Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

QUÁ TRÌNH đổi mới ĐỒNG bộ GIỮA KINH tế và CHÍNH TRỊ ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.01 KB, 19 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN TRIẾT HỌC


BÀI THU HOẠCH
MƠN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

Q TRÌNH ĐỔI MỚI ĐỒNG BỘ
GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY

Học viên:
Mã số học viên: ................................
Lớp: Hoàn chỉnh CCLLCT


HÀ NỘI - 2019


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Lý do chọn vấn đề nghiên cứu..........................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu.........................................................................................1
3. Kết cấu của bài thu hoạch..................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa kinh tế và chính trị....2
2. Đặc điểm và thực trạng mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị ở Việt Nam
hiện nay.................................................................................................................6
3. Những định hướng đổi mới và nâng cao mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị......9
KẾT LUẬN.........................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................16




MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn vấn đề nghiên cứu
Trong triết học Mác - Lênin, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một
trong những nội dung được quan tâm nhiều nhất. Mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị thường được biểu hiện trong đời sống xã hội, trong đường lối chính
sách của các Đảng cộng sản. Nó là cơ sở phương pháp luận để người lãnh đạo
chỉ đạo cách mạng. Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin ra đời năm 1921 như
một cẩm nang làm cho nước Nga thốt khỏi tình hình “Ngàn cân treo sợ tóc”, là
đường lối chiến lược và sách lược để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga.
Mặc dù ra đời cách đây gần 100 năm, nhưng những tư tưởng nhất là tư tưởng về
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị vẫn cịn ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới
của nước ta hiện nay.
Mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị ln ln là vấn đề quan trọng nhất
của các cuộc cải cách và phỏt triển. Xử lý mối quan hệ này như thế nào là thước
đo tầm vóc của đảng cầm quyền về đối nội cũng như đối ngoại. Lịch sử cho thấy
mối quan hệ kinh tế với chính trị trong cải cách phụ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế, xã hội, văn hố, chính trị trong nước và chịu tác động ngày càng tăng
của những biến đổi trên thế giới nhất là ở giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Bài thu hoạch nghiên cứu kỹ hơn các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, từ đó đề xuất một số định hướng
nhằm đổi mới và nâng cao mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị ở Việt Nam
hiện nay.
3. Kết cấu của bài thu hoạch
Ngoài phần mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, bài thu
hoạch được kết cấu thành 3 phần:
1) Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
2) Đặc điểm và thực trạng mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị ở Việt
Nam hiện nay.

3) Những định hướng đổi mới và nâng cao mối quan hệ giữa kinh tế với
chính trị.
1


NỘI DUNG
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa kinh tế và
chính trị
Theo quan điểm của Mác và Ăngghen, hai ông coi quan hệ giữa kinh tế và
chính trị là biểu hiện tập trung nhất của quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc
thượng tầng. Trong đó, cơ sở hạ tầng - kinh tế giữ vai trò quyết định. Đồng thời,
kiến trúc thượng tầng - chính trị cũng có tính độc lập tương đối, tác động trở lại
cơ sở hạ tầng. Phát triển quan điểm trên, Lênin đã khái quát bản chất mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị như sau: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh
tế”; “Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại”. Sự khẳng định này có nghĩa,
chính trị ra đời từ kinh tế, do kinh tế quyết định; chính trị là sự phản ánh, là tính
thứ hai so với kinh tế. Chính trị phải được xây dựng trên cơ sở kinh tế, khơng
được thốt ly những đặc trưng và những nhiệm vụ kinh tế của xã hội. Khi cơ sở
kinh tế biến đổi, chính trị phải biến đổi theo để phản ánh đúng cơ sở kinh tế, phù
hợp với kinh tế để tạo được môi trường tốt nhất cho kinh tế phát triển theo đúng
quy luật khách quan.
Đồng thời với việc thừa nhận tính thứ nhất của kinh tế, Lênin cũng cho
rằng, “chính trị khơng thể chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”. Khẳng định đó
của Lênin đã nhấn mạnh tính độc lập tương đối và vai trị tác động trở lại rất tích
cực của chính trị đối với kinh tế. Sự tác động của chính trị đối với kinh tế thông
qua sức mạnh của các thể chế của hệ thống chính trị, đặc biệt là của nhà nước
được thể hiện ở chỗ nếu một nền chính trị đúng đắn khoa học, phù hợp với cơ sở
kinh tế của xã hội hiện tại thì nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển,
và vì thế, nó sẽ góp phần to lớn vào tăng trưởng kinh tế, giải phóng sức sản xuất,
làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Ngược lại, nếu chính trị sai lầm, trì trệ,

không khoa học, không phù hợp với các thực tiễn kinh tế thì nó sẽ là lực lượng
kìm hãm sự phát triển kinh tế, thậm chí đẩy kinh tế vào khủng hoảng, và hậu quả
đi kèm tất yếu là mất ổn định chính trị - xã hội.

