TẠP CHÍ KHOA HỌC
Khoa học Xã hội, Số 11 (12/2017) tr. 67 - 74
NGHỀ LÀM CÖC BƢỚM (MÁK PÉM) CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN
XÃ CHIỀNG NGẦN - THÀNH PHỐ SƠN LA
Lê Văn Minh9
Trường Đại học Tây Bắc
Tóm tắt: Bài viết đề cập tới nghề làm cúc bướm - một nghề thủ cơng truyền thống đang được duy trì và
phát triển tại địa bàn xã Chiềng Ngần - thành phố Sơn La, từ đó chỉ ra các giá trị của nghề như: Giá trị vật
chất, giá trị tinh thần, giá trị thẩm mĩ đặc biệt là quy trình chế tác, các loại khuôn và dụng cụ được người thợ
sáng tạo trong quá trình hình thành và phát triển của nghề. Bài viết khẳng định nhu cầu sáng tạo - hưởng thụ
những thành quả trong lao động, sáng tạo văn hóa đã tồn tại, phát triển bao đời nay, đóng góp vào di sản văn
hóa Thái ngày càng phong phú, đa dạng làm cho văn hóa giàu bản sắc, mang đậm tính tộc người. Đồng thời đề
xuất với chính quyền địa phương một số giải pháp cơ bản góp phần phát triển nghề truyền thống giúp đồng bào
bảo tồn giá trị văn hoá đồng thời tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.
Từ khóa: Nghề làm cúc bướm, nghề thủ công, cúc bướm, mắk pém.
1. Những vấn đề chung
Chiềng Ngần là một trong 12 xã, phƣờng của thành phố Sơn La, cách trung tâm thành
phố 15km về phía Tây Bắc. Phía Đơng và Đơng Nam giáp 2 xã: Mƣờng Bú (huyện Mƣờng
La), Mƣờng Bằng (huyện Mai Sơn); phía Tây giáp các phƣờng: Quyết Tâm, Quyết Thắng và
Chiềng Sinh (thành phố Sơn La); phía Nam giáp xã Chiềng Mung (huyện Mai Sơn); phía Bắc
giáp xã Chiềng Xơm, phƣờng Quyết Thắng, phƣờng Chiềng An (thành phố Sơn La). “Năm
2014, Chiềng Ngần có 1.583 hộ gia đình với 6.714 nhân khẩu sở tại và 3.468 dân tạm trú. Xã
có 7 dân tộc cùng sinh sống, bao gồm: Thái, Kinh, Mường, Mông, Tày, Hoa, Lào. Người Thái
đen định cư ở địa bàn từ lâu đời có số dân đơng nhất, chiếm 95,3% dân số toàn xã” [1]. Căn
cứ vào các đặc trƣng về trang phục, ngơn ngữ văn hóa mà các nhà khoa học chia ngƣời Thái
thành 2 ngành Thái Đen và Thái Trắng.
Vùng Chiềng Ngần có nhiều nét đặc trƣng của văn hóa Thái đặc biệt là cộng đồng
ngƣời Thái Đen đƣợc thể hiện từ trang phục đến cách xây dựng nhà ở, tổ chức các lễ hội, ẩm
thực,... trong đó trang phục truyền thống của ngƣời Thái Đen đƣợc làm từ sợi bông tự nhiên
do bà con trồng, dệt thành vải, nhuộm và tự cắt may quần áo. Phụ nữ Thái Đen có áo lửng
(xửa cỏm) màu tối, cổ trịn, đứng, thân áo ngắn bó sát khi mặc cho vào trong cạp váy. Váy dài
màu đen khơng trang trí họa tiết, hoa văn, gấu váy đắp cạp đỏ, dây thắt làm bằng vải tơ tằm
nhuộm màu xanh/tím, dây xà tích cuốn trễ quanh eo, ngồi ra cịn có khăn piêu đội đầu đƣợc
thêu chỉ màu rực rỡ, rất cầu kỳ thể hiện sự khéo léo, tỉ mỉ của ngƣời phụ nữ. Đi cùng với
chiếc áo cóm, trên đƣờng nẹp xẻ dọc giữa khn ngực có đính hai hàng cúc có hình bƣớm,
ong, ve sầu (thƣờng gọi chung là cúc bƣớm), đƣợc các nghệ nhân chế tác từ bạc, nhôm, đƣợc
ngƣời Thái Đen lựa chọn, ƣa chuộng và gìn giữ nhiều đời nay.
