của riêng họ hay
những bạn bè đồng minh của họ, làm thiệt hại cho lợi ích chung. Những khả
năng kiếm lợi và tham nhũng là rất lớn.
Hai là, kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền XHCN còn là
tất yếu kỹ thuật để thực thi quyền lực đạt hiệu quả. Quyền lực nhà nước nếu
không được tổ chức thành hệ thống, tuân theo những nguyên tắc, cơ chế,
quy trình nhất định và được thực thi bởi những con người cụ thể thì quyền
lực khơng phát huy được vai trị của mình. Ngày nay, cùng với sự phát triển
như vũ bão của khoa học và công nghệ, xã hội càng trở nên hiện đại, tổ chức

quyền lực nhà nước lại càng phải có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt.
Đây là một u cầu khách quan do sự phân công lao động xã hội, do tính
chun nghiệp hóa của hoạt động quyền lực. Đồng thời trong lao động
quyền lực cũng có những hạn chế. Trước hết, khả năng của con người là hữu
hạn bắt nguồn từ sự hữu hạn của trí tuệ và lý tính của mình. Dù một người
có trí tuệ siêu việt, là “thánh nhân” như thế nào đi nữa thì khả năng sai lầm
vẫn có thể xảy ra “lồi người khơng phải là thánh thần không bao giờ sai
lầm, chân lý của họ phần nhiều chỉ là các chân lý một nửa”.
Do vậy, khả năng sai lệch trong nhận thức và thực thi quyền lực nhà
nước, khả năng sử dụng quyền lực thiếu hiệu quả là có thể xảy ra.

13


Hơn nữa, con người bị điều khiển bởi nhiều khát vọng, trong đó có
khát vọng về quyền lực vừa là mục tiêu, vừa là công cụ để đạt được các khát
vọng khác. Vì vậy, trong tổ chức quyền lực nhà nước cần phải có sự kiểm
sốt một cách chặt chẽ những con người làm việc trong bộ máy quyền lực
nhà nước, để có thể phát hiện và xử lý được khi những người này khơng cịn
xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Ba là, kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam còn bắt nguồn từ đặc trưng Nhà nước ta do một Đảng duy
nhất lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước
và xã hội là một tất yếu lịch sử. Tất yếu đó địi hỏi phải kiểm soát quyền lực
giữa các chủ thể cấu thành hệ thống chính trị ở nước ta. Đó là:
+ Kiểm sốt của nhân dân, chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước đối
với quyền lực nhà nước.
+ Kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, giữa quyền
lực nhà nước ở trung ương và quyền lực nhà nước ở địa phương.

+ Kiểm soát của chủ thể lãnh đạo nhà nước là Đảng cộng sản Việt
Nam đối với Nhà nước.
Kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các chủ thể nói trên là nhằm đảm
bảo cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước vận hành nhịp nhàng, ăn khớp
và thông suốt, chống được lạm quyền, lộng quyền. Tổ chức và hoạt động của
quyền lực nhà nước có sự kiểm sốt thì “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân” không chỉ tuyên bố trong Cương lĩnh, trong Hiến pháp mà là điều
kiện làm cho nó trở thành hiện thực. Do đó, “kiểm sốt quyền lực” thực chất
là kiểm soát quyền lực nhà nước để đảm bảo cho tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN mà Đảng và
Nhà nước ta đang hướng tới xây dựng.

14


3. Thực trạng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam
trong thời gian qua
Một là, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và hoạt động giám sát
của các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội được tăng cường hơn
trước đây. So với Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980, có thể thấy,
Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 đã trao cho
Quốc hội nhiều hình thức thực hiện quyền giám sát nhất - từ xem xét báo cáo
công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tịa án
Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, xem xét văn bản quy phạm
pháp luật của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Tịa án Nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội, đến xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch nước, Chủ tịch
Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính
phủ, Chánh án Tịa án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao và thành lập Ủy ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và

xem xét báo cáo kết quả điều tra của Ủy ban (Điều 7 Luật Hoạt động giám sát
của Quốc hội năm 2003). Đến Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 đã bổ
sung thêm hình thức “bỏ phiếu tín nhiệm” đối với các chức danh do Quốc hội
bầu và phê chuẩn. Quốc hội không những giám sát hoạt động mà còn giám sát
các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan và cá nhân do Quốc hội
thành lập và bầu ra. Như vậy, Quốc hội được xem là một thiết chế quan trọng
nhất trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Thực tiễn những năm qua
cho thấy, công tác giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của Hội đồng Dân
tộc và các Ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội, đặc biệt là hoạt
động chất vấn tại nghị trường, được tăng cường, và nhìn chung, được nhân
dân đồng tình, ủng hộ.