2


Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ giữa kinh tế với
quyền lực chính trị. Nói cách khác, là mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước với
kinh tế hướng tới sự phát triển kinh tế, nhằm bảo vệ chế độ chính trị và lợi ích
của giai cấp cầm quyền. Giải quyết quan hệ chính trị với kinh tế trực tiếp quyết
định tới mục tiêu của sự phát triển xã hội, phát triển kinh tế. Hơn nữa, nó cịn
quan hệ tới việc định hướng cho sự phát triển kinh tế, bởi giải quyết quan hệ này
trên quan điểm lý tưởng nào? Vì ai? Do đó, từ góc độ quan hệ với kinh tế, vấn
đề chính trị thực chất là vấn đề định hướng, tạo động lực cho phát triển kinh tế.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp, nhóm xã hội nào nắm được quyền lực
chính trị là nắm được cơng cụ cơ bản, trọng yếu để giải quyết quan hệ lợi ích với
giai cấp, nhóm xã hội khác theo hướng có lợi cho giai cấp mình, nhóm mình. Vì
vậy, tác động của chính trị đến kinh tế thể hiện tập trung ở sự tác động của
quyền lực chính trị (biểu hiện tập trung quyền lực nhà nước) đối với kinh tế. Về
cơ bản, sự tác động đó thể hiện trên ba phương diện: cương lĩnh, đường lối
chính trị với chính sách kinh tế; tổ chức, thiết chế chính trị với kinh tế; con
người, chủ thể chính trị với kinh tế.
Về bản chất, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị được thể hiện trên
những nội dung sau:
+ Kinh tế là nhân tố suy cho cùng quyết định chính trị.
Theo Lênin, chính trị xét trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức,
là một trong những hình thức biểu hiện của kinh tế, nhưng là hình thức biểu
hiện tập trung nhất, cơ đọng nhất. Nội dung quyết định hình thức, nền kinh tế,
suy cho cùng là nhân tố quyết định chính trị. Nghĩa là, kinh tế làm nảy sinh

chính trị, cơng cụ, phương tiện để thỏa mãn nhu cầu, mục đích chính trị. Tương
ứng với một trình độ phát triển nhất định về kinh tế là một trình độ phát triển
nhất định về chính trị. Cơ sở kinh tế như thế nào thì cơ cấu thể chế chính trị
tương ứng như thế ấy. Sự biến đổi, phát triển kinh tế là nguồn gốc sâu xa của
mọi sự biến đổi về xã hội và đảo lộn về chính trị. Do đó, khi giải thích mọi sự
biến đổi về chính trị, cần phải xuất phát từ căn ngun kinh tế. Ngược lại,
chính trị khơng ngồi mục đích là hướng vào sự phát triển của kinh tế. Kinh tế
3


là gốc của chính trị, là thước đo tính hợp lý của chính trị. Kinh tế phát triển thì
chính trị tiến bộ. Ngược lại, kinh tế khủng hoảng, chính trị cũng sẽ ảnh hưởng
thậm chí có thể bị khủng hoảng theo. Do đó, ở bất kỳ thời đại nào, chính trị
nếu không hướng vào việc giải quyết thỏa đáng các quan hệ lợi ích nhằm phát
triển kinh tế thì sẽ khơng có cơ sở để tồn tại, sớm muộn cũng phải thay thế bởi
một chính trị mới tiến bộ hơn, phù hợp hơn. Chính trị chủ yếu là xây dựng nhà
nước về mặt kinh tế.
Trong đường lối, chính sách của đảng cầm quyền tác động vào quá trình
phát triển kinh tế – xã hội thì tính đúng đắn của đường lối, chính sách kinh tế
giữ vai trị quyết định. Đảng Cộng sản Việt Nam đã bắt đầu sự nghiệp đổi mới
dựa trên cơ sở đó, đổi mới tư duy lý luận về kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, từng bước đổi mới chính trị phù hợp với u cầu phát triển kinh tế.
+ Chính trị có tính độc lập tương đối và tác động trở lại đối với kinh tế.
Chủ nghĩa Mác – Lênin không phủ nhận vai trò quyết định suy đến cùng
của kinh tế, song cũng khơng có nghĩa là chỉ kinh tế là ngun nhân duy nhất
chủ động còn các yếu tố xã hội khác đóng vai trị thụ động: “Vấn đề hồn tồn
khơng phải là chỉ có hồn cảnh kinh tế mới là ngun nhân, chỉ có nó là tích
cực, cịn tất cả những cái còn lại đều chỉ là hậu quả thụ động”. Trong tất cả sự
tác động trở lại của các nhân tố xã hội khác đối với kinh tế thì sự tác động trở lại
của chính trị giữ vị trí quan trọng hành đầu, thể hiện cụ thể là:

