Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Dia ly tu nhien Viet Nam Phan 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.21 KB, 29 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

PHẦN II



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Chương 9



<b>CÁC QUY LUẬT TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÂN HÓA LÃNH</b>


<b>THỔ TỰ NHIÊN VIỆT NAM</b>



Qua trình bày phần đại cương ta thấy một cách khái quát đất nước Việt Nam không
rộng nhưng thiên nhiên lại rất phong phú và đa dạng. Thiên nhiên thay đổi rõ rệt từ Bắc
vào Nam, từ Đông sang Tây, từ thấp lên cao hình thành nên nhiều đơn vị địa lý tự
nhiên các cấp. Các tưng thể lãnh thư tự nhiên đó được hình thành là do kết quả tác động
phân hoá khách quan của các quy luật địa lý tự nhiên.


<b>9.1. TÁC ĐỘNG CỦA QUY LUẬT ĐỊA ĐỚI ĐẾN PHÂN HÓA LÃNH THỔ VIỆT NAM</b>


Đây là một quy luật phân hóa lớn, tạo nên các vòng địa lý bao quanh Trái đất và khác
nhau rất căn bản về chế độ nhiệt (giảm dần từ xích đạo về hai cực).


Nằm gọn trong vịng đai nội chí tuyến, nhích về chí tuyến hơn là về xích đạo lẽ ra sự
phân hóa theo vĩ độ phải khơng đáng kể như ở các lãnh thổ khác cùng vĩ độ như Ấn Độ
(chênh 0,040<sub>C/1</sub>0<sub>VT). Xét nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất đúng như vậy (Hà Nội</sub>


28,30<sub>C, TP. Hồ Chí Minh 28,9</sub>0<sub>C). Tuy nhiên, xét nhiệt độ trung bình năm thì có sự</sub>


phân hóa Bắc - Nam (Hà Nội 23,40<sub>C, Huế 25,1</sub>0<sub>C, Tp. Hồ Chí Minh 26,9</sub>0<sub>C). Như vậy,</sub>


có sự phân hóa Bắc - Nam ở nước ta là do ngun nhân tác động của địa ơ. Đó là về
mùa đơng, mùa hoạt động của gió mùa đơng bắc với khối khí cực đới biến tính NPc
làm cho nền nhiệt độ hạ thấp dần từ Bắc vào Nam (trung bình giảm 10<sub>C/1</sub>0<sub>VT). </sub>


Đi từ Bắc vào Nam nhận xét có ba bước nhảy:



<i>- Bước nhảy thủ nhất:</i> Xảy ra ở vĩ độ l 80<sub>B (vĩ độ đèo Ngang). Từ đèo Ngang trở ra phía</sub>


Bắc là khu vực phần lớn lãnh thổ thuộc đai nội chí tuyến chân núi, có mùa đơng dài từ
3 tháng trở lên với nhiệt độ trung bình tháng dưới l 80<sub>C, có nơi dưới 15</sub>0<sub>C. Tuy nhiên, từ</sub>


đèo Ngang trở ra sông Chu (ở vĩ độ 200<sub>B) vẫn thể hiện dải chuyển tiếp vì cịn xuất hiện</sub>


một số thực vật phương Nam như Kiền kiền, Vên vên, Săng lẻ; một số động vật như
Vẹc đen gáy trắng, Vẹc chà vá.


Từ phía Nam đèo Ngang, ngay ở các độ cao (300 - 500m) cũng khơng có đủ một mùa
đơng dài 3 tháng dưới 180<sub>C và đã chuyển sang khu vực nhiệt đới rõ rệt.</sub>


<i>- Bước nhảy vọt thứ hai:</i> Xảy ra ở vĩ tuyến 160<sub>B (vĩ tuyến đèo Hải Vân). Nếu chỉ xét</sub>


theo chỉ tiêu nhiệt đới tháng lạnh nhất dưới l 80<sub>C thì ranh giới này khơng quan trọng</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

được. Vì thế, cho đến Thừa Thiên Huế vẫn có thời tiết lạnh mà biểu hiện rõ nhất là
nhiệt độ tối thiểu tuyệt đối (Đồng Hới 8,30<sub>C, Huế 8,8</sub>0<sub>C). Nhiệt độ tối thiểu là nhân tố</sub>


sinh thái giới hạn sự phân bố của sinh vật, vì thế các lồi nhiệt đới phương Nam khó
tính thường khơng vượt q 160<sub>VB như các loài Sao, ngược lại loài chịu lạnh phương</sub>


Bắc vẫn phát triển đến đây như Lim. Nói cách khác từ khu vực l 8- 160<sub>VB vẫn mang</sub>


tính chất trung gian, chuyển tiếp từ khu vực chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc sang
khu vực hầu như không chịu ảnh hưởng của gió mùa đơng bắc. Chỉ sau vĩ tuyến 160<sub>B ,</sub>


mới khơng cịn có nhiệt độ thấp ảnh hưởng đến sinh vật nhiệt đới.



<i>- Bước nhảy vọt thứ 3:</i> Xảy ra ở vĩ tuyến 140<sub>B, xấp xỉ con đường 19 từ Quy Nhơn qua</sub>


An Khê đi Pleiku. Từ phía Nam đèo Hải Vân, vì khơng có mùa đơng mà sự phân hóa
quan trọng là sự phân hóa trong chế độ ẩm. Do ảnh hưởng của khối núi Kotum thượng
mà khí hậu phía Bắc vĩ độ 140<sub>B tương đối ẩm, mùa khơ ngắn và khơng sâu sắc. Nhưng</sub>


từ phía Nam đèo An Khê, địa hình thấp xuống, mùa khơ trở nên sâu sắc, đồng thời kéo
dài có thể đến 4 – 6 tháng. Ngoài ra chỉ từ Quy Nhơn, tổng nhiệt độ tồn năm mới đạt
tiêu chuẩn xích đạo (Quảng Ngãi 9.4540<sub>C, Quy Nhơn 9.636</sub>0<sub>C).</sub>


<b>9.2. QUY LUẬT PHÂN HÓA TỰ NHIÊN VIỆT NAM THEO KINH ĐỘ</b>


Lãnh thổ Việt Nam nằm gọn trong á địa ô Trung Ấn thuộc địa ô gió mùa châu Á. Đây
là nơi gặp gỡ của gió mùa đơng bắc, gió tín phong, gió mùa tây tam từ vịnh Bengan lại
và gió mùa tây nam từ Nam bán cầu vượt xích đạo đi lên. Hai hướng gió chính là
hướng đơng bắc và tây nam đều thẳng góc với các mạch núi lớn chạy theo hướng Tây
Bắc - Đơng Nam phối hợp với luồng gió đơng nam, và các mạch núi hướng vòng cung
để tạo nên một sự phân hóa Đơng Tây khá rõ nét. Như vậy, sự phân hóa theo kinh độ
chủ yếu do hiệu ứng "phơn" và tác dụng bức chắn của địa hình gây ra, cịn vị trí so với
biển thì ít có tác dụng do nước ta hẹp ngang. Nơi đón gió mùa đơng bắc sẽ lạnh hơn nơi
khuất gió đến vài ba độ đồng thời cũng ẩm hơn vì có mưa front và mưa địa hình. Nơi
đón gió mùa tây nam cũng ẩm và bớt nóng hơn so với sườn khuất gió (nơi chịu hiệu
ứng phơn), có gió tây khơ nóng. Các dãy núi bình phong quan trọng nhất là dãy Hồng
Liên Sơn, dãy núi biên giới Việt - Lào, dãy Truờng Sơn và thứ đến là dãy Ngân Sơn. Vì
thế, ta thấy có sự khác nhau nhiều mặt giữa Đơng Bắc và Việt Bắc, giữa Việt Bắc và
Tây Bắc, giữa Trường Sơn Bắc và Lào, giữa sườn Đông Nam Truờng Sơn và Tây
Ngun. Sự phân hố Đơng - Tây làm cho khu vực phía Tây như là lùi xuống về mặt vĩ
độ. Nếu khử ảnh hưởng của độ cao, các đường đẳng nhiệt sẽ chạy chênh chếch theo
hướng Tây Bắc - Đơng Nam và Lai Châu nóng tương tụ như Huế, tạo nên một sự đồng


nhất cho miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Đứng thứ hai về độ lục địa là miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, vì nơi đây cịn chịu ảnh
hưởng của gió mùa đơng bắc với biên độ nhiệt trung bình năm 10- 120<sub>C.</sub>


Từ phía Nam đèo Hải Vân, biên độ xuống dưới 100<sub>C, cịn phía Nam Nha Trang biên độ</sub>


xuống dưới 50<sub>C.</sub>


Rõ ràng sự phân hóa kinh độ lớn nhất là do tác động của gió mùa đơng bắc. Vì thế, khi
phân vùng địa lý tự nhiên Việt Nam về phương diện nhiệt - ẩm cả theo vĩ độ, lẫn kinh
độ mà nhân tố phân hóa chủ yếu phải xét kỹ chính là gió mùa đơng bắc.


Sự phân hố các yếu tố nhiệt - ẩm tất nhiên phải thể hiện quá trình sự phân bố của giới
sinh vật. Luồng thực vật á nhiệt đới Hoa Nam chủ yếu chỉ lan tràn trong miền Bắc và
Đông Bắc Bắc Bộ, luồng thực vật rụng lá mùa khô Ấn Độ - Mianma tập trung phần lớn
ở Tây Bắc và Tây Nguyên, luồng Malaixia - Inđônêxia ít khi lên trên vĩ tuyến 160<sub>B,</sub>


nơi có biên độ năm vượt quá 100<sub>C. Một số loài cây như Sau sau, Lim, Sim, Thanh hao</sub>


chỉ phân bố ở phía Đơng, khơng thấy ở phía Tây của dãy Trường Sơn. Trong khi đó
Săng lẻ, Tếch, Thung chỉ gặp ở phía Tây, nơi có mùa khơ dài và sâu sắc.