9
Ngày nhận bài: 8/5/2017. Ngày nhận đăng: 10/8/2017
Liên lạc: Lê Văn Minh, e - mail:
67
Cúc bƣớm (tiếng Thái gọi là mắk pém - nghĩa là quả dính/dính sát vào) vừa là vật dụng
để nối 2 tà áo cóm với nhau, vừa là đồ trang sức trang trí cho chiếc áo cóm thêm phần nổi bật
- trở thành nét đặc trƣng rất riêng có thể nói là đặc sắc của trang phục ngƣời Thái bởi cúc
bƣớm gắn với bộ trang phục của ngƣời phụ nữ/ trang phục là nhu cầu mặc không thể thiếu của
cộng đồng. Nhìn vào trang phục là dấu hiệu nhận diện và phân biệt giữa ngƣời Thái và các tộc
ngƣời khác. Cúc đƣợc ngƣời thợ làm thủ công với nhiều công bằng đơi bàn tay, khối óc, tính
cần cù, sáng tạo và những giá trị văn hóa trong chiếc xửa cỏm của dân tộc mình. Hiện nay,
nghề làm cúc bƣớm vẫn đang đƣợc đồng bào gìn giữ, bảo tồn và phát triển.
Trên địa bàn thành phố Sơn La, nghề làm cúc bƣớm đang đƣợc đồng bào Thái Đen
duy trì phát triển tại xã Chiềng Ngần trở thành nghề truyền thống mang lại những giá trị vật
chất và giá trị tinh thần nổi bật, giúp đồng bào bảo đảm cuộc sống của mình, đồng thời bảo
tồn đƣợc nét văn hố đặc sắc của dân tộc Thái.
2. Giá trị của nghề làm cúc bƣớm
2.1. Giá trị vật chất
Nghề làm cúc bƣớm hiện nay có ý nghĩa quan trọng về mặt vật chất, nghề giúp bà con
có thu nhập khá ổn định, thƣờng xuyên duy trì và phát triển. Cúc đƣợc làm từ nhơm nguyên
chất bởi giá thành rẻ, có độ bền cao mà vẫn giữ đƣợc nét đẹp vốn có của nó. Qua nghiên cứu,
ghi chép của tác giả tại gia đình ơng Quàng Văn Tƣơng ở Tiểu khu I xã Chiềng Ngần, thì
nghề đã thu hút hàng chục lao động, mỗi ngƣời phụ trách một khâu, phụ nữ có thể làm tất cả
các khâu, chỉ có tạo khn và đúc phơi ban đầu thì cần cánh tay của đàn ơng. Cúc bƣớm đƣợc
làm quanh năm theo nhu cầu đặt hàng của các tiểu thƣơng trên địa bàn và các vùng lân cận.
Theo ông Tƣơng cúc đƣợc phân phối tại thành phố Sơn La, Hịa Bình, Điện Biên thậm chí sang
tận nƣớc bạn Lào. Mỗi bộ cúc hoàn thiện đƣợc bán tại nơi sản xuất từ 10.000 - 12.000 VNĐ.
Với mỗi mẻ 30 kg nhôm nguyên chất bán đƣợc 10.000.000 VNĐ với thời gian 10 ngày liên
tục. Mỗi mẻ cúc hoàn thiện trừ chi phí nhƣ than đá, chảo, nhân cơng thì cơ sở thu đƣợc 60%
tiền bán cúc. Hiện nay, trên địa bàn TP. Sơn La có 3 hộ gia đình tham gia sản xuất cúc bƣớm,
tạo thu nhập cho hàng chục nhân khẩu và giải quyết việc làm cho các hộ dân vùng ven
thành phố.
Theo các tiểu thƣơng, cúc có hai nguồn cung cấp chính: Một là chuyển từ dƣới xi lên,
hai là của các cá thể tại địa phƣơng sản xuất, nhƣng ngƣời dân thích và ƣa chuộng loại cúc
đƣợc làm thủ cơng hơn bởi có độ bền cao, ít bị gãy, ơxi hóa... cịn cúc nhập dƣới xi mỏng
hơn, dễ gẫy, độ bền thấp.
2.2. Giá trị tinh thần
“Cúc bướm được bắt nguồn từ một truyền thuyết về mối tình dang dở của một đôi trai
gái người dân tộc Thái, yêu nhau nhưng không đến được với nhau. Khi mất đi, 2 người biến
thành đơi bướm trắng dập dìu, ln ln quấn qt bên nhau. Từ truyền thuyết đó, người dân
tộc Thái đã chế tác ra những con bướm trắng đính khâu vào 2 vạt áo “cóm” cài lại ở nơi trái
tim mình để nhớ mãi mối tình sắt son chung thủy này” [2].
