Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Giáo dục y đức cho sinh viên y khoa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.64 KB, 133 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------

ĐỖ VIỆT HỒNG

GIÁO DỤC Y ĐỨC CHO SINH VIÊN Y KHOA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

TP. Hồ Chí Minh - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------

ĐỖ VIỆT HỒNG

GIÁO DỤC Y ĐỨC CHO SINH VIÊN Y KHOA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Mã số: 60.22.85

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS., TS NGUYỄN THẾ NGHĨA

TP. Hồ Chí Minh - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, dƣới
sự hƣớng dẫn khoa học của PGS., TS Nguyễn Thế Nghĩa. Các số liệu, kết
luận trích dẫn trong luận văn là trung thực.
TP. Hồ Chí Minh, ngày
Tác giả

Đỗ Việt Hồng

tháng

năm 2013


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chƣơng 1. LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC, Y ĐỨC VÀ GIÁO DỤC Y ĐỨC ............ 9
1.1. LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC ................................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm đạo đức .................................................................................... 9
1.1.2. Cấu trúc và chức năng của đạo đức ..................................................... 14
1.1.3. Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội. .......................................... 20
1.2. LÝ LUẬN VỀ Y ĐỨC ...................................................................................... 22
1.2.1. Khái niệm y đức...................................................................................... 22

1.2.2. Cấu trúc và đặc điểm của y đức. .......................................................... 34
1.2.3. Vai trò của y đức. ................................................................................... 38
1.3. VẤN ĐỀ GIÁO DỤC Y ĐỨC CHO SINH VIÊN Y KHOA ............................ 41
1.3.1. Đặc điểm của sinh viên y khoa.............................................................. 41
1.3.2. Vai trò của giáo dục y đức cho sinh viên y khoa ................................. 42
1.3.3. Nội dung của giáo dục y đức cho sinh viên y khoa ............................. 47
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC Y ĐỨC CHO SINH
VIÊN Y KHOA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. ........................................................ 55
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC GIÁO DỤC Y ĐỨC CHO
SINH VIÊN Y KHOA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. ................................................. 55
2.1.1. Khái quát đặc điểm của nghề y. ........................................................... 55
2.1.2. Tác động của kinh tế thị trƣờng, tồn cầu hóa đến việc giáo dục y
đức cho sinh viên y khoa ở Việt Nam hiện nay. ................................................... 58
2.1.3. Tác động của mơi trƣờng văn hóa, xã hội đến việc giáo dục y đức
cho sinh viên y khoa ở Việt Nam hiện nay. ........................................................... 63
2.1.4. Tác động của chính sách đến việc giáo dục y đức cho sinh viên y
khoa ở Việt Nam hiện nay. ..................................................................................... 65


2.2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO
DỤC Y ĐỨC CHO SINH VIÊN Y KHOA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. ............. 74
2.2.1. Thực trạng đời sống đạo đức, y đức và công tác giáo dục y đức cho
sinh viên y khoa trong giai đoạn hiện nay. ........................................................... 74
2.2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với công tác giáo dục y đức cho sinh viên
y khoa ở Việt Nam hiện nay. .................................................................................. 96
2.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
CÔNG TÁC GIÁO DỤC Y ĐỨC CHO SINH VIÊN Y KHOA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY....................................................................................................... 98
2.3.1. Phát huy tính tự giác và tính chủ động trong học tập, rèn luyện y
đức của sinh viên y khoa ......................................................................................... 98

2.3.2. Giáo dục y đức thơng qua các hoạt động chính trị - xã hội.............. 100
2.3.3. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trƣờng, xã hội trong việc giáo
dục y đức cho sinh viên. ........................................................................................ 106
2.3.4. Lành mạnh hố mơi trƣờng kinh tế - xã hội và xây dựng ngành y
vững mạnh có tác động tích cực đến giáo dục y đức cho sinh viên y khoa. ..... 109
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 119
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 124