Trong sự phân bố của giới động vật cũng quan sát thấy có sự khác nhau giữa các khu
Việt Bắc, Đông Bắc và Tây Bắc. Vẹc mũi hếch không thấy vượt quá thung lũng sông
Hồng; Trĩ cổ khoang, Hươu xạ không thấy vượt quá dãy Ngân Sơn. Vẹc đen má trắng
cũng chưa gặp ở Tây Bắc, trái lại Vẹc xám cũng không thấy ở tả ngạn sơng Hồng.
Nhìn chung, khu hệ động vật Hoa Nam tràn lan trong khu Việt Bắc, Đông Bắc với các
lồi như Trĩ cổ khoang, Vẹc đen, Sóc, Hoẵng lớn... còn khu Tây Bắc là nơi cư trú của
khu hệ hỗn hợp Ấn Độ - Malaixia và Vân Nam - Hymalaya với Vẹc xám, Sóc xám,


Gấu chó, Sóc bay, Bị tót...


<b>9.3. VAI TRỊ CỦA QUY LUẬT KIẾN TẠO - ĐỊA MẠO TRONG PHÂN HOÁ LÃNH</b>
<b>THỔ TỰ NHIÊN VIỆT NAM</b>


Qua nghiên cứu cho thấy, nếu đất nước ta khơng có cấu trúc địa hình đa dạng và nhiều
hướng thì sự phân hố của các điều kiện tự nhiên khơng thể phức tạp vì về cơ bản là đất
nước ta nằm gọn trong khu vực nội chí tuyến và một á địa ô. Các khu vực kiến tạo - địa
mạo trong đa số các trường hợp chính là các khu vực địa lý tự nhiên vì địa hình là nhân
tố phân phối lại một cách cụ thể các điều kiện nhiệt - ẩm địa đới và địa ô.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Việt Nam là nơi gặp gỡ của nhiều địa cấu trúc nên ngoài hai đơn vị lớn nêu trên địa
máng Miến - Thái - Malaixia cũng chạy qua lãnh thổ Việt Nam ở phía Tây đường đút
gãy Điện Biên - Lai Châu và ở phía Nam Hậu Giang, vì thế trên lãnh thổ nước ta được
phân chia ra nhiều đơn vị địa cấu trúc nhỏ hơn ảnh hưởng đến sự phân hoá các đơn vị
địa lý tự nhiên cấp dưới xứ địa lý.


<b>9.4. QUY LUẬT PHÂN HOÁ THEO ĐAI CAO</b>


Do lịch sử phát triển địa chất - địa mạo, nhất là do ảnh hướng của vận động nâng lên
tân kiến tạo, 3 /4 lãnh thổ Việt Nam là đồi núi, trong đó đến gần 30% cao trên 500m
nên quy luật phân hoá theo đai cao phát huy tác dụng mạnh mẽ. Có thể nói Việt Nam
quy luật đai cao phản ánh một cách cụ thể tác động tương hỗ giữa các quy luật phân
hố khơng gian.


Đai cao địa lý là một địa tổng thể, trong đó các thành phần khí hậu, thổ nhưỡng, sinh
vật và các thành phần khác của tự nhiên đều có mối quan hệ chặt chẽ, nhưng có ý nghĩa
quyết định vẫn là điều kiện nhiệt - ẩm.


Việc xác định số lượng, tính chất và giới hạn của các đai cao đều phải dựa vào điêu


kiện nhiệt - ẩm thông qua các chỉ số nhiệt ẩm, các kiểu thảm thực vật – thổ nhưỡng.
Nên việc khử mùa đông và lấy đặc điểm khí hậu mùa hạ (là mùa dài nhất) có ý nghĩa
quyết định nhất đến sự phát sinh và phát triển của các điều kiện địa lý tự nhiên Việt
Nam, đồng thời cũng là mùa có sự phân hóa đai cao là đồng nhất trên khắp cả nước.
Lấy đặc điểm mùa hạ dể xác định ta có thể có một ranh giới chung, thống nhất cho các
đai cao trên tồn bộ các khối núi. Cịn tác động của mùa đơng thể hiện qua nhiệt độ
trung bình năm cũng sẽ được xét ở cấp thấp hơn, cấp á dai .


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Chương 10



<b>MIỀN BẮC VÀ ĐÔNG BẮC VIỆT NAM </b>



<b>10.1. ĐẶC ĐIỂM TỔNG QUÁT</b>


Miền Bắc và Đông Bắc có diện tích khoảng 79.516km2<sub>, là kết quả tác động tương hỗ</sub>


giữa xứ Hoa Nam - Bắc Việt Nam với đới rừng gió mùa chí tuyến. Ranh giới của miền
được vạch ra từ thung lũng sông Hồng đến khi gặp đồng bằng Bắc Bộ, từ đó lại đi theo
ranh giới phía Tây Nam và Nam của đồng bằng, nghĩa là men theo chân phía Bắc của
dãy đồi núi ngăn cách đồng bằng với Hịa Bình và Thanh Hóa.


<i>1. Đặc trưng cơ bản của miền: </i>Trước hết là sự giảm sút khá mạnh của tính nhiệt đới,
với sự xuất hiện của một mùa đông thật sự do khối không khí cực đới NPc mang lại, đã
có tác động rõ rệt đến các thành phần tự nhiên khác nhất là đến thành phần thực vật.


<i>2. Nền tảng của mối quan hệ giữa miền với lãnh thổ Hoa Nam </i>(Trung Quốc) là mối
quan hệ cấu trúc địa kiến tạo. Nhiều nhà địa chất kiến tạo coi nơi đây là rìa nền hoạt
động của nền bằng Hoa Nam mà di tích rõ rệt nhất là khu vực đá biến chất sơng Lơ,
sơng Chảy, sơng Hồng. Về mặt địa hình thì phía Đơng dãy Ngân Sơn là vùng đồi núi
thấp ăn thơng sang khu vực Tây Giang, cịn phía Tây dãy Ngân Sơn là sư tiếp tục của


miền Đông cao nguyên Vân Quý với những cao -sơn nguyên và núi đá vơi độc đáo
nhất thế giới.


<i>3. Những đợt gió mùa đông bắc </i>dễ dàng vượt qua khu vực đồi núi thấp với những
hướng núi như mở ra để đón gió lạnh lùa về. Gió lạnh chỉ bị chặn lại ở sườn Đơng Bắc
của dãy Hồng Liên Sơn hùng vĩ. Cũng vì thế mà nền nhiệt độ ở đây thấp nhất cả nước,
lên cao 100-300m đã xuất hiện tháng rét với nhiệt độ trung bình tháng dưới 150<sub>C với</sub>


thời tiết sương muối, băng giá tương đối phổ biến. Ngay tại đồng bằng Bắc Bộ và các
thung lũng khuất gió như thung lũng sông Lô, sông Chảy, sông Hồng cũng có một mùa
đơng lạnh kéo dài đến 3 tháng với nhiệt độ trung bình dưới 180<sub>C. Vì vậy, có tính á nhiệt</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>4. Rừng nhiệt đới </i>chỉ phát triển bình thường đến độ cao 500 - 600m, các lồi nhiệt đới
khó tính lại mọc tốt cho đến độ cao 300m, lên cao nữa năngsuất sinh trưởng giảm sút
rõ rệt, cây nhỏ và lớn chậm. Ngược lại ngay trong các kiểu thực bì nhiệt đới, các lồi
Dẻ, Re khá nhiều, cịn trong các thực bì thứ sinh nhân tác thì thành phần lồi chịu lạnh,
khơ nhiều nơi trở thành ưu thế. Các cây đặc sản nổi tiếng của miền là hồi, chè, thuốc
bắc. Còn trong thành phần động vật có nhiều lồi tương tự như ở Hoa Nam và lên cao
có xuất hiện các lồi có trên cao ngun Vân Quý.


<b>10.2. ĐẶC ĐIỂM CÁC HỢP PHẦN TỰNHIÊN</b>


<b>10.2.1. Địa chất</b>


Đặc điểm miền Bắc và Đơng Bắc là có lịch sử phát triển sớm, lâu dài và phức tạp.


<i><b>a. Vào đại Nguyên sinh</b></i>: Toàn miền đang ở chế độ lục địa, chỉ đến cuối Nguyên sinh
mới bắt đầu có những hoạt động kiến tạo của nền tảng lục địa ấy mới hình thành chế độ
uốn nếp nhẹ.



<i><b>b. Sang đại Cổ sinh: </b></i>Có hiện tượng biển tiến vào Cambri sớm tạo nên các vũng biển
nơng và tại đó có lắng đọng trầm tích đá vơi. Tiếp đó, lãnh thổ lại được nâng lên ở
nhiều nơi vào Cambri giữa. Từ Cambri muộn - Ocđơvic biển lại mở rộng và trầm tích
phổ biến là trầm tích cacbonat và trầm tích lục nguyên (gặp nhiều đá sa - phiến), sau đó
bị biến chất mạnh. Sang đầu Đêvôn, biển lại lan tràn khắp nơi và chế độ biển kéo dài
đến cuối Devôn tạo nên những lớp trầm tích lục ngun và cacbonat có bề dày đáng kể.
Đến cuối Cổ sinh (từ Cacbon đến Pecmi) có lắng đọng trầm tích đá vơi tuy khơng dày
nhưng khá đồng nhất. Đến cuối Pecmi toàn miền lại được nang lên do vận động của tạo
sơn Hecxini.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

và chồng lên đới ven biển. Mãi đến cuối Crêta miền Bắc và Đơng Bắc Bắc Bộ mới
thốt khỏi chế độ biển, đi vào chế độ lục địa hoàn toàn, cùng với thời gian này có thành
tạo một số khối xâm nhập bazơ và siêu bazơ và granit (Phia Uoăc).


