Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Vấn đề ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước trong tình trạng khẩn cấp: Tham chiếu từ dịch bệnh Covid-19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.57 KB, 16 trang )

Hội thảo Khoa học
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn”

VẤN ĐỀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG TÌNH TRẠNG
KHẨN CẤP: THAM CHIẾU TỪ DỊCH BỆNH COVID-19
PROMULGATION OF LEGAL NORMATIVE DOCUMENTS OF STATE
AGENCIES IN A STATE OF EMERGENCY: REFERENCE FROM
COVID’S EPIDEMIC-19
TS. Cao Vũ Minh1
Tóm tắt – Tình trạng khẩn cấp là trạng thái xã hội đang lâm vào khủng
hoảng nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân tác động, đe dọa sự sống còn của quốc
gia. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong tình trạng khẩn cấp có ý
nghĩa to lớn nhằm kích hoạt mọi biện pháp cần thiết để ứng phó với tình trạng
cực kì khó khăn, nguy hiểm mà đất nước đang gánh chịu. Bài viết phân tích hoạt
động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước trong tình
trạng khẩn cấp và đề xuất giải pháp hồn thiện.
Từ khóa: dịch bệnh Covid-19, tình trạng khẩn cấp, văn bản quy phạm
pháp luật.
1. THẨM QUYỀN BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
TRONG TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hình thức chủ yếu
nhất trong các hình thức hoạt động của cơ quan nhà nước. Nói cách khác, văn bản
quy phạm pháp luật là phương tiện không thể thiếu để thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của các cơ quan nhà nước. Theo Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), thẩm quyền ban hành văn bản quy
phạm pháp luật ở nước ta như sau:
Văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành: Hiến pháp, Bộ luật,
Luật (gọi chung là Luật), Nghị quyết;
Văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành:
Pháp lệnh, Nghị quyết;


Văn bản quy phạm pháp luật do Chủ tịch nước ban hành: Lệnh, Quyết định;

1

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; Email:

349


Hội thảo Khoa học
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn”

Văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành: Nghị định;
Văn bản quy phạm pháp luật do Thủ tướng Chính phủ ban hành:
Quyết định;
Văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao ban hành: Nghị quyết;
Văn bản quy phạm pháp luật do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
ban hành: Thông tư;
Văn bản quy phạm pháp luật do Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành:
Quyết định;
Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch: Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban
Thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam; Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Đồn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Thông tư liên tịch
giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Không
ban hành thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân các cấp ban hành:

Nghị quyết;
Văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban nhân dân các cấp ban hành:
Quyết định.
Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành
chính – kinh tế đặc biệt.
Dưới góc độ pháp lí, “tình trạng khẩn cấp” (state of emergency) là tình
huống cho phép chính quyền có thể ban hành những chính sách hoặc thực hiện
những hành động mà thông thường không được phép thực hiện, nhân danh lợi ích
cơng cộng. Tình trạng khẩn cấp có thể được tuyên bố khi đất nước lâm vào hoàn
cảnh chiến tranh, xung đột vũ trang, thiên tai, thảm họa, dịch bệnh hoặc những
nguyên nhân khác đe dọa sự sống cịn của quốc gia. Khi tun bố tình trạng khẩn
cấp, chính quyền sẽ thiết lập một hệ thống các biện pháp ứng xử nhằm ứng phó
với tình huống cực kì nguy hiểm hoặc khó khăn.
Hiện nay, ở nước ta, văn bản quy định cụ thể về tình trạng khẩn cấp là
Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000 do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban
hành. Trên cơ sở Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 71/2002/NĐ-CP ngày 23/7/2002 quy định chi tiết tình trạng
khẩn cấp trong trường hợp có thảm họa lớn, dịch bệnh nguy hiểm. Như vậy, theo
Nghị định số 71/2002/NĐ-CP thì có tình trạng khẩn cấp về thảm họa lớn và tình
trạng khẩn cấp về dịch bệnh nguy hiểm.
350


Hội thảo Khoa học
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn”

Ngồi tình trạng khẩn cấp về thảm họa lớn và tình trạng khẩn cấp về dịch
bệnh nguy hiểm, Luật Quốc phòng năm 2018 có quy định tình trạng khẩn cấp về
quốc phòng. Luật An ninh quốc gia năm 2004 quy định tình trạng khẩn cấp về an
ninh quốc gia. Tương tự, Luật Phòng, chống thiên tai năm 2013 và Nghị định số

160/2018/NĐ-CP ngày 29/11/2018 quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật phòng, chống thiên tai xác định thêm tình trạng khẩn cấp về thiên
tai. Như vậy, căn cứ vào ngun nhân, mục đích, nguồn gốc thì có thể chia tình
trạng khẩn cấp thành 05 dạng: i. tình trạng khẩn cấp về quốc phịng; ii. tình trạng
khẩn cấp về an ninh quốc gia; iii. tình trạng khẩn cấp về thiên tai; iv. tình trạng
khẩn cấp về thảm họa; v. tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh.
Qua phân tích trên, chúng ta có thể thấy, tình trạng khẩn cấp là trạng thái
xã hội đang lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân tác động,
đe dọa sự sống cịn của quốc gia. Do đó, nhằm bảo vệ đất nước; bảo đảm lợi ích
cơng cộng; bảo vệ tính mạng, tài sản của cá nhân, tổ chức, các cơ quan có thẩm
quyền đã thiết lập những biện pháp, quy tắc ứng xử đặc biệt mà trong điều kiện
thông thường khơng được phép thực hiện. Khi xảy ra tình trạng khẩn cấp, các cơ
quan, chủ thể có thẩm quyền sẽ ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong tình trạng khẩn cấp.
Theo Khoản 13, Điều 70 Hiến pháp năm 2013 và Khoản 3, Điều 17 Luật
Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Quốc hội Việt Nam là
chủ thể duy nhất có quyền ban hành văn bản quy định về tình trạng khẩn cấp. Khi
quy định về tình trạng khẩn cấp thì Quốc hội sẽ sử dụng hình thức văn bản quy
phạm pháp luật là nghị quyết [1]. Căn cứ vào quy định về tình trạng khẩn cấp của
Quốc hội, khi có những tình huống đã được dự liệu phát sinh trên thực tế, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội sẽ ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa
phương (Khoản 10, Điều 74 Hiến pháp năm 2013) theo đề nghị của Thủ tướng
Chính phủ [2]. Khi ban bố tình trạng khẩn cấp, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ sử
dụng hình thức văn bản quy phạm pháp luật là nghị quyết [1]. Trên cơ sở nghị
quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước sẽ ban hành văn bản quy
phạm pháp luật để cơng bố tình trạng khẩn cấp.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trên thực tế Ủy Ban thường
vụ Quốc hội có thể khơng kịp thời ban bố tình trạng khẩn cấp. Điều này làm cho
khả năng ứng phó của đất nước trở nên chậm chạp. Dự liệu được khả năng trên,
Hiến pháp năm 2013 quy định cho Chủ tịch nước có quyền ‘cơng bố tình trạng

khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương trong trường hợp Ủy ban
Thường vụ Quốc hội không thể họp được’ (Khoản 5, Điều 88 Hiến pháp năm
2013). Đáng tiếc, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2020) không quy định cụ thể Chủ tịch nước sẽ sử dụng hình thức văn
bản là lệnh hay quyết định [1].

351


Hội thảo Khoa học
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn”

Khi Chủ tịch nước đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật để cơng bố tình
trạng khẩn cấp, Chính phủ sẽ ban hành văn bản quy phạm pháp luật là nghị định
để ‘thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần
thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân’ (Khoản
3, Điều 96 Hiến pháp năm 2013). Đến lượt mình, những chủ thể khác như Thủ
tướng Chính phủ; Bộ trưởng; Hội đồng nhân dân các cấp, Ủy ban nhân dân các
cấp… sẽ ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong tình trạng khẩn cấp.
2. THỰC TRẠNG BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA
CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP
Thứ nhất, các văn bản quy phạm pháp luật quy định về tình trạng khẩn cấp
khơng thống nhất, cịn mang tính tản mạn.
Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung
năm 2020), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2020) chỉ quy định về “tình trạng khẩn cấp” nói chung mà khơng có sự
phân chia thành các lĩnh vực của tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, sự không nhất
quán về tư duy lập pháp phát sinh khi các văn bản pháp luật khác như Luật Quốc
phòng năm 2018, Luật An ninh quốc gia năm 2004, Luật Phòng, chống thiên tai

năm 2013, Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, Pháp lệnh Tình trạng
khẩn cấp năm 2000 lại phân chia thành “tình trạng khẩn cấp về quốc phịng”,
“tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia”, “tình trạng khẩn cấp về thảm họa
lớn”, “tình trạng khẩn cấp về thiên tai”, “tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh”.
Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) dường như cũng
có sự phân biệt đó khi chỉ thừa nhận “tình trạng khẩn cấp về quốc phịng”. Cụ
thể, Khoản 4, Điều 18 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2019) quy định 'Chính phủ tổ chức thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên
cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết để bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân’. Khoản 4 này nằm trong Điều
18 mà tên của Điều 18 là Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong quản lí về
quốc phịng. Như vậy, “ngụ ý” của nhà làm luật tại Khoản 4, Điều 18 là chỉ hướng
đến nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong tình trạng khẩn cấp về quốc
phịng.
Trên thực tế phải nhận thấy rằng tình trạng khẩn cấp có ngun nhân từ
nhiều lí do khác nhau như chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh. Do đó, việc phân chia
thành các loại tình trạng khẩn cấp khác nhau là có cơ sở. Tuy nhiên, pháp luật
Việt Nam thiếu hẳn những căn cứ cụ thể để phân chia tình trạng khẩn cấp thành
những loại khác nhau. Hiện nay, việc phân chia tình trạng khẩn cấp mang tính cơ
học, thiếu sự nghiên cứu, đầu tư bài bản, từ đó dẫn đến sự chồng lấn, mâu thuẫn
giữa các quy phạm điều chỉnh.
352


Hội thảo Khoa học
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn”

Đơn cử, Luật Quốc phịng năm 2018 khơng chỉ quy định tình trạng khẩn cấp
về quốc phịng mà cịn điều chỉnh cả tình trạng khẩn cấp về thảm họa với tính chất
là hệ quả của tình trạng khẩn cấp về quốc phịng. Luật An ninh quốc gia năm 2004