68
Ông Quàng Văn Tƣơng, ngƣời làm cúc bƣớm xã Chiềng Ngần cho biết hàng cúc là
điểm nhấn không thể thiếu trong trang phục phụ nữ với hai hàng song song, một bên là hàng
cúc đực có đầu tù, trịn dùng để đơm/đan vào hàng cúc cái có phần đầu trịn rỗng, hai hàng
cúc đan xen thắt lại với nhau nhƣ một biểu tƣợng cho tình u đơi lứa, khơng thể có đực mà
khơng có cái hoặc tạo đóng (xọn) và mở (khay). Đó cũng là ý nghĩa phồn thực với mong
muốn sinh sôi nảy nở, phát triển mà bao đời nay ngƣời Thái Đen vẫn sử dụng, giữ gìn và
phát huy.
2.3. Giá trị thẩm mĩ
Nói đến nghề thủ cơng và nghề làm cúc bƣớm thì khơng thể khơng nói đến tính thẩm mĩ
bởi áo cóm là trang phục truyền thống của ngƣời Thái. Là biểu tƣợng cho cả tộc ngƣời, thơng
qua cách tạo hình của con bƣớm, ong, ve sầu, ngƣời thợ tự tay chế tạo khuôn bằng những
đƣờng nét, hình khắc đơn giản nhƣng khơng thiếu phần tinh tế. Có những nét dài, thanh xen
lẫn bằng nhát chấm quanh cánh của con bƣớm tạo bố cục chắc chắn cho hình con bƣớm.
Đồng thời hàng cúc trắng là điểm nhấn quan trọng trong tổng thể chiếc áo của ngƣời phụ nữ.
Qua đó thể hiện “... nghệ thuật cắt may của phụ nữ Thái đạt đến trình độ trang phục
hiện đại. Kín vì váy áo che kín tồn bộ thân thể, nhưng lại hở vì cách cắt may sát vào từng
đường cong trên cơ thể phụ nữ thể hiện khiếu thẩm mĩ truyền thống tộc người ăn sâu vào tiềm
thức họ, khiến họ tự giác thực hiện và sáng tạo ra sản phẩm khơng lẫn với các tộc người
khác. Vì vậy phong cách ăn mặc truyền thống đã được bảo tồn trong niềm tự hào của cộng
đồng” [3] hoặc “... chính những hình dạng khác nhau của từng loại bướm trên hàng cúc đã
làm cho chiếc áo Thái được trang trí hoa văn. Đồ án hoa văn này thật trang nhã và đầy sức
hấp dẫn” [4].
3. Các loại khuôn và dụng cụ làm cúc
Làm cúc bƣớm bằng nguyên liệu nhôm nguyên chất ở Chiềng Ngần đòi hỏi ngƣời thợ
phải tập trung cao độ, tỉ mỉ, chăm chút, khéo léo, tinh tế trong quan sát, sáng tạo trong từng
khâu để tạo ra chiếc cúc đặc trƣng, đƣợc đơng đảo ngƣời dân đón nhận. Để quy trình chế tác
có hiệu quả phải trải qua các khâu từ chuẩn bị các loại khn, lị nung nguyên liệu... cho đến
kỹ thuật đúc, dập, cắt thì ngƣời thợ phải có bộ đồ nghề chuyên dụng, đa dạng tƣơng ứng với
từng khâu trong chuỗi quy trình làm cúc.
3.1. Lò nung
Lò đƣợc xây bằng gạch đỏ đắp bùn pha trấu, lị dùng để nung cho ngun liệu nhơm
nóng chảy, lò trƣớc kia to so với hiện nay do để đốt bằng củi. Ngày nay đã chuyển sang dùng
than đá, với diện tích lị cao 80 cm, rộng 70 cm, cửa lị rộng 30 cm, có tác dụng khi nung chảy
ngƣời thợ dùng mi sắt múc ngun liệu, lị đƣợc ngăn thành 2 lớp, lớp dƣới cao 20 cm rộng
70 cm, để thống có tác dụng đƣa khơng khí vào hoặc để quạt (dùng bễ quạt) và chứa phần sỉ
than. Phần trên đƣợc ngăn cách một tấm phên đan, ghép bằng sắt ngăn khơng cho than rơi
xuống phía dƣới, trên tấm phên là một lớp than bùn rồi đến than đá trên than đá đặt chiếc chảo
gang, dày đủ để nung 30 kg nhôm nguyên chất, trên cùng là nắp lị đƣợc gia cơng từ tấm bìa
sắt cứng.
69
3.2. Khuôn đúc
Khuôn đƣợc làm bằng đất nung, theo quan niệm và kinh nghiệm 30 năm làm nghề thì
khn đƣợc tạo bởi đất sét đƣợc nung đỏ qua lửa sẽ chịu đƣợc nhiệt độ cao, có độ bền, dễ sửa
chữa. Khuôn dùng để đúc phôi, phần cúc thô ban đầu là khâu đầu tiên trong tạo hình cúc
bƣớm, diện tích khuôn rộng 10 cm, dài 25 cm, cao 5 cm, một đầu hở để đổ nguyên liệu.