<i><b>d. Từ cuối Trung sinh đến cuối kỷ Palêogen: Là quá trình bán bình</b></i> ngun hóa san
bằng bề mặt kéo dài cho đến cuối thống Miơxen thì tiếp đến diễn ra vận động tân kiến
tạo do tác động của tạo sơn Hymalaya. Tuy không chịu ảnh hưởng nâng mạnh nhưng
cũng làm cho núi non, sơng ngịi trẻ lại kèm theo là những hiện tượng đứt gãy khá lớn.
Trong toàn vùng cường độ nâng lên không đồng đều. Ở Việt Bắc, về phía biên giới
Việt- Trung cường độ nâng có thể tới 1.000m, trong khi đó dọc bờ biển chỉ nâng
khoảng 200-500m. Do đó, miền Bắc và Đơng Bắc Bắc Bộ hiện ra như một bề mặt
nghiêng chúc về phía biển, kèm theo làm sâu thêm các đứt gãy Cao Bằng - Lộc Bình,
sơng Chảy, sơng Hồng. Nơi sụt võng rộng và khá mạnh là đồng bằng Bắc Bộ xảy ra
vào Pliôxen, tạo điều kiện cho miền có được một đồng bằng châu thổ khá rộng và phì
nhiêu.


<b>10.2.2. Địa hình</b>


Lịch sử địa chất - kiến tạo nói trên cùng với hoạt động xâm thực - bóc mịn đã tạo nên
những đặc điểm riêng trong đại địa hình của miền.



- Nhìn chung, địa hình miền Bắc và Đơng Bắc mang tính chất đồi và núi thấp với độ
cao trung bình chỉ khoảng 600m. Địa hình dưới 1.000m chiếm đến 90% diện tích, trên
1.000m chiếm gần 10% với các đỉnh cao trên 2.000m như Kiều Liên Ti (2.402m), Tây
Côn Lĩnh (2.419m), Pu Tha Ca (2.270m) chỉ chiếm 0,1% diện tích miền.


- Địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đơng Nam. Phía thượng lưu sơng Chảy, sơng Lơ,
sơng Gâm có những đỉnh vượt quá 2.000m cùng các bề mặt san bằng ở phía Bắc (cao
1.300-1.600m), xuống đến khu vực trung tâm đỉnh cao nhất cũng chỉ 1.500m với các bề
mặt san bằng ở bậc 900-1.000m; phía Đơng gặp các bề mặt cao 300-500m và tiếp theo
về duyên hải gặp các bán bình nguyên cao 100m.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

- Khu vực địa hình độc đáo nhất của miền là đồng bằng Bắc Bộ, hình thành trên một
võng chồng gối lên nền uốn nếp bên dưới. Vì thế, tuy đồng bằng rất bằng phẳng và rộng
lớn, nhưng đứng tại chỗ nào trên đồng bằng cũng thấy bờ núi chung quanh. Trừ tại
vùng trung tâm, trong lịng đồng bằng vẫn rải rác các đồi sót có thành phần đá rất phức
tạp. Ngồi tính chất rất độc đáo về mặt tự nhiên, đồng bằng là nơi được khai phá tích
cực bởi con người, vì thế mà có nhiều nét nhân tác hơn cả, kể cả trong địa hình, trong
mạng lưới thủy văn và nhất là trong thành phần đất - sinh vật.


<b>10.2.3. Khí hậu</b>


Miền Bắc và Đơng Bắc Bắc Bộ cũng có những nét riêng trong đại khí hậu liên quan đến
đặc điểm của đại địa hình và vị trí của miền đối với hai hồn lưu gió mùa đơng bắc và
tây nam.


- Do địa hình vừa thấp vừa nối tiếp với Hoa Nam mà số lần front lạnh tràn qua miền là
lớn nhất và khi tràn qua thì khối khơng khí cực đới NPc có độ biến tính thấp nhất, vì
thế mà nền nhiệt độ mùa đông của miền thấp nhất so với cả nước. Nhiệt độ trung bình
tháng I ở Cao Bằng là 13,50<sub>C, Lạng Sơn 13,7</sub>0<sub>C, Bắc Cạn 14,8</sub>0<sub>C, Móng Cái 15,3</sub>0<sub>C, Hà</sub>



Nội 16,60<sub>C, trong khi đó ở Thanh Hóa 17,3</sub>0<sub>C, Lai Châu 17,6</sub>0<sub>C, Đồng Hới 18,9</sub>0<sub>C.</sub>


Nếu xét chế độ thời tiết thì ở miền Bắc và Đơng Bắc cịn khắc nghiệt hơn vì ngay ở các
vùng thấp như vùng trũng Cao Bằng - Lộc Bình, Lục Ngạn - Sơn Động vẫn có xuất
hiện nhiệt độ âm.


- Lên các khu vực núi cao trên 500-600m thì có mùa đơng lại khắc nghiệt hơn nhiều.
Sương muối có thể xuất hiện ngay trong tháng XI và thường xảy ra liên tục vài ba ngày
trong các tháng XII, I, II. Tính chất lạnh có giảm phần nào khi đi về phía Việt Bắc do
sự giảm sút của front lạnh (tần suất lạnh đến Lào Cai chỉ còn 15 lần so với ở Lạng Sơn
là 22 lần, Hà Nội 20,6 lần), và về phía đồng bằng Bắc Bộ (do sự hạ thấp của địa hình).
- Trong mùa hạ, luồng gió từ biển Đơng và vịnh Bắc Bộ đi vào miền theo hướng Đông
Nam đã mang đến cho miền một lượng mưa khá phong phú. Tuy nhiên, lượng mưa
cũng phân bố không đều ở các nơi do tác dụng của địa hình. ở nơi đón gió lượng mưa
tăng lên rõ rệt như Quảng Ninh, Bắc Quang (Hà Giang), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), cịn ở
nơi khuất gió và lịng chảo thì mưa ít như Lạng Sơn, An Châu, Đình Lập.


<b>10.2.4. Thủy văn</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

- Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ có năm hệ thống sơng chính: Hệ thống sông Thao, hệ
thống sông Lô, hệ thống sông Cầu Thương Lục Nam, hệ thống sông Bằng Giang
-Kỳ Cùng và hệ thống sông duyên hải Quảng Ninh.


- Mạng lưới sơng ngịi có mật độ trung bình là 1,6km/1km2<sub>, trong đó các sơng có chiều</sub>


dài trên 10km chiếm tỷ lệ lớn. Các sơng phần lớn có tính sơng già, thung lũng rộng, độ
dốc nhỏ, đáy bằng với một hệ thống bãi bồi và ba bậc thềm.


- Sơng ngịi tương đối nhiều nước, mơđun dịng chảy trung bình 20-30l/s/km2<sub>, có nơi</sub>



như thượng nguồn sơng Lơ và dun hải Quảng Ninh đạt trị số 40-50l/s/km2<sub>.</sub>


- Phù hợp với chế độ mưa mùa, chế độ nước của sơng ngịi ở trong miền cũng
biểu hiện hai mùa lũ và cạn rõ rệt.


+ Mùa lũ từ tháng V-X với ba tháng lũ lớn nhất là VI, VII, VIII, cịn cực đại thì tùy nơi
mà rơi vào tháng VII hoặc tháng VIII, thường là do chịu ảnh hưởng mạnh của mưa bão
và mưa hội tụ nhiệt đới.


+ Mùa cạn bắt đầu từ tháng XI-IV, cạn nhất vào các tháng II, III, IV, nhưng tùy nơi và
tháng kiệt nhất có thể rồi vào tháng II (trên các sơng Lơ. Chảy, Thao), cịn các nơi khác
vào tháng IV.


- Khả năng xâm thực - bóc mịn của dịng chảy lớn: Trung bình trên lưu vực sông Thao
là 722 tấn/1km2<sub>, trên lưu vực sông Lô 600 tấn/1km</sub>2<sub>, trên lưu vực sông Chảy 433</sub>


tấn/1km2<sub>, trên lưu vực sơng Gâm 145,8tấn/1km</sub>2<sub>.</sub>


- Sơng ngịi miền Bắc và Đơng Bắc cho tiềm năng thủy điện lớn. Công suất các
đập thủy điện nhiều nơi trên 1.000KW. Hai thác đã xây dựng hai nhà máy thủy điện
đáng chú ý trong miền là nhà máy thủy điện Thác Bà trên sông Chảy (108.000 KW và
nhà máy điện thác Đầu Đẳng trên sông Năng (1.000 KW). Đang xây dựng nhà máy
thuỷ điện Nà Hang ( Tun Quang ) có cơng suất 600.000kw.


<b>10.2.5. Thổ nhưỡng - sinh vật</b>


Phản ánh sinh động điều kiện nhiệt ẩm của miền là sự phân hóa đất, sinh vật từ thấp lên
cao:



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

không phải là cây họ Dầu mà là cây họ Đậu, họ Vang. Tiêu biểu cho đai rừng chí tuyến
là loại hình rừng Lim xanh thuộc họ vang (phân bố dưới 300m), trên 300m là loại hình
rừng Táu lá nhỏ. Tùy theo chế độ nhiệt - ẩm mà những lồi mọc xen với Lim có khác
nhau. Chẳng hạn, ở nơi lạnh, ẩm ta gặp quần hợp Lim + Chẹo mọc xen với Dẻ, Re; ở
nơi lạnh khô gặp quần hợp Lim + Sau sau hay Lim + Dẻ gai; tại các khu vực ấm và ẩm
ta gặp quần hợp Lim + Chò nâu + Ngát + Ràng ràng.


Rừng nguyên sinh chỉ phân 2-3 tầng cây gỗ, trong đó có một tầng chính có tán liên tục
gọi là tầng ưu thế sinh thái. Trên núi đá vơi thường gặp Trai, Nghiến. Ngồi ra ở ven
biển phát triển rừng nước mặn với các lồi cây điển hình là Đước, Sú, Vẹt.