Thắng lợi của cách mạng chính trị là tiền đề, điều kiện tiên quyết cho
những biến đổi về chất và phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Điều này hoàn
toàn rõ ràng đối với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân và
nhân dân lao động muốn giải phóng mình ra khỏi sự bóc lột và tha hóa bởi quan
hệ tư sản và tiền tư sản, trước hết phải giành được quyền lực chính trị – quyền
lực nhà nước. Có như thế, họ mới có tiền đề cải tạo quan hệ kinh tế – biến mình
thành chủ sở hữu các tư liệu sản xuất cơ bản. Sẽ không có sự biến đổi và phát
triển nào của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nếu như giai cấp vô sản chưa giành
được chính quyền nhà nước – điều kiện tiên quyết để thành lập nền tảng kinh tế
mới dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
4


Với tính độc lập tương đối, chính trị tác động trở lại kinh tế theo nhiều
hướng khác nhau, thúc đẩy hoặc kìm hãm, hoặc vừa thúc đẩy vừa kìm hãm. Tác
động ngược lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế có thể có ba
loại: có thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế, có thể cản trở sự phát triển
kinh tế hoặc thúc đẩy sự phát triển ở chiều hướng khác. Vì thế, muốn kinh tế
phát triển đồng thuận với sự tác động của chính trị thì phải quan tâm tới ba
phương diện: cương lĩnh, đường lối chính trị kinh tế; tổ chức, thiết chế chính trị
với kinh tế; con người, chủ thể chính trị với kinh tế. Bằng sự nhận thức khoa học
những xu hướng và quy luật kinh tế khách quan, chính trị có thể vận dụng tổng
hợp một số quy luật, điều kiện để tăng cường tác động của quy luật này, hạn chế
hậu quả của quy luật khác, nhằm đưa nền kinh tế phát triển đúng quỹ đạo khách
quan, đồng thời phù hợp với lợi ích của chủ thể chính trị. Trên thực tế, khơng có
đường lối chính trị đúng đắn thì khơng một giai cấp nào có thể giữ vững được sự
thống nhất chính trị của mình, và do đó, cũng khơng có khả năng lãnh đạo kinh
tế. Hơn nữa, nếu thiếu quan điểm chính trị đúng đắn trong việc giải quyết các
vấn đề kinh tế thì có thể sản xuất vẫn phát triển, kinh tế vẫn tăng trưởng, thậm
chí với tốc độ cao, nhưng trung tâm quyền lực chính trị khơng cịn nằm trong tay

giai cấp thống trị đương thời. Muốn có đường lối chính trị đúng đắn, cần thiết
phải có một thiết chế chính trị và các chủ thể chính trị phù hợp, bảo đảm hiện
thực hóa có kết quả đường lối phát triển kinh tế.
Chính trị đóng vai trị định hướng và tạo mơi trường chính trị – xã hội ổn
định bảo đảm cho sự phát triển kinh tế. Sự định hướng chính trị cho sự phát triển
kinh tế thể hiện trên tất cả các khâu của quá trình phát triển kinh tế như: xây
dựng đường lối phát triển kinh tế, định hướng quá trình tổ chức thể chế hóa
đường lối, quản lý q trình phát triển kinh tế và định hướng xã hội phát triển
kinh tế để khơng có sự hy sinh cái này cho cái kia, và để lợi ích giai cấp thống
trị khơng bị vi phạm. Hơn nữa, trong điều kiện tồn cầu hóa đời sống kinh tế, sự
ổn định chính trị là điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động đầu tư, kinh doanh và
phát triển kinh tế.