Khuôn gồm hai mặt ốp/ghép vào nhau, một chiếc trơn, một chiếc đƣợc ngƣời thợ gia công 24
con tƣơng ứng mỗi con một cúc, độ dày của cúc dao động từ 1 - 1,5 mm, khi đúc 2 chiếc
khuôn ốp vào nhau để chắc và khơng chảy ngun liệu ra ngồi ngƣời ta dùng 2 chiếc kẹp tre
vam dài 0,7 cm, dài 40 cm cố định một đầu và đầu cịn lại đƣợc khóa bằng dây thép để đúc
xong tháo dây thép ra và lấy phơi. Để tránh nóng ngƣời ta thƣờng tạo đế bằng gỗ và mặt trên
đƣợc lót bằng bằng vải ƣớt sao cho khi đúc, tháo kẹp tre/vam không bị cháy thanh tre và tránh
nóng cho ngƣời đúc. Khn đƣợc làm thủ công bằng các vật liệu tự nhiên tuy khá đơn sơ
nhƣng lại có độ bền, chắc chắn, nhẹ và dễ di chuyển.
3.3. Khuôn dập
Khuôn dập đƣợc làm thủ công trên đoạn sắt đặc có đƣờng kính 6 cm hình trụ một đầu
đƣợc gắn vào thanh gỗ để làm đế hoặc gắn phần đế gỗ xuống đất sao cho khoảng cách giữa
mặt đế lên mặt dập là 10 cm. Mặt khn đƣợc khắc chìm/âm bản hình con bướm đực và bướm
cái, đƣợc ngƣời thợ dùng các thanh, đoạn sắt nhọn khắc trực tiếp bằng tay, tạo hình con bƣớm
rồi khắc các đƣờng hoa văn, họa tiết trên thân con bƣớm, sao cho độ dày mỏng, nông, sâu
phải đảm bảo đến tạo hình, chất lƣợng của cúc. Mỗi một chiếc khn khoảng 1,5 - 2 năm là
phải khắc lại cho họa tiết chìm sâu xuống bởi đúc phơi xong chuyển qua dập ngƣời thợ dùng
búa và phôi đặt lên khuôn đập mạnh tạo hình cúc bƣớm. Khi dập phơi và khn với nhau qua
tác động bằng búa nhiều lần và liên tục khn mịn đi dẫn đến phần cổ họa tiết bướm cái
mỏng khi sử dụng áo cóm dễ bị gãy.
3.4. Khuôn cắt
Khuôn cắt đƣợc gia công bằng thanh sắt đặc, khn nhỏ ở phần cán và phình to phần
đầu, khn dài 10 - 12 cm, một đầu cán và một đầu đƣợc tạo hình khá cung phu khoét sâu vào
thân khn tạo hình gờ, đƣờng bao hình cúc để cắt đập lên phần khn dập đã tạo ra. Khn
khơng có đủ các chi tiết nhƣ thân, đầu, họa tiết,.. mà chỉ có hình diềm hay cịn gọi là hình bên
ngồi/đường bo, hình bao quanh. Đặc biệt hình cắt khi cắt phải khớp với hình khn dập. Thợ
dùng khn cắt đặt lên trên sao cho khớp với hình khn dập đã tạo rồi dùng búa đập nhằm
loại bỏ phần nguyên liệu thừa xung quanh hình cúc.
3.5. Các dụng cụ khác
Búa cầm tay với nhiều kích cỡ dùng để đập khi cắt, dập, chỉnh sửa hoàn thiện. Đục bằng
sắt nhọn đầu dùng để đục lỗ trên thân cúc, mỗi chiếc cúc đục 4 lỗ để đơm cúc vào áo, một
thanh gỗ dài 80 cm dày 15 cm dùng để tì cúc khi đục, một trụ gỗ tròn đƣờng 35 cm cao 50 cm
dùng cho khn cắt hình cúc bƣớm, mỡ động vật dùng để nhúng khuôn cắt và bôi khuôn dập
cho trơn dễ làm và chống dính, mi/thìa múc ngun liệu...