Đất dưới rừng nhiệt đới là đất feralit đỏ vàng, chua, nghèo phì liệu.


Đai rừng chí tuyến chân núi không những phong phú về thành phần thực vật mà còn
phong phú cả về động vật nhất là ở hệ sinh thái nguyên sinh. Có thành phần động vật
giống với động vật Hoa Nam về một số loài gặm nhấm, ăn thịt, có vuốt, linh trưởng,
chim Sẻ, Gà.


Các lồi thú trong miền có Nai, Hoẵng, Sơn dương, Hươu xạ. Các lồi thú ăn thịt trong
đai rừng chí tuyến chân núi chỉ hay gặp Báo vàng (beo), Mèo rừng, Gấu ngựa, Gấu chó;
các lồi chồn gặp Cầy vằn, Cầy vòi, Cầy hương, Cầy mực, Rái cá lớn, Lửng lợn.


Các lồi gặm nhấm gặp nhiều lồi Sóc (Sóc bụng đỏ, bụng xám, mỏm hung, Sóc đen
lớn, Sóc bay). Trong rừng tre nứa gặp Nhím, Dúi móc và Đon, Đồi. Đặc biệt ở miền
Bắc và Đông Bắc gặp rất nhiều loài Khỉ khác nhau như Khỉ vàng, Khỉ mặt mốc, Khỉ
lợn, các loài Vượn đen tuyền, Voọc đen, Voọc mũi hếch, Voọc bạc má (chỉ có ở hải
đảo).


<i>2. Từ 600 -1.600m</i> là đai rừng á nhiệt đới trên núi với đất feralit vàng đỏ có mùn.
So với đai rừng chí tuyến chân núi thì thành phần nghèo hơn nhiều. Phổ biến là các cây


thuộc họ Dẻ, họ Re bao phủ gần như chiếm ưu thế tuyệt đối. Các lồi thực bì thường
gặp là các lồi Dẻ gai, Sồi. Trên núi đá vơi xuất hiện các lồi lá kim như Vân sam,
Hoàng đàn, Kim giao. Động vật trong đai cũng nghèo chỉ có các lồi chịu rét như Sóc
đen, Gấu, Hổ, Báo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<b>10.3. SỰ PHÂN HOÁ CỦA MIỀN THÀNH CÁC KHU ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN</b>


Bên cạnh tính thống nhất của miền Bắc và Đông Bắc thể hiện ở mối quan hệ về nhiều
mặt với Hoa Nam, ở tính chất á nhiệt đới khá mạnh do tác động của khối khơng khí cực
đới NPc và front lạnh, ta cũng thấy rõ sự phân hóa rõ ràng trong nội bộ miền về các
điều kiện tự nhiên như cấu trúc địa chất - địa hình, khí hậu - thủy văn, cấu trúc đai cao,
thổ nhưỡng - sinh vật.


Tính chất nền cổ Hoa Nam chỉ thể hiện rõ ở đới sơng Hồng và sơng Lơ, cịn tại vùng rìa
của khối Việt Bắc ấy, chế độ địa máng hồi sinh đã hoạt động khá mạnh, suốt từ đại Cổ
sinh đến Trung sinh. Trong giai đoạn Tân sinh, tân kiến tạo cũng tiếp tục nâng cao địa
khối Việt Bắc với cường độ mạnh hơn so với các vùng xunng quanh tạo nên một sự
phân dị về độ cao tuyệt đối của địa hình và theo đó là của cấu trúc đai cao.


Khí hậu lạnh khô lại biểu hiện rõ rệt hơn tại khu đồi núi thấp Đơng Bắc, cịn khu vực
núi trung bình Việt Bắc do khuất gió nên khí hậu nói chung có phần ấm và ẩm hơn,
phải trên 300m mới xuất hiện tháng rét trong mùa đông. Đồng bằng Bắc Bộ hình thành
trên một vùng sụt võng, do đó có những nét độc đáo của một khu vực Riêng biệt trong
miền.


Từ những khái quát trên cho thấy miền Bắc và Đơng Bắc Bắc Bộ được phân hóa ra
thành ba khu địa lý tự nhiên: khu Việt Bắc, khu Đông Bắc và khu đồng bằng Bắc Bộ
(đặc điểm tự nhiên các khu địa lý xem sách Địa lý Tự nhiên Việt Nam, Phần Khu vực
của Vũ Tự Lập, 2001).



<b>10.4. HƯỚNG SỬ DỤNG KINH TẾ CỦA MIỀN</b>


1. Rừng có nhiều lồi gỗ quý như Lim xanh, Nghiến, Pơmu, Kim giao, Hoàng đàn... có
giá Trị kinh tế cao. Trong rừng cịn nhiều cây thuốc có giá trị như Tam thất, Xuyên
khung, Thuốc phiện... Rừng thứ sinh phát triển nhiều loài Bồ đề, Mỡ, Giang, Vầu là
nguyên liệu làm giấy có giá trị mà nổi bật là nhà máy giấy Bãi Bằng (Phú Thọ).


2. Đất, khí hậu kinh tế cao như chè Trung Du thích hợp cho việc trồng cây cơng nghiệp
lâu năm có giá Trị kinh tế cao như Chè tuyết. Các vùng chuyên canh chè nổi tiếng cả
nước như Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ; các cây có dầu như Sở, Hồi, Trẩu; các
cây ăn quả như Dẻ Cao Bằng, Đào, Mận Lạng Sơn. Trong vùng có một trong hai vựa
thóc lớn của cả nước là đồng bằng Bắc Bộ rộng trờn 15.000km2<sub>. Nổi tiếng ở đây về</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

3. Có tiềm năng tài nguyên du lịch tự nhiên lớn để phát triển thuận lợi kinh tế du lịch.
Dọc bờ biển có nhiều bãi tắm đẹp như Trà Cổ, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải
Phịng), có những thắng cảnh nổi tiếng như vịnh Hạ Long (di sản tự nhiên thế giới), hồ
Ba Bể (Bắc Cạn), nhiều hang động đẹp ở Hà Tây, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hịa Bình,
Ninh Bình; mặt bằng núi cao nghĩ mátnhwu Tam Đảo , mẪU Sơn, thắng cảnh thác Bản
Dốc; kết hợp voqứI nhiều vườn quốc ga như tam đảo (vĩnh phúc ), Ba Bể ( Bác Cạn),
Ba VI ( Hà Tây ), QUốc Phương ( ninh Binhf), Bái Tử Long ( Quóng Ninh ), Cỏt Bà ,
Hảie Pho9ngf ), Xõn Sơn ,( Phú Thọ ), Xuân Thuỷ( Nam định) , cùng vớI các khu dự
trữ ssinh quyễn là Cỏt Bà Va tam giỏc chõu Bắc Bộ


4. Giàu khoáng sản nhất cả nước, nổi bật là than Quảng Ninh, apatit (Lào Cai), thiếc
(Cao Bằng), sắt (Thái Ngun ), chì (Bắc Cạn), bơxit (Lạng Sơn)... cho khả năng phát
triển mạnh công nghiệp năng lượng, luyện kim, cơ khí, hóa chất,...


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Chương 11



<b>MIỀN TÂY BẮC VÀ BẮC TRUNG BỘ</b>




<b>11.1. ĐẶC ĐIỂM TỔNG QUÁT CỦA MIỀN</b>


Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ là kết quả của tác động tương hỗ giữa xứ địa lý Đông
Dương và đới rừng gió mùa chí tuyến. Ranh giới phía Nam của miền được xác định đựa
vào ranh giới của đới, đó là đãy Động Ngài - Bạch Mã, đâm ra biển ở đèo Hải Vân
(160<sub>VB) có diện tích 86.490km</sub>2<sub>.</sub>


- Đặc trưng cơ bản của miền là sự suy yếu dần của gió mùa Đơng Bắc khi vượt qua đãy
Hồng Liên Sơn hùng vĩ và khi đi chuyển xuống phía Nam. Từ vĩ tuyến l80<sub>B (đèo</sub>


Ngang) trở vào, một mùa đông lạnh khơng cịn nữa mà chỉ có thời tiết lạnh. Tương ứng
với sự suy yếu dần của gió mùa đơng bắc là sự mạnh dần của tính nhiệt đới ẩm với sự
hiện diện của nhiều thành phần sinh vật phương Nam.


- Cấu trúc địa chất - địa hình của miền đã phản ánh cấu trúc dạng dải của địa máng Tây
Bắc và địa máng Trường Sơn với những dãy núi và thung lũng chạy theo hướng Tây
Bắc - Đông Nam. Trong giai đoạn tân kiến tạo, phía trong được nâng mạnh, tạo nên
những mạch núi vừa cao, vừa đồ sộ, núi lại chạy ra sát biển khơng cịn chỗ cho đồng
bằng châu thổ rộng lớn phát triển mà chỉ hình thành một dải đồng bằng duyên hải nhỏ
hẹp.


- Quan hệ giữa cấu trúc sơn văn với các luồng gió mùa đã tạo nên sự phân hố khí hậu
của miền, như sự hoạt động mạnh của cơ chế gió tây nam khơ nóng và mưa muộn, kéo
dài ở Bắc Trung Bộ, cơ chế mưa sớm và ngắn ở Tây Bắc.


<b>11.2. ĐẶC ĐIỂM CÁC HỢP PHẦN CẤU TẠO NÊN MIỀN</b>


<b>l1.2.1. Địa chất</b>



Tại miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ có chế độ địa máng kéo dài rất điển hình, vì đây là
một nhánh của đai uốn nếp Karakorum trong miền uốn nếp lớn Têtit. Trong địa máng
có nhiều phức nếp lồi, nếp lõm xen kẽ. Các phức nếp lồi có Hồng Liên Sơn, cánh cung
sông Mã, dãy Pu Hoạt; các phức nếp lõm là địa máng sông Đà, địa máng Sầm Nưa và
địa máng Trường Sơn.a


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

nhập tạo nên các khối gabro ở Tây Nam yên Bái và granit ở Tây Bắc Hịa Bình, Phủ
Quỳ (Nghệ An).