5


Chính trị khơng chỉ lãnh đạo kinh tế mà cịn tham gia kiểm soát chặt chẽ
các vấn đề cơ bản, then chốt của kinh tế như: ngân sách, vốn, hoạt động tài
chính, tiền tệ, chính sách kinh tế đối ngoại… Sự lãnh đạo của chính trị đối với
kinh tế khơng chỉ định hướng, tạo sự ổn định cho phát triển kinh tế mà còn tham
gia quản lý nền kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Việc kiểm soát chặt chẽ nội dung hoạt động
của kinh tế góp phần nâng cao tính năng động của nền kinh tế và qua đó thực
hiện sự thẩm định tính đúng đắn của đường lối phát triển kinh tế.
Trong các mối quan hệ xã hội, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là
quan trọng nhất, đồng thời cũng nhạy cảm và phức tạp nhất. Để giải quyết tốt
mối quan hệ này cần phải tránh hai quan điểm sai lầm: một là, tuyệt đối hóa kinh
tế; hai là, tuyệt đối hóa chính trị. Nếu theo khuynh hướng thứ nhất, nền kinh tế
sẽ phát triển một cách tự phát, vơ chính phủ. Nếu theo khuynh hướng thứ hai,
nền kinh tế sẽ phát triển theo hướng áp đặt, không theo quy luật khách quan.

Nếu đồng nhất chính trị với kinh tế sẽ làm chính trị trở nên cứng nhắc, giáo điều.
Thực chất sự tác động của chính trị đối với kinh tế là tạo ra mơi trường xã
hội ổn định, giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và định
hướng phát triển. Sự phát triển xã hội đòi hỏi phải có sự ưu tiên của chính trị đối
với kinh tế, phải có giải pháp chính trị để phát triển kinh tế. Kinh tế càng phát
triển thì chính trị càng phải mở rộng, đổi mới, tạo tiền đề tiên quyết thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
2. Đặc điểm và thực trạng mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị ở
Việt Nam hiện nay
Từ khi nước ta chuyển sang kinh tế thị trường và tiếp tục đổi mới trong 30
năm qua, mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị ngày càng thể hiện tầm quan
trọng của nó trong những thành tựu đổi mới cũng như trong những sai lầm,
khuyết điểm đó vấp phải. Vì vậy, để chủ động giải quyết mối quan hệ này có
hiệu quả cả về kinh tế và chính trị, cần thiết nhận từ những đặc điểm của mối
quan hệ này.
6


Trước hết, mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị là mối quan hệ giữa
khách quan với chủ quan.
Như chúng ta đã biết, mỗi hình thái kinh tế vận động phát triển dưới hình
thức một phương thức sản xuất nhất định, bao gồm lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất tương ứng. Lực lượng sản xuất trong kinh tế thị trường dựa trên nền
tảng cơ sở kỹ thuật nhất định do đòi hỏi của cạnh tranh. Ngày nay, sự phát triển
của lực lượng sản xuất nhờ những tiến bộ và cách mạng khoa học và công nghệ,
nhờ sự phù hợp của thể chế kinh tế và quản lý. C.Mác coi đó là "q trình lịch
sử - tự nhiên". Những thời kỳ phồn vinh hay suy thoái kinh tế đều có chung
nguồn gốc từ mối quan hệ giữa yêu cầu của lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất và thể chế quản lý. Đó là mối quan hệ giữa khách quan (kinh tế) với chủ
quan (chính trị) thể hiện trong suốt tiến trình đổi mới vừa qua.

Trong những năm thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP) Lênin đó rút
ra nguyên lý về mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị: "Chính trị là biểu hiện
tập trung của kinh tế. Chính trị khơng thể khơng chiếm địa vị hàng đầu so với
kinh tế".
Nguyên lý đó chỉ ra rằng: đường lối chính sách phải phản ánh được nhu
cầu và quy luật kinh tế. Chỉ trong điều kiện đó, chính trị mới lãnh đạo, quản lý
kinh tế có hiệu quả, mới giữ được vai trị chính trị. Thực tiễn những thời kỳ sau
này đó xác nhận tính đúng đắn của nguyên lý ấy biểu hiện ở những thất bại của
các đảng cầm quyền rơi vào chủ quan duy ý chí trong lãnh đạo và quản lý kinh
tế - xã hội.
Hai là, mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị cũng là mối quan hệ giữa xã
hội với chính trị.
Quá trình phát triển kinh tế thị trường tác động đến phát triển xã hội từ hai
mặt: Thứ nhất, sự phát triển phân công lao động xã hội dần dần làm thay đổi cơ
cấu xã hội dân cư. Xã hội Việt Nam sau 30 năm chuyển sang kinh tế thị trường
đó khác xã hội trước đổi mới về phân tầng xã hội và cơ cấu xã hội dân cư. Sự
biến đổi này sẽ dẫn đến những thay đổi về yêu cầu việc làm và hưởng thụ, về
7