điều chỉnh tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia nhưng lại có nhiều nét tương
đồng, trùng lắp với tình trạng khẩn cấp về quốc phịng. Cụ thể, một tình huống
xảy ra trên thực tế có thể là nguyên nhân dẫn đến tình trạng khẩn cấp về quốc
phịng hoặc tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia (tình trạng bạo loạn có vũ
trang). Cả tình trạng khẩn cấp về quốc phịng hoặc tình trạng khẩn cấp về an ninh
quốc gia đều có thể có tính chất nguy hiểm và đều có thể ảnh hưởng nghiêm trọng
đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Một điều
khơng thể phủ nhận là khi đất nước ‘có nguy cơ trực tiếp bị xâm lược hoặc đã xảy
ra hành vi xâm lược hoặc bạo loạn có vũ trang’ (tình trạng khẩn cấp về quốc
phòng) đều dẫn đến hệ quả là ‘đe dọa độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc trong tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia’ (tình trạng
khẩn cấp về an ninh quốc gia). Như vậy, xét về nguyên nhân, hậu quả, tính chất,
hai loại tình trạng khẩn cấp này có sự tương đồng nhau. Tuy nhiên, như đã trình
bày, đây lại là hai loại tình trạng khẩn cấp được phân loại khác nhau.
Ngồi Luật Quốc phịng năm 2018, tình trạng khẩn cấp về thảm họa lớn
cũng được điều chỉnh trong Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000 và Nghị
định số 71/2002/NĐ-CP. Tương tự, tình trạng khẩn cấp về thiên tai tuy được quy
định trong Luật Phòng, chống thiên tai năm 2013 và Nghị định số 160/2018/NĐCP nhưng cũng được điều chỉnh một phần trong Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp
năm 2000 và Nghị định số 71/2002/NĐ-CP. Cụ thể, Nghị định số 71/2002/NĐ-CP
có nội dung điều chỉnh vấn đề phân lũ, chậm lũ để giảm bớt hậu quả thảm họa
(Điều 11). Rõ ràng, lũ hay lũ quét là những hiện tượng tự nhiên bất thường có thể
gây thiệt hại về người, tài sản, môi trường, điều kiện sống và các hoạt động kinh
tế, xã hội – tức là thiên tai. Hậu quả của lũ, lũ quét gây ngập lụt, sạt lở đất, sụt lún
đất – tức gây ra thảm họa. Như vậy, tình trạng khẩn cấp về thảm họa lớn cũng có
thể là hậu quả phát sinh từ rủi ro thiên tai ở cấp độ 5 – tức là tình trạng khẩn cấp
về dịch. Bên cạnh đó, tình trạng khẩn cấp về dịch khơng chỉ được điều chỉnh trong
Luật Phịng, chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2007 và Nghị định số
101/2010/NĐ-CP mà cịn được quy định trong Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp
năm 2000 và Nghị định số 71/2002/NĐ-CP với nhiều nội dung khác biệt.
Theo Hiến pháp năm 2013, chỉ có Quốc hội mới có quyền ban hành văn bản

quy định về tình trạng khẩn cấp. Như vậy, việc tiếp tục duy trì hiệu lực của Pháp
lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000 là không hợp pháp và cũng không hợp lí xét
cả ở góc độ nhận thức lẫn q trình tổ chức thực hiện. Bất hợp lí vì pháp lệnh do
Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành sẽ không phản ánh đầy đủ tâm tư, nguyện
vọng của công dân bằng luật – văn bản do cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân
dân cả nước ban hành. Bất hợp pháp vì Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000
lại quy định những vấn đề liên quan trực tiếp đến việc hạn chế quyền con người,
353


Hội thảo Khoa học
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn”

quyền công dân. Quốc hội không được giao và cũng không được duy trì các quy
định hạn chế quyền con người, quyền cơng dân trong các văn bản pháp luật khác
ngồi luật vì chỉ có luật mới là hình thức văn bản được quy định về vấn đề này.
Cũng cần nói thêm là Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000 được ban hành
trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) nên vấn đề hạn chế
quyền con người, quyền công dân bằng quy định của luật chưa được chú trọng
[3]. Hiện nay, Hiến pháp năm 2013 đã thừa nhận nguyên tắc hạn chế quyền con
người, quyền công dân bằng quy định của luật nên không thể tiếp tục duy trì hiệu
lực pháp lí của Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000 – một văn bản có tính
chất hạn chế quyền con người, quyền cơng dân nhưng lại khơng thể hiện dưới
hình thức luật.
Thứ hai, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật để ban bố, cơng
bố tình trạng khẩn cấp khơng được quy định khoa học, có sự nhầm lẫn nghiêm
trọng.
Theo Hiến pháp năm 2013, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban bố tình trạng
khẩn cấp. Sau đó, Chủ tịch nước sẽ cơng bố tình trạng khẩn cấp. Trong trường
hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội khơng thể họp để ban bố tình trạng khẩn cấp,

Chủ tịch nước được quyền chủ động công bố tình trạng khẩn cấp. Như vậy, cơng
bố tình trạng khẩn cấp là thủ tục bắt buộc và thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước.
Trong khi đó, thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp của Ủy ban thường vụ Quốc
hội lại khơng phải là thủ tục mang tính bắt buộc.
Dưới góc độ ngơn ngữ, ban bố (ban: cấp cho, bố: truyền báo) là báo cho
biết để thi hành vấn đề đã được quyết định [4], cịn cơng bố (cơng: chung, bố:
truyền báo) là báo cho mọi người, báo cho cơng chúng biết [5]. Như vậy, ban bố
có nghĩa là quyết định một vấn đề nào đó rồi báo cho chủ thể khác để thi hành.
Trong khi đó, cơng bố chỉ là việc báo tin đến chủ thể khác để biết. Cả ban bố và
công bố đều là báo cho một hay một số chủ thể nào đó biết. Tuy nhiên, sự khác
biệt giữa ban bố và cơng bố cịn ở phạm vi báo tin. Theo đó, ban bố là báo tin
nhưng trong phạm vi hẹp, mang tính nội bộ giữa các cơ quan, tổ chức có mối liên
hệ với nhau. Trong khi đó, cơng bố là báo tin ở phạm vi rộng, công khai cho mọi
người cùng biết [6].
Về ý nghĩa pháp lí, hai thuật ngữ cịn khác nhau ở chỗ, ban bố là thẩm
quyền quyết định, cịn cơng bố chỉ là thẩm quyền mang tính nghi thức. Trong một
số trường hợp khơng có thủ tục ban bố thì cơng bố cũng có thể được xem là đã
bao hàm luôn quyền quyết định. Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban bố tình trạng
khẩn cấp, có nghĩa quyền quyết định thuộc về Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chủ
tịch nước cơng bố tình trạng khẩn cấp, có nghĩa Chủ tịch nước chỉ báo tin một
cách công khai đến mọi cá nhân, tổ chức về tình trạng khẩn cấp do Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã quyết. Ngoại lệ, có trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc
hội không thể họp để ban bố thì Chủ tịch nước sẽ cơng bố tình trạng khẩn cấp.
354


Hội thảo Khoa học
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn”