Vào cuối Nguyên sinh có xảy ra vận động uốn nếp kết thúc chế độ địa máng.


<i>b. Sang đại Cổ sinh:</i> Lại diễn ra chế độ "hồi sinh địa máng", phá hủy nền móng nguyên
sinh ở nhiều nơi.


+ Từ Cambri sớm, đới Phanxipăng đã chịu ảnh hưởng biển tiến từ Ấn Độ Dương và
Thái Bình Dương đến nhưng sang Cambri giữa thì biển thoái.


+ Từ Cambri muộn sang đến tận Silua biển tiến tràn ngập khắp miền, để lại nhiều đá
vôi, đá phiến hoặc đá phiến xen kẽ sa thạch biến chất, có bề dày tới 800m.


+ Cuối Silua vận động tạo sơn Calêđơni gây ra hiện tượng biển thối và có gián đoạn
trầm tích ở Tây Bắc, nhưng ở Trường Sơn vẫn thấy hiện tượng sụt lún với cường độ
yếu.


+ Từ đầu Đêvôn đến cuối Đêvôn giữa chế độ địa máng lại hoạt động, biển tiến bao phủ
nhiều nơi. Toàn miền lại sụt lún, tạo thành một hệ tầng đá phiến và đá vôi phân bố rộng
rãi ở Phanxipăng, Sơn La, Thanh Hoá, Lai Châu; hệ tầng sa thạch, bột kết, đá phiến xen
kẽ nhịp nhàng ở Hà Tĩnh, Quảng Bình dày tới 4.000 - 5.000m. Đặc biệt ở kỷ Đêvôn đới
sông Mã được nâng lên hẳn tạo thành một đới ổn định.



+ Từ Cacbon đến Pecmi, có hiện tượng lắng đọng trầm tích dày với nham tướng biển
nơng, chiều dày 600 - 800m.


+ Cuối Pecmi diễn ra vận động tạo sơn Hecxini kèm theo là hoạt động xâm nhập macma
granit ở Điện Biên Phủ (Lai Châu), kết thúc giai đoạn Cổ sinh đại.


<i>c. Sang đại Trung sinh:</i>


+ Từ Triat sớm giai đoạn địa máng lại được hồi sinh, mạnh nhất ở đới sông Đà và đới
Sơn La, tốc độ sụt lún nhanh tạo thành các trầm tích đá phiến và đá vơi. Cịn tại các nơi
uốn nếp Hecxini có tạo thành các miền võng như ở Mường Tè (Lai Châu), Sầm Nưa
(Lào). Vào Triat giữa (Nori) đã gây nên hiện tượng biển thoái mạnh mẽ và cả miền nổi
lên thành một lục địa kèm theo hiện tượng macma xâm nhập siêu bazơ, granit ở nhiều
nơi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Chế độ địa máng Trung Sinh Đại coi như chấm dứt sau sự xuyên lên của các khối xâm
nhập granit ở Phanxipăng và một số nơi khác.


<i>d. Sau đó là thời kỳ bán bình ngun hố kéo dài từ đầu kỷ Palêơgen đến đầu Neôgen</i>
<i>(Miôxen).</i> Từ Miôxen vận động tân kiến tạo lại làm thay đổi bán bình nguyên cổ đưa
đến bề mặt địa hình ngày nay.


<b>11.2.2. Địa hình</b>


- Lịch sử phát triển địa chất - kiến tạo nói trên được thể hiện rõ trong cấu trúc sơn văn.
Các núi đều chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam.


- Tân kiến tạo nâng mạnh nhưng nâng muộn, chủ yếu vào thời kỳ sau đã tạo nên những
mạch núi cao và trung bình thường chạy dọc theo biên giới quốc gia, chia cắt sâu bởi
những thung lũng hẹp ngang.



- Địa hình được nâng khá liên tục, khơng có những bề mặt san bằng rộng mà chỉ có các vạt
hẹp ở các bậc độ cao 2.100 - 2.200m, l.700 - l.800m, l.300 - l.500m, 700 - 1.000m.


- Trong miền được thành tạo các dãy núi đồ sộ, đó là Hồng Liên Sơn với nhiều đỉnh
cao trên 3.000m như Phanxipăng (3.143m), Ta Yang Pin, (3.096m), các dãy núi biên
giới Việt - Lào và dãy Trường Sơn Bắc với nhiều đỉnh trên 2.500m.


- Địa hình chia cắt rất mạnh và có độ dốc lớn.


- Địa hình núi cao và trung bình phát triển nên khơng có vùng đồi thấp trung du rõ nét
như ở miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ. Núi lại ăn ra sát biển nên đồng bằng duyên hải
đã hẹp lại có nhiều đồi sót rải rác.


<b>11.2.3. Khí hậu</b>


Chế độ khí hậu có liên quan mật thiết với vị trí địa lý và địa hình trong miền.


Nói chung số lần front lạnh tràn qua miền chỉ bằng khoảng 50% số lần front lạnh tràn
qua miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ do khối núi cao đồ sộ Hồng Liên Sơn tạo thành
bức bình phong ngăn chặn. Khơng khí lạnh chỉ tràn lên được Tây Bắc qua các thung
lũng sâu ăn thông xuống đồng bằng duyên hải hoặc qua các đèo thông qua dãy Hoàng
Liên Sơn. Dù đến đường nào khi đến Tây Bắc khơng khí lạnh cũng đã bị biến tính,
nóng lên và khơ hơn. Vì thế, nền nhiệt ở đây so với nơi có cùng vĩ độ ở khu Việt Bắc
thì nóng hơn 2 - 30<sub>C, và phải lên cao 500m mới có tháng rét dưới 15</sub>0<sub>C. Số ngày mưa</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

- Nói Tây Bắc có nhiệt độ cao là đã loại trừ tác động của địa hình núi và quy luật đai
cao. Nếu đưa nhiệt độ xuống độ cao mặt biển thì các đường đẳng nhiệt trong miền sẽ
chạy chếch theo hướng Tây Bắc - Đơng Nam, khi đó Lai Châu sẽ nóng ngang với Huế.
Đường đẳng nhiệt l80<sub>C trong tháng I sẽ chạy từ đèo Ngang lên phía Tây thành phố Vinh</sub>



- phía Đơng Sơn La - phía Đơng Phong Thổ. Như vậy nhiệt độ ở Tây Bắc và Bắc Trung
Bộ như nhau.


Ngồi ra, từ phía Mianma có khi lan sang Tây Bắc áp thấp ngay cả trong mùa Đơng làm
cho thời tiết nóng xuất hiện. Đây là điều kiện làm cho mùa Đơng ở Tây Bắc có phần
nóng và ngắn, mùa hạ đến sớm.


- Trong mùa hạ hiện tượng "phơn" với gió mùa Tây Nam khơ nóng là nét điển hình của
khí hậu trong miền. Tại đây gió tây khơ nóng thổi sớm và mạnh. Tuy nhiên, do tác động
bức chắn của dãy Hoàng Liên Sơn và các dãy biên giới Việt - Trung cũng như còn ảnh
hưởng luồng Đông Nam nên trong mùa hạ ở Tây Bắc vẫn cho mưa, chỉ có ở Bắc Trung
Bộ gió tây khơ nóng mới hoạt động dữ đội và làm cho mùa mưa lùi về thu - đông (khi
hoạt động mạnh của dãy hội tụ nội chí tuyến làm tắt gió tây khơ nóng).


- Sự giảm cường độ nhiệt mùa đơng đã làm cho biên độ nhiệt năm tương đối nhỏ
(9-100<sub>C) so với Đông Bắc (12 - 14</sub>0<sub>C). Như vậy, tính chất gọi là lục địa của Tây Bắc chỉ</sub>


được thể hiện ở biên độ nhiệt ngày đêm cao lên và độ ẩm khơng khí giảm chút ít.
<b>l1.2.4. Thủy văn</b>


Khơng kể các hệ thống sơng dun hải Bình Trị Thiên, miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ
có các sơng lớn: sông Đà, sông Mã - Chu, sông Cả.


<b>- Sông Đà: </b>Phát nguyên tại Vân Nam, cạnh nguồn sông Hồng, dài 1.010km (phần qua


Việt Nam chỉ 570km). Dịng sơng chảy song song với sơng Hồng, có hai khúc uốn nói
lên hiện tượng cướp dòng: khúc uốn ở thị xã Lai Châu xẻ qua dãy sơn nguyên đá vôi
thành một hẻm vực dài 20km, vách dựng đứng cao l.000m; khúc uốn ở hạ lưu từ thị xã
Hịa Bình.



</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<b>- Sơng Mã: </b>Dài 512km, có hai nguồn, một từ Tn Giáo xuống, một từ sườn đông dãy
Pu Sam Sang. Từ chỗ hợp lưu của hai nguồn cho đến Mường Hét (bên Lào), thung lũng
sơng khá rộng, hai bên có bản làng đông vui của dân tộc Thái. Từ Mường Hét trở ra
dịng sơng cắt qua một dãy núi granit nên có thung lũng hẹp và sâu, nhiều thác ghềnh.
Từ Hồi Xuân trở đi, dịng sơng lại mở rộng ra một ít, đi lại bằng thuyền được, đến từ
Vĩnh Lộc trở đi sơng Mã mới có tính chất sơng đồng bằng.