70
4. Quy trình chế tác
4.1. Nguồn nguyên liệu
Cúc đƣợc làm bằng nhôm, loại nguyên liệu tốt nhất là các loại nhôm dẻo, nguyên chất,
mềm không pha gang hoặc các loại chất khác. Nhôm là nguyên liệu khá thông dụng trong sinh
hoạt hiện nay vì vậy nguồn nguyên liệu khá dồi dào, đa số từ các dụng cụ đã hỏng hoặc không
sử dụng đến, đƣợc thu mua từ các hộ gia đình hoặc các cơ sở thu mua phế liệu, nếu nhơm bị pha
tạp khi dập, cắt sẽ giịn dễ gãy, độ bền của cúc khơng cao. Mỗi lần có đơn đặt hàng ngƣời thợ
mua hàng 100 kg nhôm về ngâm, rửa thật sạch rồi mới chuẩn bị đƣa vào chế tác.
4.2. Quy trình chế tác
Nhơm đƣợc làm sạch bằng nƣớc để khô cắt vụn hoặc dùng búa đập vụn/nhỏ cho vào nồi
gang đã đặt trên lò nung rồi đậy nắp lò lại tránh bụi bẩn bám vào nguyên liệu. Đốt lò, dùng bễ
quạt cho ngọn lửa bắt vào than đá, nung liên tục trong 2 giờ đến khi nhôm tan chảy thành chất
lỏng rồi mới múc nguyên liệu để đúc phơi cúc. Theo chủ cơ sở sản xuất thì lúc nhiệt độ than
đá làm nóng và tan chảy nhơm thì nhiệt độ lên đến 600C.
Để đúc trƣớc tiên là chuẩn bị khn, kẹp chặt khn và lót bằng đế tránh nóng khi đổ
rồi để miệng khn hƣớng lên trên dùng dụng cụ múc nhôm đã tan chảy. Dụng cụ là chiếc
muôi đƣợc gia công bằng thép, dùng muôi múc một lƣợng nhơm vừa đủ đổ vào khn trong
vịng 15 giây thì dỡ khn bằng cách gỡ phần dây thép kẹp giữa hai thanh tre lấy phôi ra khỏi
khuôn rồi lại ghép khuôn đổ tiếp cứ liên tục nhƣ vậy trong nhiều giờ đồng hồ đến khi nào hết
nguyên liệu trong chảo gang thì tắt lị nung. Đây là cơng đoạn khá vất vả cần độ chính xác cao
bởi nhiệt độ cao ảnh hƣởng đến năng suất lao động, nếu không cẩn thận dẫn đến đổ nguyên
liệu ra ngoài bám bụi bẩn lại phải qua xử lý và cho vào nung lại.
Mỗi lần làm cần 2 thợ chính và một thợ điều chỉnh bễ quạt, làm trong 8 - 10 giờ với
30 kg nhơm thì đúc đƣợc 800 bộ phơi cúc, phơi cúc hình thành, định hình diện tích ban đầu,
độ dày mỏng của cúc, mỗi bộ 24 con tƣơng ứng với hai hàng, mỗi hàng 12 cúc. Làm xong
phơi thì chuyển qua khâu dùng khn dập để in hình con bƣớm lên phôi, đặt phôi lên khuôn
dập, dùng búa đập. Mỗi lần dập cần dứt khốt tay búa để hình đƣợc chuẩn xác. Dập khn tạo
hình mỗi ngày một ngƣời làm đƣợc 40 - 50 bộ cúc, khi tạo hình bằng khuôn dập xong chuyển
qua khâu tạo lỗ ở cúc.
Ngƣời thợ dùng đục sắt nhọn kê cúc lên thanh gỗ dài 80 cm dày 15 cm dùng để tì cúc
khi đục. Chiếc cúc bƣớm đục 4 lỗ thủng trên thân cúc vừa với lỗ của chiếc cúc áo thông
thƣờng để khâu, đính bằng chỉ vào áo. Khâu này khá đơn giản và đỡ tốn sức hơn so với khâu
đúc, dập bởi cúc đã thành hình và ngun liệu nhơm mềm dễ tạo lỗ.
Tiếp theo là khâu cắt hình, ngƣời thợ kê cúc đã dập khuân và đục lỗ trên một cục gỗ
trắc, trịn đƣờng kính 35 cm, cao 50 cm khơng mút khn bởi vì khn cắt rất sắc lại đục nhát
một cần độ chính xác loại bỏ phần thừa của cúc, dùng khuôn cắt và búa cắt bỏ phần thừa bên
ngồi hình con vật đã dập, đặc biệt ở khâu này khuôn cắt phải khớp với khuôn dập nếu khơng
sẽ bị mất hình hoặc thừa những phần khơng cần thiết với tạo hình con vật ở khn dập. Ngƣời
thợ đục dứt khốt làm đứt phần ngồi hình con vật nếu khơng dứt khốt hoặc để khn khơ
khơng tra mỡ động vật sẽ không đứt hẳn hoặc đứt nhƣng để lại các gai nhọn sắc ảnh hƣởng
71
đến chất lƣợng của bộ cúc và ngƣời sử dụng cúc. Những mảnh nhôm thừa ở phôi khi khuôn
cắt loại bỏ đƣợc gom lại để tái chế cho các mẻ nung nhơm tiếp theo.