15


Hai là, trong bộ máy hành pháp, công tác thanh tra, kiểm tra phục vụ
quản lý nhà nước cũng được tăng cường, góp phần vào quản lý nhà nước và
đấu tranh phịng, chống tham nhũng.
Ba là, báo chí và các phương tiện thơng tin đại chúng bước đầu góp
phần vào kiểm soát quyền lực nhà nước, với tư cách là một thành tố cấu
thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên ngoài bộ máy nhà nước.
Tuy nhiên, cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước cũng cịn những tồn
tại chủ yếu như sau:
Về nhận thức, thói quen truyền thống của mơ hình tổ chức quyền lực
nhà nước theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa được tuyệt đối hóa, trở
thành sức ỳ, cản trở việc thực hiện những tư duy, nhận thức mới. Vì thế, cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước, xét về phương diện nhận thức, còn nhiều
vấn đề thiếu nhất quán, mâu thuẫn với nhau. Ví dụ, Hiến pháp năm 2013
thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, là người “xây dựng, thi
hành và bảo vệ Hiến pháp” (Lời nói đầu), nhưng chưa ghi nhận cơ chế tài

phán các vi phạm Hiến pháp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp, như văn kiện của Đảng đã chỉ ra. Do đó, hoạt động lập
pháp của Quốc hội chưa có cơ chế kiểm sốt. Có thể nói, nhiều vấn đề rất
mới, rất phù hợp với quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa mà Đảng ta đã đề ra, như “Phân công, phối hợp và kiểm soát trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”... chưa có được nhận
thức hồn tồn thống nhất, nhất quán và sâu sắc trong các đạo luật, nhất là
các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước ban hành sau khi Hiến pháp năm
2013 có hiệu lực.
Về thực tiễn, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay,
kể cả sau khi có Hiến pháp năm 2013 cũng chưa hồn thiện. Vẫn chưa có
thiết chế bảo vệ Hiến pháp độc lập, như Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã
chỉ ra: “Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong

16


hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Theo đó, hoạt động lập pháp của
Quốc hội vẫn nằm ngồi cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Thanh tra, kiểm tra trong bộ máy hành pháp là phương tiện chủ yếu
phục vụ cho quản lý nhà nước, được xem là một thiết chế độc lập thực hành
kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng trong thực tế, Thanh tra Chính phủ và
thanh tra của các cơ quan quản lý nhà nước là những thiết chế phụ thuộc vào
thủ trưởng quản lý, phục vụ cho quản lý nhà nước. Vì thế, thanh tra, kiểm tra
trong bộ máy quản lý nhà nước không phải là chủ thể và là phương tiện kiểm
soát quyền lực nhà nước theo đúng nghĩa.
Việc bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các bộ, cơ
quan ngang bộ, chính quyền địa phương và các tập đoàn kinh tế nhà nước
của viện kiểm sát nhân dân để chuyển cho các cơ quan dân cử và cơ quan
thanh tra, kiểm tra trong bộ máy hành pháp sau khi sửa đổi Hiến pháp năm

1992 vào năm 2001 dường như đã làm cho việc kiểm soát quyền lực nhà
nước không được tăng cường, nhiều biểu hiện tiêu cực, tham nhũng phát
hiện và xử lý chậm, không kịp thời.
Đối với nội bộ Đảng, hệ thống ủy ban kiểm tra thực chất cũng làm
nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc kiểm tra các cán bộ,
đảng viên trong bộ máy nhà nước. Nhưng ủy ban kiểm tra của các tổ chức
đảng lại chỉ hoạt động khi có khiếu nại, tố cáo, nên thiếu chủ động và khơng
mang tính tồn diện của kiểm sốt quyền lực nhà nước.
Các phương tiện thơng tin đại chúng có vai trị quan trọng trong việc góp
phần kiểm sốt quyền lực nhà nước, nhưng chưa được phát huy một cách đầy đủ.
4. Một số giải pháp hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà
nước ở Việt Nam hiện nay
Một là, cần xác định rõ hơn cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền
lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền

17


lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của mỗi quyền. Bảo đảm cho mơ hình tổ chức cơng quyền trong
Nhà nước pháp quyền có sự phân cấp, phân quyền của các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Đồng thời, quy định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc
thực hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp chính quyền và phân định rõ thẩm
quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương
và của mỗi cấp chính quyền địa phương.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thể hiện đúng
ý chí, lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, thực sự bảo vệ và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân; phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan truyền thông trong việc giám sát cán

bộ, công chức và các cơ quan nhà nước ngay từ khâu hoạch định đến triển khai
thực hiện chiến lược phát triển đất nước, bảo đảm các chiến lược đều xuất phát
từ nhu cầu, lợi ích của nhân dân. Bảo đảm việc lấy phiếu tín nhiệm của nhân
dân thơng qua các cơ quan đại diện của mình đối với Chính phủ và những
cương vị chủ chốt trong bộ máy nhà nước, các chức danh do Quốc hội, Hội
đồng Nhân dân các cấp bầu và phê chuẩn thực sự chặt chẽ, dân chủ, khách
quan, công tâm, thực chất, không hình thức, duy tình.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết
số 04-NQ/TW (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, làm cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là các cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trong bộ
máy nhà nước phải thật sự gương mẫu, luôn nêu cao đức cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư; tự giác rèn luyện, học tập, tu dưỡng để nâng cao bản
lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, trình độ chun mơn; tự giác đấu tranh đẩy
lùi những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến, tự chuyển
hóa”; kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, lãng phí, tham nhũng, lợi dụng

18


chức quyền thu vén cá nhân; có phong cách sống gần dân, hiểu dân, thật sự là
công bộc của nhân dân.
Bốn là, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy
tín, ngang tầm nhiệm vụ thời kỳ mới; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu
phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục
đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; lựa
chọn, bố trí những cán bộ, đảng viên có đức, có tài, thực sự vì Đảng, vì dân vào
làm việc trong bộ máy nhà nước. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo cơ

chế, môi trường, điều kiện để khuyến khích đổi mới, sáng tạo phục vụ phát
triển và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Tiếp
tục tăng cường kiểm soát chặt chẽ việc thực thi quyền lực đối với cán bộ công
chức, viên chức trong bộ máy nhà nước. Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ
chức, cá nhân lạm dụng, lợi dụng quyền lực để vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, vi phạm quyền và lợi ích của nhân dân.
Năm là, tiếp tục tận dụng thế mạnh của các kênh và hình thức thông tin
đa dạng, phong phú nhằm đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền đối nội
và đối ngoại về quan điểm, chính sách và thành tựu đã đạt được trong đấu
tranh phịng, chống tham nhũng, tiêu cực, tha hóa quyền lực ở Việt Nam nhằm
mục tiêu bảo đảm cho quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. Qua đó, làm cho
các tầng lớp nhân dân, cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng
quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong việc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thực thi quyền lực nhà nước; góp
phần đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu vu cáo, xuyên tạc vấn đề này đối
với nước ta.

19


KẾT LUẬN
Kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta là một vấn đề mới. Do đó,
xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, một mặt, bảo đảm phịng,
chống sự lạm dụng quyền lực nhà nước có hiệu lực, hiệu quả; mặt khác, bảo
đảm tính năng động, sáng tạo, mềm dẻo cần phải có để tiến hành các công
việc nhà nước.
Theo kinh nghiệm tổ chức quyền lực nhà nước ở các nhà nước đương
đại, kiểm soát quyền lực nhà nước là yếu tố thể hiện tính pháp quyền và dân
chủ của một bộ máy nhà nước, là nhân tố góp phần làm nên sự giàu có của
một quốc gia. Với vai trò to lớn như vậy, việc kiểm soát quyền lực nhà nước

bên trong tổ chức quyền lực nhà nước là một nội dung quan trọng không thể
thiếu trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Tiếp tục phân
cơng, phân nhiệm một cách rạch rịi, hợp lý, khoa học nhiệm vụ và quyền hạn
của mỗi quyền, tăng cường kiểm soát lẫn nhau trong thực thi quyền lực nhà
nước giữa các quyền và phối hợp chặt chẽ giữa ba quyền trên cơ sở nhiệm vụ
quyền hạn được giao, là một công việc phải được tiến hành thường xun
trong q trình xây dựng và hồn thiện bộ máy nhà nước.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình cao cấp Lý luận
chính trị, Nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội,
2018.
3. Luật Tổ chức Quốc Hội 2014.
4. X.Y.Z: Sửa đổi lối làm việc, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1947.
5. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn phịng Trung ương
Đảng, Hà Nội, 2016.6. Hội đồng dân tộc của Quốc hội khóa X (2005),
Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước về dân tộc, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.

21



×