nhân sinh quan, thế giới quan của xã hội, trước hết là thế hệ trẻ. Thứ hai, sự phát
triển kinh tế sẽ dần dần làm thay đổi nhu cầu của dân cư về cơ cấu và chất lượng
sản phẩm. Do đó làm thay đổi mức sống và lối sống của dân cư, sự phát triển xó
hội và cá nhân. Như vậy, sự phát triển kinh tế thị trường nảy sinh những địi hỏi
mới về mặt xã hội mà chính trị phải giải quyết.
Do phân công lao động phát triển, nên xã hội dần dần được tổ chức thành
các Hội nghề nghiệp, đại biểu cho lợi ích và nguyện vọng của hội viên. Đó là xã
hội dân sự, đóng góp ngày càng tăng cho phát triển kinh tế và ổn định xã hội... ở
các nước phát triển kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa chính trị và xã hội thể
hiện ở mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Đó là một

trong ba trụ cột của nền dân chủ.
Như vậy, mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị cịn bao gồm cả mối quan
hệ xã hội với chính trị. Nếu chỉ quan tõm chạy theo tăng trưởng kinh tế một
chiều, không đồng hành với phát triển xã hội thì chính trị sẽ kìm hãm phát triển
kinh tế và tạo ra nguy cơ mất ổn định xã hội.
Ba là, mối quan hệ giữa văn hoá với chính trị - một khía cạnh ở chiều sâu
của mối quan hệ kinh tế với chính trị.
Kinh tế thị trường phát triển theo một q trình xó hội hóa từ thấp lên cao.
Vì vậy, sự phát triển kinh tế thị trường ln gắn liền với sự hình thành và phát
triển nền văn hoá mới. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ở giai đoạn đầu gắn
liền với thời kỳ Văn hố Phục hưng. Q trình phát triển sau này của kinh tế gắn
liền với các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, phát triển giáo dục, văn
học nghệ thuật. ở đâu khơng có những thành tựu về phát triển văn hố thì ở đó
chỉ là những thị trường hoang dại, đầy rẫy lừa đảo và tham nhũng, quan liêu.
Sự phát triển văn hoá trong kinh tế thị trường hiện đại cịn thể hiện ở hệ
thống tiêu chí chất lượng trong cạnh tranh thị trường, làm cơ sở cho thể chế
minh bạch, công khai và kiềm kê, kiểm soát các quan hệ kinh tế giữa các chủ
thể, giữa nhà nước với doanh nghiệp và người dân.

8


Bước vào thế kỷ XXI, văn hố ngày càng có ảnh hưởng nổi trội đối với
phát triển và chính trị, thể hiện ngày càng nhiều trong các tiêu chí quy định sức
cạnh tranh của doanh nghiệp và quốc gia. Nét mới của tác động văn hố khơng
chỉ ở trình độ phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn học và
nghệ thuật mà còn ở sự phát triển hài hoà "mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa con người với tự nhiên". Chỉ khi "mối quan hệ kép" đó phát triển
đồng thời, thì bộ mặt Người của xã hội và cá nhân mới hiện lên đầy đủ. Với
những bước phát triển kinh tế tri thức, xu hướng tác động của văn hố nói trên

ngày càng hiện thực thông qua sự phát triển cạnh tranh kinh tế và đấu tranh
chính trị. Chỉ sự phát triển đó mới có tính chất bền vững. Sự phát triển như vậy
bắt đầu từ mỗi cá nhân trong xã hội. Chính phát hiện xu hướng này mà C.Mác
đã dự báo xã hội tương lai là "xã hội mà sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển của mọi người".
Xu hướng văn hoá ấy đang trở thành một sức ép lớn và ngày càng tăng
trong cạnh tranh kinh tế (phải hướng tới nền "kinh tế xanh" (green economy) và
trong chính trị (hướng tới một nền chính trị nhân văn). Sức mạnh văn hố này
đang là một địi hỏi cơng bằng có tính chất tồn cầu do những tệ nạn về xã hội
và tàn phá môi trường đến mức độ nguy hiểm cho cả loài người.
Sự phát triển của Việt Nam hiện nay cũng không thể ra ngồi xu hướng
chủ đạo nói trên về kinh tế và chính trị. Sau hai thập kỷ cần thiết phải coi trọng
tăng trưởng về số lượng, nay đó đến lúc phải thay đổi định hướng cụ thể với
mơ hình phát triển bền vững. Trước thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, cái cần
nhất cho Việt Nam là một môi trường văn hoá nhân văn trong quan hệ kinh tế
và chính trị, trong mỗi người dân và người lãnh đạo để sử dụng vốn đầu tư và
nguồn nhân lực theo hướng phát triển bền vững. Đó là hiện thực hố định
hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Những định hướng đổi mới và nâng cao mối quan hệ giữa kinh tế
với chính trị
Một là, tăng cường lãnh đạo chính trị đảm bảo định hướng XHCN trong
quá trình hội nhập.
9


Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với các hoạt động hội
nhập kinh tế là một phương hướng mang tính chiến lược, lâu dài, có ý nghĩa
quyết định, đảm bảo hội nhập đúng hướng và thành công. Tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là đảm bảo định hướng XHCN
trong hội nhập kinh tế quốc tế. Để củng cố, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,

của Nhà nước đối với các hoạt động hội nhập thì cần phải coi hội nhập là một
trong những lĩnh vực then chốt trong hoạt động của các tổ chức Đảng, chính
quyền ở mọi cấp. Từ đó xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể chỉ đạo thống
nhất từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ,
ngành trong việc hoạch định chủ trương, chính sách, biện pháp và thực hiện các
mục tiêu đã đề ra. Điều quan trọng là phải duy trì được sự ồn định chính trị xã
hội trong nước để tập trung sức cho phát triển kinh tế và hột nhập có hiệu quả.
Giữ vững ấn định chính trị xã hội trong nước tạo điều kiện để các nhà đầu
tư nước ngoài an tâm bỏ vốn vào làm ăn lâu dài ở nước ta, đồng thời cho phép
Đảng, Nhà nước và cơ quan chính quyền các cấp rảnh tay, tập trưng trí tuệ, sức
lực để lãnh đạo kinh tế và các hoạt động hội nhập. Đảm bảo định hướng XHCN
trong hội nhập cũng có nghĩa là quán triệt sâu sắc và tuân thủ nghiêm ngặt một
nguyên tắc chỉ đạo cơ bản là: hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của tồn dân,
trong q trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành
phần kinh tế, của tồn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Thành phần kinh tế nhà nước là một trong những nhân tố quan trọng nhất đảm
bảo cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta giữ được định hướng
XHCN. Quá trình hình thành và lãnh đạo thực hiện chiến lược đổi mới toàn diện
đất nước của Đảng ta cho thấy, một trong những phương hướng đổi mới cơ bản
của Đảng ta về vấn đề quan hệ sản xuất là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần dựa trên chế độ sở hữu đa dạng, vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong nền kinh tế đa thành
phần như vậy, mỗi thành phần kinh tế đều có một vị trị vai trò nhất định đối với
việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước, thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Tuy nhiên, khi khẳng định và triển khai xây dựng một nền kinh
10


tế đa thành phần ở nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước ta không coi mọi thành
phần kinh tế đều có vị trí và vai trị ngang nhau trong nền kinh tế quốc dân.

Thừa nhận rằng mỗi thành phần kinh tế trong nền kinh tế đa thành phần ở nước
ta đều có vị trí, vai trị tích cực nhất định, song Đảng ta khẳng định thành phần
kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, đầu tàu, đồng thời kinh tế nhà nước
kết hợp với kinh tế tập thể phải trở thành nền tảng, cột trụ của nền kinh tế quốc
gia. Đây chính là nhân tố thể hiện tính định hướng XHCN của nền kinh tế nước
ta trong thời kỳ quá độ. Nếu kinh tế nhà nước không đảm bảo được vai trị chủ
đạo của mình trong nền kinh tế quá độ đa thành phần này thì sẽ ảnh hưởng
khơng những tới tính chất của nền kinh tế quá độ lên CNXH mà còn tạo ra nguy
cơ đi chệch hướng, không thực hiện được mục tiêu chiến lược là đi lên CNXH.
Bởi vì, nền tảng kinh tế của CNXH, sức mạnh kinh tế của CNXH chích là kinh
tế nhà nước kết hợp với kinh tế tập thể.
Do vậy, việc duy trì vai trị chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong
nền kinh tế nhiều thành phần ở thời kỳ quá độ hiện nay không chỉ đảm bảo đi
đúng hướng mà còn dần thiết lập, củng cố sức mạnh kinh tế của chế độ xã hội
mới - xã hội XHCN. Tương tự như vậy, phát huy vai trò đầu tàu, chủ đạo của
kinh tế nhà nước kết hợp với kinh tế tập thể trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay của nước ta là nhân tố quan trọng nhất đảm bảo định hướng
XHCN của q trình hội nhập. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần giữ vững nguyên
tắc: hợp tác, hội nhập phải đảm bảo lợi ích dân tộc chân chính, lợi ích của
CNXH.
Tổ chức Đảng các cấp, từ Trung ương tới địa phương cần thường xuyên
quan tâm chỉ đạo công tác hội nhập kinh tế quốc tế, định hướng để các hoạt
động hội nhập vì lợi ích dân tộc, phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất nước theo
định hướng XHCN. Chính phủ cần xây dựng chiến lược, lộ trình cụ thể về hội
nhập kinh tế quốc tế và tổ chức bộ máy hữu hiệu để triển khai hoạt động hội
nhập. Quốc hội có chương trình xây dựng và điều chỉnh luật pháp vừa bảo đảm
định hướng XHCN của ta vừa phù hợp với thông lệ quốc tế. Các cơ quan nhà
nước, các đoàn thể quần chúng, các địa phương, các doanh nghiệp có chương
11



trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện các nghị quyết của Đảng, tạo thành sức mạnh
tổng hợp bảo đảm thực hiện nghiêm túc những nguyên tắc mục tiêu hội nhập
kinh tế quốc tế. Tăng cường.g sự gắn kết, phối hợp đồng bộ giữa các bộ, các
ngành, các địa phương, gắt kết các ban của Đảng với các cơ quan Nhà nước, các
đoàn thể quần chúng, dưới sự Lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo sát sao của
Chính phủ về các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong triển khai thực hiện
mục tiêu, nguyên tắc hội nhập thì sự lãnh đạo của Đảng và tổ chức thực hiện của
Chính phủ có ý nghĩa quyết định, sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành các cấp
đóng vai trị then chốt. Sự tham gia của các cơ quan Quốc hội, các ban của Đảng
sẽ góp phần tăng cường sự chỉ đạo, giám sát việc hội nhập ở tầm vĩ mơ.
Hai là, tiếp tục đổi mới tư duy chính trị phù hợp với tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Như trên đã phân tích, những thành cơng và tồn tại, cũng như những vấn
đề đã và đang nảy sinh liên quan đến vai trị của chính trị trong q trình triển
khai hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đều gắn với tư duy, nhận thức của
Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền, các doanh nghiệp và tồn thể xã hội. Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương rất đúng đắn, kịp thời của Đảng,
Nhà nước ta. Nước ta không thể CNH - HĐH, không thể thốt cảnh nghèo nàn
lạc hậu nếu đứng ngồi, biệt lập với thế giới. Cùng với ý thức về tính tất yếu
khách quan phải hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cũng cần nhận thức đầy đủ
những thời cơ và nguy cơ, thách thức sẽ nảy sinh trong quá trình tham gia hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay, từ đó có chính sách, hành động thích hợp kịp thời
phát huy lợi thế tận dụng thời cơ, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ thách thức. Hội
nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới tạo điều kiện cho ta tranh thủ ngoại
lực, khai thác nhiều loại tiềm năng thông qua hợp tác đa dạng với thế giới nhằm
phát huy những lợi thế của ta, thu hút đầu tư nước ngồi, tranh thủ những cơng
nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh tiên tiến của thế giới để
đầy mạnh CNH - HĐH, để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện để

bảo đảm an ninh quốc gia. An ninh kinh tế có ý nghĩa quyết định, đặc biệt quan
12


trọng đối với việc bảo vệ an ninh chủ quyền quốc gia và độc lặp dân tộc. Kinh tế
vững mạnh là tiền đề vật chết hàng đầu cần có cho ổn định chính trị trong
nước…
Ba là, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ làm cơ sở cho sự chủ động hội
nhập quốc tế.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm,
đường lối chính trì của một quốc gia, mà cịn là địi hỏi của thực tiễn phát triển.
Có giữ được độc lập tự chủ, mới duy trì được phát triển bền vững và có hiệu quả
cho chính ngay nền kinh tế trong mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Và để đảm
bảo độc lập tự chủ về chính trị, thì phải xây dựng được nền kinh tế độc lập tự
chủ. Đây là bài học kinh nghiệm thực tế không chỉ của riêng nước ta mà cịn của
khơng ít quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Hơn thế, giờ đây nước ta phát
triển kinh tế để đi lên CNXH trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp,
các lực lượng chống phá CNXH thường xuyên tìm cách ngăn cản và phá hoại sự
nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Nếu không tạo dựng được một nền kinh tế
độc lập tự chủ, thì rất dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực xấu, thù địch lợi dụng vấn đề
kinh tế để lôi kéo, hoặc khống chế, ép buộc chúng ta phải thay đổi chế độ chính
trị. đi chệch quỹ đạo của CNXH. Nói cách khác, có xây dựng được nền kinh tế
độc lập tự chủ thì mới tạo được cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chế
độ chính trị độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất để bảo
đảm cho sự độc lập tự chủ bền vững về chính trị. Khơng thể có độc lập tự chủ về
chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Độc lập tự chủ về kinh tế là cơ sở cho độc
lập tự chủ về các mặt khác, làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của một
quốc gia. Bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là bảo đảm vững
chắc định hướng XHCN và giữ vững những giá trị truyền thống, bản sắc văn
hố dân tộc trong cơng cuộc phát triển kinh tế, tiến hành cơng nghiệp hố, hiện