Sau đó gom cúc lại chuyển sang khâu tẩy trắng cúc, trƣớc đây cúc hay đƣợc tẩy trắng
bằng các loại lá chua đƣợc đun sôi, bởi lá chua trong tự nhiên có axit hữu cơ nhƣng hiện nay
tẩy trắng đƣợc dùng bằng dung dịch axit vô cơ (axit hóa học), do nồng độ cao nên chất lƣợng
làm sạch cũng tốt hơn. Vì vậy, axit hóa học là lựa chọn tốt hơn và dễ kiếm hơn axit hữu cơ.
Để tẩy trắng cho 2 - 3 muỗng axit pha với 7 - 8 lít nƣớc đổ vào nồi gang. Cho toàn bộ cúc đã
hoàn thành vào nồi gang đổ ngập nƣớc sau đó đun trên bếp, đun đến khi nào nƣớc xủi bọt, là
lúc cúc đã đƣợc đƣợc tẩy trắng rồi sau đó đổ cúc ra chậu ngâm 10 phút. Sau đó tiếp tục rửa
sạch với nƣớc rồi vớt cúc ra cho vào nồi đun tiếp vừa đun vừa đảo đều cho hết nƣớc bám trên
cúc (trƣớc đây ngƣời ta thƣờng phơi cúc với ánh nắng tự nhiên để làm sạch nƣớc đọng, tuy
nhiên cách này lại mất thời gian nên trọn cách làm khô bằng sao cúc trên bếp).
Cúc khơ, trắng ngƣời ta đính cúc vào mảnh giấy, giấy đƣợc cắt gọn gàng vừa với một
bộ cúc (24 cúc/1 bộ) một bộ cúc có 2 hàng mỗi hàng 12 cúc cái và 12 cúc đực, cúc của con
đực đan vào khuy của con cái tạo thành đôi, hàng tƣơng ứng. Để gắn kết 2 loại cúc lại với
nhau ngƣời ta dùng búa nhỏ đập cho phẳng, khớp phần đầu của đôi cúc rồi luồn 2 cúc lại với
nhau đính cúc bằng chỉ qua lỗ đã đục sẵn trên thân cúc vào giấy. Cúc đƣợc hồn thiện qua các
cơng đoạn sau đó xếp gọn gàng vào hộp rồi mang đi tiêu thụ.
5. Giải pháp bảo tồn và phát triển nghề làm cúc bƣớm xã Chiềng Ngần
Căn cứ để xây dựng cơ chế chính sách và nguồn vốn: Ngày 24/11/2000 Thủ tƣớng
Chính phủ đã ra Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg về một số chính sách khuyến khích phát
triển ngành nghề nơng thơn; tiếp đó là Nghị định số 66/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành
ngày 7/7/2006 về phát triển ngành nghề nông thơn với các chính sách, chủ trƣơng quan trọng
nhằm khuyến khích ngành nghề nơng thơn, các doanh nghiệp, làng nghề, nghề thủ cơng phát
triển. Vì vậy, tỉnh Sơn La, Uỷ ban nhân dân thành phố Sơn La căn cứ vào các văn bản trên đề
ra các chơ chế, chính sách, có cơ chế thơng thống, khuyến khích sự đầu tƣ của các nguồn
vốn trong và ngoài tỉnh vào các hoạt động phát triển của nghề, làng nghề.
Tìm đầu ra cho sản phẩm: Tìm đầu ra cho sản phẩm của nghề thủ công trên địa bàn tỉnh
Sơn La là mục tiêu cũng nhƣ mong muốn của các hộ gia đình tham gia sản xuất là cơng việc
có ý nghĩa hết sức quan trọng để duy trì và phát triển của nghề thủ cơng trong đó có nghề làm
cúc bƣớm tại xã Chiềng Ngần. Hiện nay, nhiều sản phẩm thủ công sản xuất ra nhƣng lại bị tồn
kho khơng có hƣớng giải quyết, do nguồn cúc nhập dƣới miền xi đã ít nhiều làm ảnh hƣởng
đến đầu ra của sản phẩm cúc tại Chiềng Ngần. Điều cần thiết trƣớc mắt là tìm thị trƣờng bền
vững, thƣờng xuyên cho các sản phẩm tại địa phƣơng, cần kích cầu trong tỉnh và một số tỉnh
lân cận thơng qua các chƣơng trình hợp tác giữa chính quyền xã và các địa bàn lân cận là giải
pháp trƣớc tiên và lâu dài. Cần phối hợp giữa ngƣời làm nghề và các cơ quan tổ chức sự kiện
văn hóa mở các khu trƣng bày sản phẩm tại các hội chợ văn hóa nhƣ: Ngày hội văn hóa các
dân tộc huyện Mộc Châu, Lễ hội hoa ban,... Cùng với đó là việc đẩy mạnh hoạt động bn
bán tại chỗ thông qua việc phát triển điểm đến trong hoạt động du lịch nghề thủ công tại Sơn
La. Đây là con đƣờng nhanh nhất để đƣa khách hàng tới với sản phẩm của nghề, là biện pháp
72
tun truyền, quảng cáo có sức lan tỏa lớn khơng chỉ đối với cộng đồng Thái trong tồn tỉnh
mà cịn với cộng đồng Thái các tỉnh lân cận.