Trong trường hợp này, quyền công bố của Chủ tịch nước đã hàm chứa ln quyền

quyết định về tình trạng khẩn cấp.
Đáng tiếc, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực hiện nay
khơng quan tâm đến vấn đề này. Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000 và
Nghị định số 71/2002/NĐ-CP sử dụng chung công thức ‘Ủy ban thường vụ Quốc
hội hoặc Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp’. Luật Phòng, chống bệnh
truyền nhiễm năm 2007 cũng đi vào “vết xe đổ” ấy khi quy định: ‘trong trường
hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp ngay được thì Chủ tịch nước ra
lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp’.
Như đã trình bày, ban bố và cơng bố là hai thủ tục khác nhau, có nội hàm
pháp lí khác nhau, do những chủ thể khác nhau và được thể hiện trong những văn
bản quy phạm pháp luật khác nhau nên khơng thể có sự nhầm lẫn. Chủ tịch nước
khơng có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật để ban bố mà chỉ có quyền
cơng bố tình trạng khẩn cấp. Do đó, Khoản 3, Điều 96 Hiến pháp năm 2013 cũng
có điểm khơng chính xác khi quy định: ‘Chính phủ có nhiệm vụ thi hành lệnh
động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp’. Lẽ ra phải là “lệnh cơng bố tình
trạng khẩn cấp” bởi lệnh là hình thức văn bản do Chủ tịch nước ban hành và công
bố chứ không phải là ban bố tình trạng khẩn cấp mới là thủ tục mang tính
bắt buộc.
Thứ ba, hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước để cơng
bố tình trạng khẩn cấp không được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt
Nam.
Như đã trình bày, khi ban bố tình trạng khẩn cấp, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội sẽ ban hành văn bản quy phạm pháp luật với tên gọi là nghị quyết. Tuy nhiên,
pháp luật hiện hành không quy định cụ thể Chủ tịch nước sẽ sử dụng hình thức
văn bản quy phạm pháp luật là lệnh hay quyết định để cơng bố tình trạng khẩn
cấp. Do đó, có ý kiến cho rằng, Chủ tịch nước ban hành hình thức văn bản là
quyết định để cơng bố tình trạng khẩn cấp [7].
Trái ngược với ý kiến này, chúng tôi cho rằng, để cơng bố tình trạng khẩn
cấp, Chủ tịch nước phải ban hành hình thức văn bản là lệnh. Theo Khoản 5, Điều
88 Hiến pháp năm 2013, ‘căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,

Chủ tịch nước ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, cơng bố, bãi bỏ tình
trạng khẩn cấp’. Khoản 6, Điều 19 Luật Quốc phòng năm 2018 quy định: ‘căn cứ
vào nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước ra lệnh bãi bỏ
lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ’. Như vậy, căn cứ vào Điều 88 Hiến
pháp năm 2013, khi cơng bố tình trạng khẩn cấp, tất nhiên, Chủ tịch nước phải
ban hành văn bản quy phạm pháp luật với hình thức lệnh mới có thể đạt hiệu quả
cao. Tuy nhiên, cách giải thích như trên chỉ mang ý nghĩa về mặt học thuật,
nghiên cứu chứ khơng phải quy định chính thức trong các văn bản pháp luật [8].
355


Hội thảo Khoa học
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn”

3. THỰC TRẠNG BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA
CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG DỊCH BỆNH COVID-19
Tính đến 6h sáng ngày 10/10/2020, trên thế giới đã có 215 quốc gia, vùng
lãnh thổ ghi nhận ca mắc Covid-19 (có 37.736.120 triệu người mắc bệnh và cướp
đi sinh mạng của khoảng 1.081.246 triệu bệnh nhân trên thế giới) [9]. Để ứng phó
với dịch bệnh Covid-19, nhiều quốc gia trên thế giới đã tuyên bố tình trạng khẩn
cấp, đồng thời ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí cao
để quy định các biện pháp mạnh mẽ nhằm phòng, chống dịch bệnh nguy
hiểm này.
Tại Việt Nam, ngay sau khi phát hiện ca nhiễm bệnh đầu tiên tại Bệnh
viện Chợ Rẫy, TP. Hồ Chí Minh (ngày 23/01/2020), Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Cơng điện số 121/CĐ-TTg về việc phịng, chống dịch bệnh hơ hấp cấp do
chủng mới của virus Corona gây ra. Liên tiếp các ngày 28/01/2020, 30/01/2020,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 05/CT-TTg, Chỉ thị số 06/CT-TTg,
trong đó quán triệt tinh thần “chống dịch như chống giặc”, huy động cả hệ thống
chính trị vào cuộc để phịng, chống dịch. Tại thời điểm đó, hàng loạt các quy tắc

“khn mẫu” trong Chỉ thị số 16/CT-TTg được nghiêm chỉnh thực hiện nhằm bảo
đảm cho cơng tác phịng, chống dịch Covid-19 [10].
Để bảo đảm quyền của cộng đồng trong hoạt động phòng, chống dịch,
quyền tự do kinh doanh của con người cũng bị hạn chế [11]. Trong bối cảnh đó,
ngày 15/4/2020, Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) ban hành Công văn số 4162/QLDKD về việc tạm dừng xuất khẩu thuốc phòng, chống Covid-19 với nội dung: ‘để
đảm bảo nguồn cung, có dự trữ thuốc phòng, chữa bệnh cho Nhân dân, Cục Quản
lý Dược yêu cầu các đơn vị sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu thuốc tạm dừng việc
xuất khẩu thuốc theo Danh mục thuốc sử dụng trong điều trị Covid-19 ban hành
kèm theo Cơng văn này từ ngày 16/4/2020 đến khi có thơng báo mới của Cục
Quản lý Dược’. Ngoài ra, để ngăn chặn, phòng ngừa, răn đe các vi phạm như:
chống đối, không tuân thủ quy định về cách li; trốn khỏi nơi cách li; từ chối, trốn
tránh việc áp dụng biện pháp cách li, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
ban hành Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 hướng dẫn xét xử tội
phạm liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19.
Ở địa phương, việc ban hành văn bản pháp luật nhằm áp dụng các biện
pháp phòng, chống dịch Covid-19 cũng rất da dạng, như “trăm hoa đua nở”. Đơn
cử, Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương ban hành Quyết định số 2332/QĐ-UBND
ngày 13/8/2020 quy định cả một loạt biện pháp áp dụng tình trạng khẩn cấp trong
phịng, chống dịch Covid-19.
Với sự quyết tâm cả hệ thống chính trị, Việt Nam đã đạt được những kết
quả quan trọng trong việc triển khai phịng, chống dịch Covid-19. Khơng thể phủ
nhận những giá trị tích cực mà các văn bản pháp luật, văn bản chỉ đạo của các cơ
356


Hội thảo Khoa học
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn”

quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương ban hành trong thời gian qua, tuy
nhiên, hoạt động này vẫn cần được nhìn nhận thận trọng dưới góc độ pháp lí.