đại hố đất nước. Khơng phải chờ đến khi đạt trình độ phát triển cao mới đặt vấn
đề giữ vững độc lập tự chủ, mà ngay từ đầu, ngay bây giờ đã phải bảo đảm yêu
cầu cơ bản về độc lập tự chủ. trước hết là về đường lối chính trị, các nguyên tắc
cơ bản về phát triển kinh tế. Đương nhiên, xây dựng kinh tế độc lập tự chủ là
13


một quá trình lâu dài. đi từ thấp đến cao, ngày càng hoàn chỉnh, ngày càng bền
vững hơn.
Bốn là, nâng cao năng lực, tính chủ động, sáng tạo, tinh thần tự chịu trách
nhiệm của các địa phương, các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng đối với tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế nói chung và việc nâng cao khả năng cạnh tranh của bản thân các doanh
nghiệp nói riêng. Do đó. cần phải tiếp tục tăng cường cải cách, đổi mới một cách
toàn diện các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính tự chủ, hiệu quả
và khả nàng cạnh tranh. Cùng với đó, tăng cường vai trị, tinh chủ động, quyền
tự chủ của chính quyền địa phương trong việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư, xây
dựng cơ cấu ngành kinh tế phù hợp với đặc thù, thế mạnh của địa phương mình.
Giao cho địa phương quyền và trách nhiệm nhiều hơn nữa trong thu hút, quản lý
các nguồn đầu tư trong và ngoài nước. Điều cần lưu ý khi thực hiện giải pháp
này là Nhà nước phải xác lập một cơ chế quan hệ giữa Trung ương và địa
phương làm sao để chính sách, văn bản, quy định của địa phương, của các cơ sở
sản xuất kinh doanh khơng đi ngược lại chủ trương, đường lối, chính sách chung
của Trung ương, đồng thời không được mâu thuẫn với những cam kết của chính
phủ Việt Nam với các nước khác và các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành
viên. Điều này có nghĩa, tăng cường quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm cho
địa phương và cơ sở trên ngun tắc khơng để xảy ra tình trạng "trống đánh
xuôi, kèn thổi ngược".

14



KẾT LUẬN
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, kinh tế vẫn luôn đóng vai trị quyết định đối với chính trị và các quan hệ
xã hội khác. Song, chính trị có vị trí và vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế. Nhưng chính trị phải phản ánh trên cơ sở tính tất yếu kinh tế
mới có tác dụng tích cực đối với q trình phát triển kinh tế, xã hội.
Ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã tiến hành đường lối
đổi mới, chủ trương thực hiện một nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Chủ
trương đó phản ánh đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở nước ta
hiện nay. Đó là sự lựa chọn hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội đất
nước và xu hướng của thời đại, là bước trung gian quá độ không tránh khỏi để
tiến lên CNXH.
Để nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường đi đúng
quỹ đạo XHCN cần phải có "sự chèo lái" vững chắc của chính trị. Nhận thức
được điều đó, Đảng ta đã kế hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế gắn liền với đổi
mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị, bảo đảm ổn định chính trị làm tiền đề cho phát triển kinh tế theo định
hướng XHCN. Song, chúng ta phải tiếp tục đổi mới để đảm bảo vai trị lãnh đạo
của chính trị đối với quá trình định hướng sự phát triển của nền kinh tế. Trong
đó, đặc biệt chú ý tới vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước
- những nhân tố tối quan trọng trong việc đảm bảo định hướng XHCN sự phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay. Có như vậy mới thực sự
đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động hướng tới mục tiêu XHCN mà
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

15



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh – Viện Triết học
(2005), Giáo trình Triết học Mác-Lênin (phần chủ nghĩa duy vật lịch sử),
Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
2. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Triết học
(2005), Giáo trình Triết học Mác-Lênin (phần chủ nghĩa duy vật biện
chứng), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình cao cấp Lý luận chính
trị, Triết học Mác - Lênin, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 2018.
4. Nguyễn Hữu Vui (Chủ biên) (2007), Lịch sử Triết học, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
5. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ().

16



×