Đào tạo nguồn nhân lực: Cần có các biện pháp tơn vinh các nghệ nhân nhƣ giữ những
giá trị văn hóa của cộng đồng đang tồn tại trên từng sản phẩm của nghề. Khuyến khích phát
triển kinh tế hộ gia đình thơng qua hoạt động duy trì nghề nghiệp tại xã Chiềng Ngần. Ngoài
việc truyền nghề, dạy nghề theo lối cầm tay chỉ việc cần phải có các lớp học, tập huấn tại địa
bàn xã và thành phố nhằm nâng cao hiệu quả và phát huy tốt tính liên tục của nghề thủ cơng
trong giai đoạn hiện nay, từ đó hình thành một đội ngũ thợ thủ cơng có trình độ tay nghề cao,
đáp ứng nhu cầu sử dụng sản phẩm và phát huy vị trí của nghề thủ cơng truyền thống trên địa
bàn thành phố Sơn La hiện nay.
Khuyến khích các hộ làm cúc mở các lớp dạy nghề. Kết hợp với các tổ chức tại địa
phƣơng phƣơng nhƣ: Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ.... phát triển và nhân rộng
mạng lƣới nghề làm cúc trên địa bàn. Từ đó giúp ngƣời dân có cơ hội đƣợc tiếp cận với
những giá trị truyền thống của cộng đồng. Đẩy mạnh việc giáo dục tinh thần yêu nghề, yêu
văn hóa Thái. Nhƣ vậy nhiệm vụ bảo tồn mới đƣợc phát huy và định hƣớng phát triển một
cách bền vững.
Phát triển nghề thủ công truyền thống gắn với du lịch: Phát triển du lịch gắn với nghề
thủ công ở Sơn La là giải pháp tạo điều kiện buôn bán, phân phối sản phẩm tại chỗ thông qua
việc tham quan mua sắm của du khách trong các chƣơng trình du lịch tại Sơn La. Các cơ quan
chức năng của tỉnh cần có biện pháp phối hợp quản lý, chỉ đạo giữa địa phƣơng đặc biệt là các
hộ gia đình sản xuất cúc bƣớm với các công ty lữ hành tiến hành mở tour lấy nghề thủ cơng
làm trung tâm cho phát triển. Nhƣ hình thành tuyến du lịch văn hóa tại thành phố Sơn La: Di
tích Nhà tù Sơn La - gốm Mƣờng Chanh - cúc bƣớm Chiềng Ngần - bản Mòng. Nghiên cứu
về mơ hình du lịch cộng đồng, tại khu vực phù hợp với những thị trƣờng khách nhƣ: Khách
du khảo làng, bản, khách du lịch tìm hiểu về làng nghề, nghề, khách dã ngoại...; Khai thác các
sản phẩm hàng hóa trong vùng (do ngƣời dân địa phƣơng sản xuất) phục vụ nhu cầu mua sắm,
quà lƣu niệm,...
Xây dựng thương hiệu cho nghề thủ công: Đối với nghề truyền thống nhƣ nghề làm cúc
bƣớm xã Chiềng Ngần thì việc tạo dựng thành công thƣơng hiệu sẽ kéo theo hiệu quả kinh
doanh tăng lên và đòi hỏi chất lƣợng sản phẩm tƣơng ứng để có thể cam kết giữ vững niềm tin
nơi khách hàng; thƣơng hiệu chính là kênh quảng cáo hiệu quả nhất, nhanh nhất cho sản
phẩm; tránh đƣợc những rủi ro trong việc bị mất thƣơng hiệu vào tay các cơ sở sản xuất
khác. Để làm đƣợc điều đó chính quyền xã và các cơ quan chuyên môn cần hƣớng dẫn ngƣời
dân làm nghề tạo điểm nhấn khác biệt để nhận diện sản phẩm của cộng đồng. Bằng cách dập,
in, khắc kí hiệu trên sản phẩm nhƣ nghề rèn (tên đƣợc in chìm, nhỏ trên sản phẩm). Qua đó
giúp ngƣời sử dụng nhận biết và lựa chọn một cách tốt nhất với sản phẩm của chính địa
phƣơng mình tạo ra.