Thứ nhất, tính đến nay, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa ban bố tình
trạng khẩn cấp, Chủ tịch nước cũng chưa cơng bố tình trạng khẩn cấp nhưng hầu
như tất cả biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh đã được
thực thi. Cụ thể, biện pháp huy động người, huy động cơ sở vật chất, thiết bị y tế,
thuốc, hóa chất, vật tư y tế, cơ sở dịch vụ công cộng, phương tiện giao thông và
các nguồn lực khác để chống dịch đã được thực hiện ở nhiều nơi như Hà Nội, TP.
Hồ Chí Minh [12]. Các biện pháp đặc biệt khác như yêu cầu kiểm tra và xử lí y tế
đối với phương tiện vận tải trước khi ra khỏi vùng có dịch [13]; tổ chức tẩy uế,
khử độc trên phạm vi rộng [14]; tạm đình chỉ các hoạt động, dịch vụ tại nơi cơng
cộng tại vùng có dịch [15]; cấm tập trung đơng người và các hoạt động khác có
nguy cơ làm lây truyền bệnh dịch tại vùng có dịch [16]; tạm đình chỉ hoạt động
của cơ sở dịch vụ ăn uống công cộng có nguy cơ làm lây truyền bệnh dịch tại
vùng có dịch [17]... đều đã được áp dụng đồng bộ ở nhiều địa phương. Như vậy,
việc áp dụng các biện pháp trong tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh tuy mang lại
hiệu quả nhưng vẫn chưa thỏa mãn tính chính đáng.
Thứ hai, việc ban hành các văn bản không chứa đựng quy tắc xử sự chung –
tức khơng mang tính quy phạm đã dẫn đến nhiều tranh cãi trong việc áp dụng
pháp luật.
Theo Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Cơng văn số
2601/VPCP-KGVX của Văn phịng Chính phủ, người dân được yêu cầu ở nhà,
hạn chế tối đa ra ngoài trừ các trường hợp thật sự cần thiết. Tuy nhiên, Chỉ thị số
16/CT-TTg chỉ là văn bản cá biệt nên không chứa đựng quy tắc xử sự chung.
Từ “cái sảy nảy cái ung”, do khơng có chuẩn mực pháp lí để tuân theo từ
Trung ương nên các cơ quan nhà nước ở địa phương đã áp dụng pháp luật khơng
thống nhất, thậm chí là tùy tiện. Có thể kể đến trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân
dân xã Vụ Bổn (huyện Krông Pắk, Đắk Lắk) xử phạt vi phạm hành chính đối với
người ngồi trên cabin xe tải chở hàng vì lí do tụ tập q 02 người [20] (trong
cabin xe có 03 người) [19]; chính quyền Thành phố Hà Nội xử phạt cả người điều
khiển xe ô tô không đeo khẩu trang [20].
Thứ ba, trong thời gian phòng, chống dịch bệnh Covid-19, một số cơ quan

nhà nước đã ban hành văn bản cá biệt, công văn hành chính thơng thường để hạn
chế quyền của cơng dân. Việc làm này vi phạm thẩm quyền hình thức trong việc
ban hành văn bản quy phạm pháp luật và ảnh hưởng đến nguyên tắc thượng tôn
pháp luật trong hoạt động của các cơ quan nhà nước [21]. Cụ thể, Công văn số
4162/QLD-KD của Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) ban hành về việc tạm dừng xuất
khẩu thuốc phòng, chống Covid-19 là một văn bản mang tính quy phạm – tức là
trực tiếp làm thay đổi hệ thống quy phạm pháp luật hành chính. Những quy định
như ‘tạm dừng việc xuất khẩu thuốc theo Danh mục thuốc sử dụng trong điều trị
357


Hội thảo Khoa học
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn”

Covid-19’, ‘từ ngày 16/4/2020 đến khi có thơng báo mới của Cục Quản lý
Dược’… rõ ràng chứa đựng các quy tắc xử sự chung – tức là mang tính quy phạm.
Trên thực tế, chính tính quy phạm trong Cơng văn số 4162/QLD-KD đã tạo ra
những tác động mạnh mẽ, mang tính hạn chế quyền tự do kinh doanh của các đơn
vị sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu thuốc.
Điểm b, Khoản 2, Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy
định: ‘Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành nghị quyết hướng
dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật’. Điều 21 Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) cũng quy định: ‘Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành nghị quyết để hướng dẫn việc
áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử thông qua tổng kết việc áp dụng pháp
luật, giám đốc việc xét xử’. Với tư duy đó, có thể thấy, việc Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn số 45/TANDTC-PC hướng dẫn xét
xử tội phạm liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19 cũng có phần khơng
chính xác bởi hình thức thể hiện phải là nghị quyết chứ không phải là công văn.
4.


GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Thứ nhất, Quốc hội cần sớm ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp để thay thế
cho Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000.
Theo Hiến pháp năm 2013, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền quy định
về tình trạng khẩn cấp. Khi tình trạng khẩn cấp được cơng bố, các cơ quan nhà
nước có thể hạn chế một số quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Nguyên tắc hiến định là quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật. Do đó, sự tồn tại của Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm
2000 với nhiều quy định hạn chế quyền con người, quyền công dân là không phù
hợp với nguyên tắc pháp quyền. Để giải quyết vấn đề này, thiết nghĩ Quốc hội cần
sớm ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp để thay thế cho Pháp lệnh Tình trạng
khẩn cấp năm 2000.
Hiện nay, theo Khoản 2, Điều 15 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020),’Quốc hội ban hành nghị quyết để quy
định về tình trạng khẩn cấp’. Quy định này có phần khơng hợp lí bởi phạm vi điều
chỉnh của nghị quyết trong đa số trường hợp là các nhóm quan hệ xã hội tuy quan
trọng nhưng không thực sự cơ bản và bao trùm như luật. Luật là văn bản điều
chỉnh các quan hệ xã hội có ảnh hưởng đến tồn xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến
tồn dân. Trong khi đó, rất nhiều trường hợp, nghị quyết của Quốc hội là văn bản
cho việc ổn định cơng tác, hoạt động có tính tổ chức bộ máy của Quốc hội, vì vậy
chủ yếu ảnh hưởng gián tiếp tới người dân [22]. Đối với cá nhân, tổ chức, sử dụng
luật là hình thức chủ yếu để điều chỉnh quan hệ xã hội sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho việc tiếp cận luật pháp [23]. Tình trạng khẩn cấp ảnh hưởng trực tiếp đến toàn
xã hội, hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức nên cần phải được
quy định trong văn bản luật chứ không phải nghị quyết.
358



Hội thảo Khoa học
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn”

Theo tác giả, khi xây dựng Luật Tình trạng khẩn cấp, nhà làm luật cần
thống nhất việc điều chỉnh tình trạng khẩn cấp trong một luật chung chứ không
nên tách riêng thành các đạo luật khác nhau, mỗi luật lại điều chỉnh một lĩnh vực
tình trạng khẩn cấp khác nhau. Tuy nhiên, mỗi loại tình trạng khẩn cấp khác nhau
sẽ có nguyên nhân làm phát sinh khác nhau. Do đó, nếu xây dựng thành một luật
chung về tình trạng khẩn cấp thì trong đạo luật này vẫn nên phân loại tình trạng
khẩn cấp để thiết kế các quy phạm đặc thù tương ứng điều chỉnh. Theo tác giả,
căn cứ vào nguyên nhân làm phát sinh tình huống nguy hiểm cho xã hội, Luật
Tình trạng khẩn cấp có thể phân chia thành các loại như: i. tình trạng khẩn cấp về
quốc phịng, ii. tình trạng khẩn cấp về thiên tai; iii. tình trạng khẩn cấp về dịch
bệnh. Do những tương đồng về ngun nhân, tính chất, hậu quả nên tình trạng
khẩn cấp về an ninh quốc gia cần được tích hợp để trở thành một nội dung nằm
trong tình trạng khẩn cấp về quốc phịng. Trong khi đó, tình trạng khẩn cấp về
thiên tai có nguyên nhân từ rủi ro thiên tai ở cấp độ 5 và tình trạng khẩn cấp về
dịch có nguyên nhân từ dịch bệnh nguy hiểm nên có thể phân thành các dạng tình
trạng khẩn cấp độc lập với tình trạng khẩn cấp về quốc phịng.
Thứ hai, pháp luật cần quy định cụ thể hình thức văn bản quy phạm pháp
luật để cơng bố tình trạng khẩn cấp.
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một hình thức quản lí quan trọng
trong thẩm quyền của Chủ tịch nước [24]. Điều 91 Hiến pháp năm 2013 quy định:
‘Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình’. Căn cứ vào thẩm quyền quy định tại Điều 88 Hiến pháp năm 2013, Chủ
tịch nước có quyền ban hành lệnh, quyết định để quy định các vấn đề như: công
bố luật, pháp lệnh; phê chuẩn hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế; cơng
bố, bãi bỏ quyết định tun bố tình trạng chiến tranh; ra lệnh tổng động viên hoặc
động viên cục bộ, cơng bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp.
Khi Hiến pháp năm 2013 được thơng qua, có ý kiến cho rằng nên bỏ lệnh

của Chủ tịch nước ra khỏi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ nên xác
định lệnh là văn bản cá biệt vì trên thực tế, lệnh chỉ được Chủ tịch nước ban hành
để công bố luật, pháp lệnh [26]. Tuy nhiên, Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) vẫn tiếp tục quy định lệnh của
Chủ tịch nước là văn bản quy phạm pháp luật. Đây là một quy định hợp lí bởi lệnh
ln gắn liền với luật, pháp lệnh mà nó cơng bố. Luật, pháp lệnh là văn bản quy
phạm pháp luật nên “văn bản chở luật, pháp lệnh vào cuộc sống” tất nhiên cũng
phải là văn bản quy phạm pháp luật [26]. Việc công bố và thực hiện quy định của
pháp luật về tình trạng khẩn cấp có ý nghĩa rất quan trọng đối với mỗi quốc gia,
dân tộc. Do đó, để tạo ra cách áp dụng pháp luật thống nhất, nhà làm luật cần quy
định cụ thể Chủ tịch nước ban hành lệnh để cơng bố tình trạng khẩn cấp.
Thứ ba, để thực hiện chức năng quản lí nhà nước, Thủ tướng Chính phủ –
trong phạm vi thẩm quyền của mình – sẽ thể hiện ý chí đến đối tượng quản lí
359