Cùng hợp lưu với sông Mã đã tạo nên đồng bằng Thanh Hố có sơng Chu đổ vào sơng
Mã ở phía trên thành phố Thanh Hố. Sơng Chu phát ngun tử Tây Bắc Sầm Nưa, ở
độ cao 2.000m. Sơng Chu có rất nhiều thác ghềnh, mãi đến gần Bái Thượng thuyền độc
mộc mới đi lại được. Vì thế, đập Bái Thượng được xây đựng để dẫn nước tưới cho
đồng bằng qua một hệ thống nông giang nước tự chảy. (Đặc điểm chế độ dòng chảy
xem mục 5 trong mục 4.l.2 chương 4)


<b>- Sông Cả: </b>Dài 531km, phát nguyên từ núi Pu Lôi trên độ cao 2.000m - chảy theo


hướng Tây Bắc - Đông Nam đổ ra biển qua cửa Hội (đặc điểm chế độ dòng chảy xem
mục 6 trong mục 4.l.2 chương 4).


<b>11.2.5. Thổ nhưỡng - sinh vật</b>


Lớp phủ thổ nhưỡng - sinh vật trong miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ có những đặc điểm
riêng phù hợp với địa hình và chế độ nhiệt ẩm. Ở đây có đầy đủ các hệ thống đai cao:
- Đai ôn đới trên núi ở độ cao 2.000m trở lên với đất mùn alit chiếm diện tích rộng lớn
mà các miền khác khơng có.


Thực vật ở đai này có các lồi từ Vân Nam - Hymalaya tới như Thiết sam và Lãnh sam.
Ngoài ra cịn gặp các lồi Đỗ qun, Chua nem.



Động vật có chim, Gà gơ núi, Họa mi.


- Trong đai á nhiệt đới trên núi (600 - 2.600m) thì á đai 600 - l.000m với đất feralit núi
có mùn thể hiện rõ tính chất chuyển tiếp từ nhiệt đới lên á nhiệt đới chứ không chuyển
tiếp đột ngột như ở miền Bắc và Đơng Bắc Bắc Bộ. Cịn á đai rừng đồng rêu (l.600
-2.600m) với đất feralit mùn núi cao chuyển sang mùn alit chiếm đến 20% diện tích của
miền.


Trong đai á nhiệt đới, ngoài phát triển các lồi cây họ Dẻ, Re cịn gặp Tơ hạp Điện Biên
có nhựa rất thơm, các lồi lá kim (Thơng ba lá, Đu sam).


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

- Trong đai nội chí tuyến chân núi với đất thống trị là đất feralit đỏ vàng, đất nâu thẫm
trên đá vôi, phân bố ở độ cao dưới 600m.


<i>Về thực vật: </i>Những cây họ Dầu đã chiếm một tỷ lệ lớn bên cạnh các cây họ Đậu, họ
Vang. Từ Nam sông Chu, các cây Táu mặt quỷ, Táu muối nhiều nơi đã mọc thuần loại
-càng xuống phía Nam các lồi phương Nam -càng chiếm ưu thế rõ rệt như Gụ, Huỹnh
(Quảng Bình) và Kiền Kiền, Vên Vên ở Trị Thiên, cũng có nơi tạo thành quần hợp. Tuy
nhiên, do khí hậu cịn chịu ảnh hưởng của front cực và gió mùa đơng bắc mà Lim,
Trám, Ngát cũng chiếm tỷ lệ tổ thành loài cao. Những lồi rụng lá mùa khơ từ luồng Ấn
Độ - Mianma đến như Thung, Gạo, Chò xanh, Lõi thọ cũng phổ biến.


<i>Về động vật:</i> Tính chất nhiệt đới phương Nam thể hiện các lồi có giá trị như Voi, Bị
tót, Tê giác, Hươu sao, Voọc chà vá, Hổ, Nai, Hoẵng, Chẹo; các lồi chim như Trĩ sao,
Gà lơi, Gà lôi lam mào trắng, Gà lôi trắng đuôi ngắn, Gà lơi lam mào đen.


<b>11.3. SỰ PHÂN HỐ CỦA MIỀN THÀNH CÁC KHU ĐỊA LÝ TỰ NHLÊN</b>


Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ có sự phân hố phức tạp hơn so với miền Bắc và Đông
Bắc Bắc Bộ.



Tuy cũng nằm trong đại địa máng Đông Dương nhưng phần địa máng Tây Bắc và địa
máng Trường Sơn cũng khác nhau về tính chất và lịch sử phát triển. Hồng Liên Sơn là
khu vực núi cao đồ sộ, tách biệt với các khu vực xung quanh. Dải Trường Sơn Bắc Việt
Nam về căn bản là sườn Đơng dốc đứng, đón gió mùa đơng bắc mạnh. Cịn hệ thống
sơn ngun đá vơi và đồi núi Tây Bắc lại cấu tạo theo dạng dải, chạy song song theo
hướng Tây Bắc - Đông Nam.


Nền nhiệt độ trong miền nhìn chung cao như nhau, nhưng ở Tây Bắc có cơ chế phơn
mùa Đơng, mưa mùa hạ. Cịn Bắc Trung Bộ lại có cơ chế phơn mùa hạ và mưa vào thu
- đông. Các luồng sinh vật phương Nam, phương Bắc và phía Tây cũng gặp nhau ở đây
nhưng tùy nơi mà tỷ lệ các loài phân bố có khác nhau. Chính do những đặc điểm tự
nhiên khác nhau nên miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ được phân chia thành 5 khu địa lý
tự nhiên: khu Hồng Liên Sơn, khu Tây Bắc, khu Hịa Bình - Thanh Hố, khu Nghệ
Tĩnh và khu Bình Trị Thiên (Đặc điểm tự nhiên các khu địa lý xem Địa lý Tự nhiên
Việt Nam, phần Khu vực của Vũ Tự Lập, 2001).


<b>11.4. HƯỚNG SỬ DỤNG KINH TẾ CỦA MIỀN</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

- Thảm thực vật rừng rất phong phú và đa dạng do hợp lưu của nhiều luồng phương
Bắc, phương Nam và phía Tây. Trong rừng có nhiều loại gỗ q như Gụ, Lim, Lát hoa,
Kiền Kiền, Sến, Táu, Pơmu, Thiết sam, Tô hạp, Sa mu, đặc biệt là ở các khu Nghệ
Tĩnh, Bình Trị Thiên rừng cịn tốt, trữ lượng cao nên có năng lực khai thác để chế biến
xuất khẩu.


- Trong miền có tiềm năng đất nơng nghiệp lớn, đặc biệt là đất nâu thẩm trên đá vôi
(Sơn La), đất đỏ trên bazan ở Phú Quỳ (Nghệ An), Như Xuân (Thanh Hoá), Do Linh,
Vĩnh Linh, Cam Lộ, Hướng Hoá (Quảng Trị) và đất đỏ vàng trên sa phiến, đất phù sa
cổ đã cho khả năng phát triển và mở rộng diện tích trồng các loại cây cơng nghiệp dài
ngày (cao su, cà phê, chè, hồ tiêu) và nhiều đồng cỏ phát triển chăn nuôi đại gia súc.


Đất phù sa đồng bằng Thanh Hố (rộng thứ ba tồn quốc) cũng là vựa thóc lớn của Bắc
Trung Bộ.


- Với đường bờ biển dài khoảng 800km kéo dài từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên Huế, nơi
gặp gỡ của hai hệ thống dòng biển Đông Bắc và Đông Nam nên cũng là nơi hợp lưu
của nhiêu loài cá phương Bắc và phương Nam, vì vậy tiềm năng đánh bắt các lồi cá
ngon (chim, thu, nụ, nghé), các lồi tơm hùm, tơm biển, các loại mực có giá trị xuất
khẩu, và cũng là miền nuôi trồng thủy - hải sản xuất khẩu lớn do có một hệ thống đầm
phá rộng kéo dài đặc biệt là ở Thừa Thiên Huế( lớn nhất Đông Nam Á khoảng
23.000ha)


2. Thế mạnh thứ hai của miền là tiềm năng phát triển thủy điện. Các sơng đều có độ dốc lớn
ở miền núi và trung du, chảy qua các đá khác nhau, tạo nhiều thác ghềnh, do đó trên sơng
nào cũng có khả năng phát triển thủy điện, đặc biệt là trên sông Đà đã xây dựng nhà máy
thủy điện Chợ Bờ (Hịa Bình) với cơng suất gần 2 triệu KW và đang xúc tiến xây dựng nhà
máy thủy điện Sơn La với công suất gần 3 triệu KW, nhà mỏy thuỷ điện Bản Mai ( Nhên An
)công xuất 350.000kw, Rào Qốn (Quảng trị) cơng xuất 70000kw...


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

vườn quốc gia như Hoàng Liên ( Lào Cai),Bến En ( Thanh Hoỏ ) Pự Mỏt (<b>N</b>ghệ An),
Vũ Quang (Hà Tĩnh), Phong Nha- Kẽ Bàng (Quảng Bình), Bạch Mã(Thừa Thiờn
Huế) ...Tất cả cho tiềm năng phát triển mạnh các loại hình du lịch - nghỉ dưỡng, nghiên
cứu khoa học, du lịch sinh thỏi .


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Chương 12



<b>MIỀN NAM TRUNG BỘ VÀ NAM BỘ</b>



Vượt qua dãy núi giữa Thừa Thiên Huế và Quảng Nam - Đà Nẵng ở đèo Hải Vân, ta
sang miền tự nhiên thứ ba của đất nước, miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ, nơi diễn ra
kết quả tác động của xứ địa lý Đơng Dương và đới rừng gió mùa á xích đạo, có diện


tích khoảng 164.364km2<sub>.</sub>


<b>12.1. ĐẶC ĐIỂM TỔNG QUẢT CHUNG CỦA MIỀN</b>


1.Đây là phạm vi của địa khối Kontum, bộ phận khiên của địa khối Indơxini rộng lớn
trong lịng đại địa máng Đơng Dương. Địa máng rìa phía Nam của địa khối Kontum
cũng được kết thúc vào Cacbon sớm trong vận động Hecxini. Vì thế, trong miền rất
nhiều đá biến chất, đá granit xâm nhập và đá phun trào riơlit, đaxit, cịn đá vơi thì hiếm
mà phần lớn lại biến chất.