6. Kết luận
Sản phẩm cúc bƣớm là kết quả của quá trình lao động chuyên cần, tài hoa khéo léo,
ngƣời thợ đã gửi gắm tâm huyết của mình qua các khâu từ xử lý nguyên liệu tạo tác, họa tiết
73
con vật gần gũi với thiên nhiên và gắn liền với truyền thuyết... cho tới khâu cuối cùng là làm
trắng sản phẩm, để từ đó tạo ra những bộ cúc bƣớm đẹp mắt có tính đặc trƣng trong bộ trang
phục truyền thống của ngƣời phụ nữ Thái. Cúc bƣớm còn chứa đựng cả những giá trị nhƣ:
Giá trị vật chất, giá trị tinh thần, giá trị thẩm mĩ thể hiện sự đa dạng và phong phú trong văn
hóa Thái. Là nghề thủ công truyền thống với chất liệu nhôm dễ kiếm dễ sử dụng, đặc biệt là
giá thành rẻ và có độ bền cao, quy trình sản xuất đƣợc đúc kết từ nhiều thập kỷ, sản phẩm phù
hợp với tập tính sử dụng, đáp ứng các nhu cầu của cộng đồng cũng nhƣ điều kiện sống của
ngƣời Thái nói riêng và cộng đồng các dân tộc Sơn La nói chung.
Tuy nhiên đặc điểm của nghề thủ cơng truyền thống nói chung, nghề làm cúc bƣớm tại xã
Chiềng Ngần hiện nay là sản xuất nhỏ lẻ, không tập trung, thiếu sự đầu tƣ, thiếu sự kết nối giữa
các hộ tham gia sản xuất, giá trị gia tăng và lợi ích kinh tế của sản phẩm còn thấp, chƣa đảm
bảo các điều kiện để đồng bào theo nghề cải thiện và duy trì thu nhập một cách bền vững.
Để nghề truyền thống này phát triển góp phần bảo tồn giá trị văn hoá, giá trị tinh thần
của sản phẩm cúc bƣớm, cần có những kế hoạch, định hƣớng chiến lƣợc cụ thể lâu dài của
chính quyền các cấp cũng nhƣ sự quan tâm của mọi tầng lớp xã hội, nhằm mục đích phát triển
thành làng nghề thủ công truyền thống, trở thành địa chỉ thu hút khách hàng của vùng Tây
Bắc. Đây là nhiệm vụ quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy, phát triển nghề làm cúc, từ
đó sẽ có tác dụng thúc đẩy về kinh tế - xã hội, đem lại thu nhập ổn định, nâng cao chất lƣợng
cuộc sống cho ngƣời dân bởi cúc bƣớm là tài sản, là nét đẹp văn hóa khơng thể thiếu của cộng
đồng ngƣời Thái hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
Ban Chấp hành Đảng bộ xã Chiềng Ngần thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La (2015). Lịch
sử Đảng bộ xã Chiềng Ngần (1959 - 2015). Tài liệu lƣu hành nội bộ lƣu tại Văn phòng
Đảng ủy xã Chiềng Ngần.
[2]
Vũ Trang (2016). Cúc bƣớm - Nét độc đáo trang phục phụ nữ Thái. Truy cập tại:
ngày truy cập: 12/7/2016.
[3]
Hoàng Lƣơng (2004). Luật tục với việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống
một số dân tộc ở Tây Bắc Việt Nam. Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội
[4]
Hồng Lƣơng (2003). Hoa văn Thái. Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.
THE HANDCRAFT OF MAKING BUTTERFLY- SHAPED BUTTONS (MAK PEM)
BY BLACK THAI PEOPLE INCHIENG NGAN COMMUNE - SON LA CITY
Le Van Minh
Tay Bac University
Abstract: This paper explores the occupation of producing butterfly-shaped buttons, which is one of the
local professions done by the local Thai people in Chieng Ngan commune, Son La city. The aspects being
explored include a set of values (materialistic, spiritual and aesthetic values), production process, and use of
molds and necessary tools over the history of the profession. The paper concludes there is a need for creativity
and enjoyment existing among the local Thai people through generations to generations. The paper contributes
to the existing knowledge of the local Thai's culture, making it more diverse, rich, and unique.
Keywords: Butterfly-shaped buttons making, handcraft, mak pem.
74