Hội thảo Khoa học
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn”

thơng qua những hoạt động quản lí nhất định. Những hoạt động ấy được thể hiện
ra bên ngồi dưới một hình thức quản lí nào đó. Trong các hình thức quản lí mà
Thủ tướng Chính phủ sử dụng, quan trọng nhất là ban hành các quyết định quản lí
nhà nước. Khoản 2, Điều 25 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2019) quy định: ‘Chính phủ hướng dẫn và kiểm tra Hội đồng nhân dân trong
việc thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị quyết,
nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ’. Từ quy
định pháp luật này, có thể suy luận rằng: ‘Thủ tướng Chính phủ được quyền ban
hành quyết định, chỉ thị’.
Quyết định, chỉ thị là những quyết định quản lí nhà nước do cá nhân Thủ

tướng Chính phủ ban hành để giải quyết những vấn đề quan trọng thuộc thẩm
quyền của mình. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phân biệt sự khác nhau giữa hai
hình thức văn bản “quyết định” và “chỉ thị”, khi nào thì Thủ tướng Chính phủ
dùng hình thức văn bản “quyết định” và khi nào dùng hình thức văn bản “chỉ thị”.
Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2020), chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ khơng được xem là văn bản
quy phạm pháp luật – tức không đặt ra quy tắc xử sự chung và không trực tiếp làm
thay đổi hệ thống quy phạm pháp luật hành chính [27]. Xét về tính chất pháp lí,
chỉ thị thường được ban hành để cơ quan cấp trên đề ra các mệnh lệnh, yêu cầu
buộc cấp dưới thực hiện [28]. Một quyết định được ban hành ra có phạm vi tác
động rộng hơn so với chỉ thị. Nó bao gồm mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội, trong
khi đó, chỉ thị được sử dụng để tác động đến các cơ quan, tổ chức và cá nhân có
mối liên hệ với cơ quan ra chỉ thị đó về mặt cơ cấu, tổ chức, nhân sự. Trong thực
tiễn, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ được sử dụng nhằm buộc các cơ quan, đơn
vị, cá nhân cấp dưới có mối quan hệ trực thuộc trong cùng hệ thống phải tuân theo
mệnh lệnh, yêu cầu của mình. Với những nội dung này, chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ là văn bản cá biệt, được sử dụng trong quá trình lãnh đạo, điều hành
cấp dưới [29]. Hiện nay, ngồi Quyết định số 07/2020/QĐ-TTg ngày 26/2/2020
[30], Thủ tướng Chính phủ vẫn chỉ ban hành văn bản pháp luật dưới hình thức chỉ
thị [31] nên hiệu lực pháp lí của các văn bản này không cao và cũng không tạo ra
quy tắc xử sự chung. Do đó, trong tương lai, khi xảy ra tình trạng khẩn cấp về
dịch bệnh thì Thủ tướng Chính phủ cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật với
hình thức văn bản là quyết định để quy định về các biện pháp ứng phó.
Thứ tư, Điều 28 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2020) quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quyết định
để quy định “biện pháp thực hiện chức năng quản lí nhà nước ở địa phương”. Về
tính chất, tình trạng khẩn cấp có thể gây ra những hậu quả tức thời, trực tiếp
nhưng cũng có thể để lại những hậu quả lâu dài đối với con người và xã hội. Tình
trạng khẩn cấp ảnh hưởng đến trật tự, sự ổn định của xã hội. Ở mức độ thấp, tình
trạng khẩn cấp làm giảm tốc độ phát triển của xã hội. Ở mức độ cao hơn, tình

360


Hội thảo Khoa học
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn”

trạng khẩn cấp gây ra khủng hoảng xã hội, phá vỡ kết cấu của xã hội. Hệ quả của
tình trạng khẩn cấp như thế nào còn phụ thuộc vào cách giải quyết cũng như tốc
độ giải quyết nhanh hay chậm [32]. Chính vì vậy, trên cơ sở sự phân cấp của các
cơ quan nhà nước ở Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải ban hành quyết
định mang tính quy phạm (chứa đựng các quy tắc xử sự chung) mới có thể đạt
hiệu quả cao trong hoạt động quản lí khi xảy ra tình trạng khẩn cấp. Với tư duy
đó, khi xảy ra những trường hợp tương tự như dịch bệnh Covid-19, các cơ quan
nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình cần ban hành văn bản quy
phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Có ý kiến lo ngại rằng nếu điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong tình trạng
khẩn cấp bằng văn bản quy phạm pháp luật sẽ dẫn đến nguy cơ chậm trễ, không
kịp thời bởi việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải mất
nhiều thời gian hơn so với việc ban hành văn bản cá biệt. Theo chúng tôi, điều này
không đáng lo ngại. Trong trường hợp này, các chủ thể như Thủ tướng Chính phủ,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoàn toàn có thể quyết định áp dụng thủ tục rút
gọn trong việc ban hành Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng
chính phủ, Thơng tư của Bộ trưởng, Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo thủ tục rút gọn một mặt vẫn
trải qua những công đoạn quy củ nhằm bảo đảm tính hợp pháp, tính hợp lí nhưng
mặt khác vẫn đáp ứng yêu cầu điều chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội [1].
Cuối cùng, theo Điều 17 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016,’văn bản quy
phạm pháp luật là thông tin phải được công khai rộng rãi’. Luật Tiếp cận thông
tin năm 2016 không hề đưa ra ngoại lệ về việc không công khai văn bản quy phạm
pháp luật. Thế nhưng Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp năm 2015 (sửa đổi,

bổ sung năm 2020) lại đưa ra giới hạn về việc không công khai các văn bản quy
phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nước [1]. Như vậy, giữa Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và Luật Tiếp
cận thông tin năm 2016 đã có những quy định khác nhau về việc cơng khai văn
bản quy phạm pháp luật.
Nhằm giải quyết xung đột trong vấn đề tiếp cận các quy định điều chỉnh tình
trạng khẩn cấp, tác giả cho rằng cần quan tâm đến kĩ thuật lập pháp. Tình trạng
khẩn cấp về quốc phịng ít nhiều liên quan đến bí mật quốc gia nên có thể áp dụng
kĩ thuật lập pháp theo tiêu chí luật khung. Các nội dung cần hướng dẫn chi tiết thì
sẽ được điều chỉnh trong các văn bản mật của các cơ quan nhà nước có liên quan
như ngành qn đội, cơng an. Ngược lại, tình trạng khẩn cấp về thiên tai, tình
trạng khẩn cấp về dịch bệnh thì khơng liên quan đến bí mật quốc gia nên cần áp
dụng kĩ thuật xây dựng luật chi tiết. Nói cách khác, các quy phạm điều chỉnh tình
trạng khẩn cấp về thiên tai, tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh cần được quy định cụ
thể, rõ ràng, bảo đảm tính cơng khai cũng như tính chi tiết khi áp dụng.