2.Đặc điểm hoạt động tân kiến tạo được nâng lên khá cao nhưng nâng muộn vào các
chu kỳ diễn ra ở đầu Đệ tứ, đồng thời lại được nâng theo dạng khối, dôc các đứt gãy
hướng Tây, Tây Bắc - Đông, Đông Nam, và nâng mạnh ở hai đầu (Kontum thượng và
Lâm Đồng) và hạ thấp tương đối ở giữa (ĐăkLăk), đồng thời có sụt lún bù trừ tạo điều
kiện cho sự hình thành đồng bằng Nam Bộ rộng lớn và phun trào bazan trên phạm vi
rộng lớn nhất ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, tạo thành các cao nguyên bazan và đồng
bằng cao rộng lớn.


3. Đặc trưng của nền khí hậu là khơng cịn tháng nào trong năm có nhiệt độ dưới 200<sub>C.</sub>


Tổng nhiệt độ năm từ Quy Nhơn trở vào đạt trên 9.5000<sub>C, thời gian hai lần Mặt trời qua</sub>


thiên đỉnh dài (Cà Mau đến 5 tháng), trong năm nhiệt độ và lượng mưa có hai lần cực
đại và hai lần cực tiểu. Tất cả các chỉ tiêu đó đều phù hợp và đặc trưng của khí hậu xích
đạo. Tuy nhiên do cịn chịu ảnh hưởng của gió mùa Đơng Bắc, front cực có thể tác
động đến Quảng Ngãi nên làm cho biên độ nhiệt năm từ Bình Định trở ra có thể trên
50<sub>C và càng về Nam lại biểu hiện mùa mưa, mùa khô rõ, vì vậy miền thuộc khí hậu á</sub>


xích đạo.



</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<b>12.2. ĐẶC ĐIỂM CÁC HỢP PHẦN TỰ NHIÊN</b>


<b>12.2.1. Địa chất</b>


Lịch sử địa chất của miền là lịch sử của khối nhơ Kontum và địa máng Hecxini ở rìa
phía Nam của nó.


- Khối nhơ Kontum bao gồm các đá granit bị nghiền nát, đá gnai và đá phiến mica.
- Cấu trúc vòng cung Hecxini Nam Trung Bộ hầu như bị granit hố tồn bộ, các vật liệu
trầm tích chỉ còn lại một số đá phiến bị biến chất yếu.


- Vào Triat muộn đến Jura miền võng Bắc khối nhơ Kontum hoạt động mạnh với lớp
trầm tích dày.


- Các thành tạo trẻ hơn nữa trong phạm vi khối nhô Kontum là phun trào bazan và các
bơi tích sơng hay biển vụn bở. Các lớp phụ bazan dày chiếm diện tích rộng lớn nằm ớ
phía Nam khối Kontum, ở miền võng Đông Nam Bộ. Thời gian phun trào bazan từ cuối
Neogen sang đầu Đệ Tứ.


- Rãnh Nam Bộ là một cấu trúc đặc biệt của lớp phủ địa khối Inđôxini, chạy theo hướng
á kinh tuyến từ miền Đông Nam Bộ đến phía Nam ĐăkLăk, từ đó lại đi ngang ra biển,
ơm lấy rìa phía Tây Bắc và Tây của nếp uốn Hecxini Nam Trung Bộ. Các đá lộ ra ở đây
phổ biến là cuội kết, sa thạch và diệp thạch tuổi Cacbon muộn - Pecmi (C3-P).


- Vận động tân kiến tạo vào Tân sinh đại, một mặt nâng cao các khu vực thuộc khối
Kontum Hecxini Nam Trung Bộ, một mặt lại tạo các vùng trũng Tân sinh rộng lớn
-vùng trũng sông Mê Kông nằm ở hạ lưu sông kéo dài gần 700km từ phía trên Biển Hồ
cho đến biển Đông. Vùng trũng được lấp đầy bởi aluvi cổ và hiện đại của sơng Mê
Kơng, có bề dày trầm tích rất lớn (lỗ khoan ở Gị Cơng sâu 387m mà vẫn chưa xuyên
qua hết lớp trầm tích Đệ Tứ).



<b>12.2.2. Địa hình</b>


- Các khu vực núi trong miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ có xen kẽ các sơn nguyên và
cao nguyên. Các núi thường là núi xâm nhập granit, sơn nguyên thấy lại các bề mặt san
bằng cổ và cao nguyên thì cấu tạo từ phun trào bazan.


- Núi cũng khá cao tới trên dưới 2.000m và thường có hướng gần Bắc - Nam như
Kontum thượng và dãy Bình Định, hướng Đông Bắc - Tây Nam như núi ở thượng du
Khánh Hòa và cực Nam Trung Bộ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

- Sự không đối xứng ở hai sườn Đông và Tây, sự nâng lên không đồng đều: cao ở hai
đầu (ở Kontum thượng và cực Nam Trung Bộ), thấp ở giữa (ĐăkLăk) đã tạo nên ba hệ
thống sông khác nhau. Sơng dun hải Trung Bộ ngắn có lũ lớn vào thu - đông, sông đổ
về lưu vực sông Mê Kông thường dài và lũ về mùa hạ, còn hệ thống sông Đồng Nai
-Sông Bé đi thẳng từ vùng núi cực Nam Trung Bộ xuống miền Đông Nam Bộ đổ ra biển
Đông.


- Nam Bộ Việt Nam là một khu vực đồng bằng mênh mông - khu Đông Nam Bộ phát
triển trên rãnh Nam Bộ cũ, được nâng yếu thành một bán bình ngun phù sa cổ cao
100m, trên có phủ lớp đất đỏ bazan dày ở nhiều nơi tạo thành các bỏn bỡnh nguyên
cao trên 200m. Khu vực Tây Nam Bộ là châu thổ thấp của các sông Cửu Long - Vàm
Cỏ (độ cao trung bình 2m trên mực biển), hình thành tại miền võng chồng Tân sinh đại.
Các vận động nâng lên vào kỷ Đệ Tứ tạo điều kiện hình thành các bậc thềm sơng, thềm
biển nằm ở những độ cao khác nhau (100 - 40 - 25 - 15 - 10 và 4-5 m).


<b>12.2.3. Khí hậu</b>


- Nói chung khí hậu miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ mang tính chất á xích đạo, nhưng
do cấu trúc sơn văn phức tạp, đồng thời do tác động tương hỗ giữa địa hình và hồn lưu


gió mùa mà nền á xích đạo cũng bị phức tạp hố từ Bắc đến Nam, từ Đơng sang Tây, từ
cao xuống thấp.


Gió mùa Đơng Bắc cịn tác động đến Quảng Ngãi với tần suất trung bình 3,5lần/năm
quyết định tính chuyển tiếp của khu vực Kontum - Nam Ngãi. Ở đây mùa mưa có kéo
dài sang thu - đông, nhiệt độ tối thiểu tuyệt đối ở Đà Nẵng xuống 110<sub>C, Quảng Ngãi</sub>


12,80<sub>C, và chỉ từ Quy Nhơn trở vào mới trên l5</sub>0<sub>C. </sub>


Từ Quy Nhơn, nhiệt độ trung bình năm trên 260<sub>C và tổng nhiệt độ năm trên 9.500</sub>0<sub>C.</sub>


Từ thành phố Hồ Chí Minh nhiệt độ tháng lạnh nhất không dưới 250<sub>C, quanh năm là</sub>


mùa hạ, biên độ nhiệt năm khoảng 30<sub>C.</sub>


Tính chất á xích đạo cịn thể hiện ở sự xuất hiện hai cực đại và hai cực tiểu không cân
đối. Nhiệt độ cao nhất không phù hợp với Mặt trời qua thiên đỉnh mà diễn biến liên
quan đến chế độ mùa. Tháng nóng nhất tuyệt đối vào cuối mùa khơ (tháng IV hay tháng
V), cịn tháng nóng nhất tương đối thì rơi vào tháng có lượng mưa thấp nhất tương đối
trong mùa mưa (tháng VIII). Tháng mưa nhiều nhất tương đối có quan hệ với sự hoạt
động của đường hội tụ nhiệt đới (tháng VII và IX). Tháng mưa thấp nhất tuyệt đối là
tháng I và II là thời gian có chế độ gió mùa mùa đơng mạnh nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Từ l.000m trở lên, nhiệt độ trung bình năm xuống dưới 200<sub>C, nhiệt độ tháng lạnh nhất</sub>


có thể xuống dưới l80<sub>C và tổng nhiệt độ năm xuống dưới 7.500</sub>0<sub>C. Cũng như đai dưới</sub>


chân núi, từ phía Nam mũi Nạy thì biên độ nhiệt năm mới thể hiện tính điều hịa của khí
hậu xích đạo (Di Linh 3,20<sub>C, Đà Lạt 3,4</sub>0<sub>C).</sub>



- Sự phân hố Đơng - Tây chủ yếu tác động đến chế độ mưa. Do sự tác động tương hỗ
giữa sườn Đơng của Trường Sơn Nam và gió tín phong Đơng Bắc mà cho đến hết Ninh
Thuận có mùa mưa nghiêng về thu - đơng, nhưng từ Bình Thuận có mùa mưa lại giống
như ở Nam Bộ (từ tháng V-X). Cịn lại sườn Tây mùa mưa khớp với mùa gió Tây Nam
(cũng từ tháng V-X).