361


Hội thảo Khoa học
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn”

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung). 2020
[2] Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam. Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa
đổi, bổ sung). 2020.
[3] Vũ Hồng Anh và Nguyễn Thị Thủy. Bảo đảm quyền con người, quyền cơng
dân trong tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật Việt Nam. Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp. 2020; 10.

[4] Nguyễn Lân. Từ điển từ và ngữ Việt Nam. 2006. TP.HCM: NXB Tổng hợp, tr.
74.
[5] Nguyễn Lân. Từ điển từ và ngữ Việt Nam. 2006. TP.HCM: NXB Tổng hợp, tr.
419.
[6] Bộ Tư pháp – Viện Khoa học Pháp lí. Từ điển Luật học. 2013. NXB Từ điển
Bách khoa và NXB Tư pháp, tr. 173.
[7] Bùi Thu Hằng. Ban hành văn bản trong tình trạng khẩn cấp nhìn từ dịch bệnh
Covid-19. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2020;8.
[8]. Cao Vũ Minh. Cơ sở chính trị và pháp lí của việc ban hành Luật về Hoạt động
của Chủ tịch nước. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2016;1.
[9]. Vietnamnet. Thế giới hơn một triệu người chết vì Covid-19, Ấn Độ hứng
ngày
bi
thảm.
Ngày
đăng
10/10/2020.
Truy
cập
từ
[Ngày truy cập
12/10/2020].
[10]. Chính phủ Nước CHXHCN Việt Nam. Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày
31/3/2020 về các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19. 2020.
[11] Nguyễn Thị Thu Trang. Quyền con người trong đại dịch Covid 19. Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật. 2020;7.
[12] VnExpress.net. Huy động ký túc xá trường học làm khu cách li. Ngày đăng
21/3/2020. Truy cập từ [Ngày truy cập 12/10/2020].
[13] Tuổi trẻ online. 62 chốt kiểm soát dịch TP.HCM nằm ở đâu? Truy cập từ
[Ngày truy cập 12/10/2020].

[14] Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Binh chủng Hóa học phun khử trùng
tiêu độc Bệnh viện Bạch Mai. />

Hội thảo Khoa học
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn”

hoc-phun-khu-trung-tieu-doc-benh-vien-bach-mai-551472.html [Ngày truy
cập 12/10/2020].
[15]. Tuổi trẻ online. Đà Nẵng dừng các hoạt động tập trung đông người, không
thiết yếu từ 13h trưa nay 26-7. Truy cập từ [Ngày truy cập 12/10/2020].
[16]. Báo điện tử Chính phủ Nước CHXHCN Việt Nam (VGP). Khánh Hòa: Tạm
dừng một loạt hoạt động; cơ sở kinh doanh không thiết yếu. Ngày đăng
10/8/2020. Truy cập từ [Ngày truy cập 12/10/2020].
[17]. Báo điện tử Chính phủ Nước CHXHCN Việt Nam (VGP). Đà Nẵng ra Chỉ
thị
mới
phòng
chống
dịch
COVID-19.
Truy
cập
từ
[Ngày truy cập 12/10/2020].
[18]. UBND tỉnh Đắk Lắk. Quyết định số 03/QĐ-XPVPHC ngày 02/4/2020 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xử phạt vi phạm hành chính xã Vụ Bổn (huyện
Krơng Pắk, Đắk Lắk). 2020
[19]. Báo Giao thông. Ba người trên xe tải chở thực phẩm bị phạt 200 nghìn vì...tụ
tập quá 2 người. Ngày đăng 03/04/2020. Truy cập từ
[Ngày truy cập 12/10/2020].

[20]. Báo an ninh thủ đô. Ngồi trong ô tơ riêng có bắt buộc đeo khẩu trang?. Ngày
đăng 30/03/2020. Truy cập từ />[Ngày
truy
cập
12/10/2020].
[21]. Cao Vũ Minh. Công văn và những nhầm lẫn với quyết định quản lý nhà
nước. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật. 2013;5.
[22]. Phan Trung Hiền. Nghị quyết của Quốc hội là văn bản Luật hay văn bản
dưới luật. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2011;18.
[23]. Hoàng Thị Ngân. Hoạt động ban hành Nghị quyết của Quốc hội. Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp. 2013;14.
[24]. Cao Vũ Minh. Hiến pháp mới với vị trí, vai trị của nguyên thủ quốc gia –
Chủ tịch nước. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2011;22.
[25]. Nguyễn Thế Quyền. Hoàn thiện các quy định về xây dựng pháp luật. Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp. 2009;142.
363


Hội thảo Khoa học
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn”

[26]. Nguyễn Cửu Việt. Trở lại khái niệm văn bản quy phạm pháp luật. Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp. 2007;4.
[27]. Cao Vũ Minh. Một số điểm tiến bộ của Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật. 2016;2.
[28]. Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam. Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 1996 (sửa đổi, bổ sung). 2020.
[29]. Cao Vũ Minh. Hoàn thiện quy định về việc ban hành quyết định của Thủ
tướng Chính phủ. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2019;10.
[30]. Chính phủ Nước CHXHCN Việt Nam. Quyết định số 07/2020/QĐ-TTg ngày

26/2/2020 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết
định số 02/2016/QĐ-TTg ngày 28/01/2016 quy định điều kiện công bố dịch
và công bố hết dịch bệnh truyền nhiễm.
[31]. Chính phủ Nước CHXHCN Việt Nam. Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày
27/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về quyết liệt thực hiện đợt cao điểm
phòng chống dịch Covid 19; Chỉ thị số 19/CT-TTg ngày 24/4/2020 của Thủ
tướng Chính phủ về tiếp tục thực hiện các biện pháp phịng chống dịch Covid
19 trong tình hình mới.
[32]. Nguyễn Mạnh Kháng. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí xã hội
trong những tình huống bất thường ở nước ta hiện nay. Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật. 2009,11.

364



×