Tựu trung lại, sự phân hoá khơng gian tùy thuộc vào vị trí và địa hình. Tồn miền có
thể chia ra ba khu vực khí hậu khác nhau: khu vực Đông Trường Sơn Nam kéo dài từ
Quảng Nam - Đà Nẵng đến Ninh Thuận có mùa mưa nghiêng về thu - đơng, có mùa
khơ khơng sâu sắc; khu vực Tây Nguyên (Tây Trường Sơn) có mùa mưa từ tháng V-X,
có mùa khơ sâu sắc, chế độ nhiệt mang tính á nhiệt đới trên núi nhưng biên độ nhiệt
thấp (từ 3 - 60<sub>C); khu vực từ Bình Thuận đến Nam Bộ có mùa mưa từ tháng V-X, mùa</sub>


khơ sâu sắc, chế độ nhiệt mang tính chất xích đạo.
<b>12.2.4. Thủy văn</b>


Trong miền có ba hệ thống sơng ngịi chính, đó là hệ thống các sơng dun hải Nam
Trung Bộ, hệ thống Đồng Nai - Sông Bé ở Đông Nam Bộ và hệ thống sơng Cửu Long,
có chế độ thủy văn khác nhau.


- Hệ thống các sơng dun hìi Nam Trung Bộ có mùa cạn từ tháng II - VIII, mực nước
cạn nhất rồi vào tháng VII hay VIII (cuối mùa khô). Mùa lũ từ tháng IX-XII nhưng tập
trung nhất vào tháng X-XI, và đa số các vùng có tháng lũ lớn nhất là tháng XI.


- Tại lưu vực hệ thống Đồng Nai - Sông Bé, hệ thống sông ngòi phức tạp hơn do nguồn
ở cả hai sườn khối núi cực Nam Trung Bộ nên tháng lũ cực đại trong lưu vực xảy ra từ
tháng IX-XII, còn các tháng cạn cũng từ tháng III - VIII tùy từng nơi.


- Đối với lưu vực sông Mê Kông, ở các phụ lưu từ Tây Nguyên đổ xuống có mực nước
cao nhất xảy ra từ tháng X-XI, còn mực nước thấp nhất đo được vào các tháng IV-V.


<b>12.2.5. Thổ nhưỡng - sinh vật</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

rừng gió mùa á xích đạo. Nói chung trong miền chia làm hai đai cao là đai rừng gió
mùa chân núi á xích đạo và đai á nhiệt đới trên núi.


- Đai rừng gió mùa á xích đạo chân núi lên cao đến l .000m.


Về thực vật thường là các loại cây thân gỗ phương Nam như Sao đen, Cà chắc, Cẩm xe,
Gụ, Săng lẻ lên cao 800m, Dầu Trà beng lên cao 900m.


Thảm thực vật rừng rậm nhiệt đới xanh quanh nam ở Nam Trung Bộ thường gặp các
loài cây họ Dâu cao to như Sao đen, Dầu rái, Kiền Kiền, Vên Vên, Huỷnh, Lát hoa,
Dỗi, Dáng hương, Cẩm lai, Trắc, Mun. . .


Tuy nhiên, ở độ cao 600- l .000m biểu hiện sự chuyển tiếp lên đai á nhiệt đới vì ở đây
mọc xen rất nhiều thuộc lồi họ Dẻ, Re.


Tại châu thổ sông Cửu Long rừng nước mặn chiếm một diện tích rộng lớn (329.000ha)
với rừng Đước - Vẹt thuần loại, cây cao 20-30m, đường kính 30-40cm.


Trên đất phèn ở phía sau rừng Sú, Vẹt phát triển rừng Tràm (tập trung ở U Minh) chiếm
hơn 100.000 ha, cây cao đến 20m.


Về động vật trong miền gặp nhiều loài thú lớn như Voi, Hư, Bò rừng, Trâu rừng, Hươu,
Nai. Đặc biệt có một số lồi đặc hữu như con Giốc, Minh (lồi Bị tót cao l,8- l,9 m).


- Trong đai rừng á nhiệt đới trên núi có Thơng ba lá mọc thuần loại chiếm diện tích lớn
(90.000ha), riêng ở Đà Lạt chiếm 70.000ha, một số loài Đỗ qnyên và Chua nem,
Thông nàng, Kim giao. . . Trên núi cao 2.000m gặp Pơmu, Thông năm lá, Thông lá dẹt,
Thông lá lưỡi liềm. Còn trên các đỉnh núi cao gặp Pơmu cằn, cây bụi họ Đỗ quyên và


Chua nem, Dề lá có lơng, Tre, Trúc lùn.


<b>12.3. Sự phân hố của miền thành các khu tự nhiên</b>


Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ là miền rộng lớn nhất. Vì thế, bên cạnh những đặc
điểm chung bởi lịch sử phát triển và tính địa đới, trong miền có sự khác nhau các điều
kiện tự nhiên rõ nét. Cụ thể, về mặt dịa chất - kiến tạo có thể phân biệt rõ ra ba khu vực
lớn : khối nhô Kotum của nền mêng tiền Cambri, khu vực tạo sơn Hecxini và khu vực
sụt lún Tân sinh đại . Trong giai đoạn tân kiến tạo, cưịng độ nâng lên cũng khơng đều ơ
các nơi. Tất cả đã dẫn các dạng địa hỡnh nỳi (nỳi cao, nỳi trung bỡnh, nỳi thấp), đồi,
đồng bằng , đồng bằng ven biển và châu thổ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

của gió mùa đơng bắc nên biên độ nhiệt năm cịn cao và mùa mưa rơi vào thu - đơng.
Khí hậu có tính chất xích đạo chỉ được biểu hiện từ cực Nam Trung Bộ trở xuống.
Từ những đặc điểm phân tích trên, khu cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ được phân chia
ra năm khu địa lý tự nhiên: khu Kontum - Nam Ngãi, khu ĐăkLăk - Bình Phú, khu
cực Nam Trung Bộ, khu Đông Nam Bộ và khu Tây Nam Bộ. (Đặc điểm tự nhiên của
mỗi khu địa lý xem Địa lý Tự nhiên Việt Nam, Phần Khu vực của Vũ Tự Lập, 2001).
<b>12.4. Hướng sử dụng kinh tế của miền</b>


Tiềm năng to lớn của miền cho phép phát triển mạnh mẽ một nền kinh tế toàn diện.


1.<b>Trước hết phát triển một nền kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp hồn chỉnh</b>.


<i><b>-</b>Về nơng nghiệp,</i> với hơn 2 triệu ha đất đỏ bazan và nhiều loại đất tốt như phù sa cổ,
phù sa mới ở đồng bằng Nam Bộ cùng với khí hậu thích hợp là cơ sở vững chắc cho mở
rộng chuyên canh các cây công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su, chè, dâu tằm, quế,
hồ tiêu và các cây công nghiệp ngắn ngày như bông, nho, đồng thời trong miền phát
triển nhiều đồng cỏ tự nhiên trên các cao - sơn nguyên cho khả năng phát triển chăn
nuôi đại gia súc. Bên cạnh đó, đồng bằng châu thổ sơng Cửu Long rộng lớn (trên


40.000km2<sub>) là vựa thóc lớn nhất cả nước và phát triển các rừng dứa bạt ngàn.</sub>


<i><b>-</b>Về lâm nghiệp,</i> rừng còn phong phú, diện tích rừng giàu cịn chiếm tỷ lệ cao với nhiều
loài gỗ quý như Cẩm lai, Gụ, Cà chắc, Trắc, Mun, Kiền Kiền, Sao, Giỗi, Thông nàng,
Thông ba lá, Pơ mu... cho khả năng phát triển công nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu lớn
nhất so với cả nước.


<i><b>-</b>Về ngư nghiệp,</i>có bờ biển dài hơn l.000km với nhiều lồi cá ngon cho sản lượng đánh
bắt hàng năm lớn, đồng thời có nhiều vũng tốt như vũng Đà Nẵng, vũng Rơ, vũng Cam
Ranh, vũng Hịn Khơi đều là các trung tâm nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản lớn.


2. <b>Phát triển mạnh kinh tế du lịch:</b> Dọc bờ biển có nhiều bãi tắm đẹp, nổi tiếng như


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

(Đồng Nai) cũng đóng vai tr ũ rất to lớn trong hỡnh thành cỏc tuyến khu du lịch ở miền
Nam Trung bộ và Nam


3.Tiếp đến là tiềm năng thủy điện: Các sơng ngịi trong miền có lượng nước lớn, độ dốc
dòng chảy lớn nên đã tạo nhiều thác ghềnh do đó trên sơng nào cũng có khả năng xây
dựng các nhà máy thủy điện. Nổi bật nhất trong miền đã xây dựng nhiều nhà máy thủy
điện lớn như :Trị An(Đồng Nai); 400.000 KW, Đa Nhim(Lõm Đồng);160.000 KW,
Yali( Gia Lai); 720.000 KW, Thác Mơ(Bỡnh Phước); 150.000 KW, sông Hinh
(PhỳYờn) 70.000 KW, Hàm Thuận( Bỡnh Thuận);300000kw; và đang xây dựng;
Avương(QuóngNam);200.000kw, SụngBa Hạ(Pỳ Yờn);220.000kw...


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<b>TÀL LIỆU SỬ DỤNG CHÍNH</b>



1. Vũ Tự Lập (1978). Địa lý Tự nhiên Việt Nam - Tập I, II. NXB Giáo dục. Hà
Nội


2. Vũ Tự Lập. (l 995) Địa lý Tự nhiên Việt Nam - Tập I, II. NXB Giáo dục. Hà


Nội


3. Vũ Tự Lập(2004) Địa lý Tự nhiên Việt Nam. NXB ĐạI học sư phạm HN,HN
4. Vũ Tự Lập(1976) Cảnh quan địa lý miền Bắc Việt Nam. NXB Khoa học
và Kỹ thuật. Hà Nội,


5. Lờ bỏ Thảo (2002). Thiờn nhiờn Việt Nam .NXBGD.HN.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×