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với tƣ các là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức bắt nguồn từ tồn tại xã hội
và phản ánh tồn tại xã hội. Đạo đức có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng trong việc
hình thành nhân cách con ngƣời; đạo đức không phải là cái tự nhiên sinh ra và là
cái có sẵn, mà là kết quả của quá trình giáo dục, tu dƣỡng, rèn luyện của mỗi con
ngƣời trong hoạt động thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cũng nhƣ sơng thì
có nguồn mới có nƣớc, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có
gốc thì cây héo. Ngƣời cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi
đến mấy cũng không lãnh đạo đƣợc nhân dân” [49, tr.252,253].
Sau hơn hai mƣơi lăm năm đổi mới, nƣớc ta đã đạt đƣợc những thành
tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội, chính trị,
văn hóa. Trong q trình lãnh đạo, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc rằng: Sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đòi hỏi phải tiếp tục phát huy hơn
nữa sức mạnh của khối đại đoàn kết tồn dân, trong đó phải kể đến một bộ
phận quan trọng đó là thế hệ trẻ. Đại hội IX của Đảng đã xác định: “Chăm lo
giáo dục, bồi dƣỡng, đào tạo, phát triển tồn diện chính trị, tƣ tƣởng, đạo đức,
lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài

năng, sức sáng tạo, phát huy vai trị xung kích trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc” [24, tr.126]. Qua đó, đã khẳng định vai tò to lớn của thế hệ trẻ
trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, trong đó có đội ngũ sinh viên Việt Nam.
Đây sẽ là lực lƣợng lao động chính, có trình độ cao và là nguồn lực chủ yếu
của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
Trong đội ngũ sinh viên Việt Nam nói chung, đội ngũ sinh viên y khoa nói
riêng có vai trị rất quan trọng, họ sẽ là những chiến sĩ “áo trắng” trên mặt trận
chống giặc ốm và bảo vệ sự tráng kiện của giống nòi. Nghề nghiệp của họ là nghề
nghiệp đặc biệt, liên quan trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng con ngƣời. Vì vậy,
họ cần phải có những phẩm chất đạo đức đặc biệt, đó là đạo đức của ngƣời thầy


2

thuốc (y đức). Qua các thời kỳ phát triển của xã hội loài ngƣời, ở khắp mọi nơi trên
thế giới, cả phƣơng Đông, phƣơng Tây và cả ở Việt Nam y đức vẫn thƣờng xuyên
đƣợc quan tâm, là thƣớc đo về lƣơng tâm, trách nhiệm và nghĩa vụ của ngƣời thầy
thuốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc trau dồi và rèn luyện y đức cho
đội ngũ thầy thuốc, Ngƣời nói: “Lƣơng y phải nhƣ từ mẫu”. Nghề y là một nghề cao
quý, đức độ, nhân đạo, đƣợc cả xã hội tôn vinh và gọi với cái tên trân trọng “Thầy
thuốc”. Trong những năm qua, với những đóng góp bền bỉ và to lớn của đội ngũ thầy
thuốc, ngành Y tế nƣớc ta đã phát triển vƣợt bậc và đạt đƣợc những thành tựu to lớn
trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, đƣợc nhân dân tin yêu. Các
thế hệ thầy thuốc hôm nay đang nối tiếp truyền thống tự hào của các thế hệ đi trƣớc,
khơng ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, tu dƣỡng rèn luyện đạo đức.
Tuy nhiên trong bối cảnh tồn cầu hóa, cùng với sự xuống cấp của đạo đức xã hội,
một bộ phận cán bộ, nhân viên y tế có biểu hiện sa sút về đạo đức nghề nghiệp, đề
cao lợi ích cá nhân, thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trƣớc nỗi đau, sự khốn khó của
ngƣời bệnh. Coi sức khỏe của bệnh nhân nhƣ một thứ hàng hóa mang ra để mặc cả,
mua bán; hiện tƣợng "phong bì lót tay" đang trở thành phổ biến ở các bệnh viện nhƣ

một chất “bôi trơn” để đổi lấy sự quan tâm, chăm sóc từ phía cán bộ, nhân viên y tế,
mà đúng ra đó là bổn phận nghề nghiệp họ phải làm . Đây thực sự là một tồn tại nhức
nhối mà xã hội đang lên án mạnh mẽ. Nguy hiểm hơn, những hiện tƣợng tiêu cực đó
đã tác động trực tiếp đến lực lƣợng sinh viên y khoa- những thầy thuốc tƣơng lai
trong học tập, thực tập tại trƣờng và các bệnh viện.
Những hiện tƣợng nêu trên có từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên
nhân quan trọng là chúng ta chƣa coi trọng công tác giáo dục y đức cho sinh viên y
khoa ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trƣờng. Lực lƣợng sinh viên này cần đƣợc
trang bị cả về y lý, y thuật, y đức, y đạo để khi ra trƣờng có đủ phẩm chất và năng
lực của một ngƣời thầy thuốc. Hiện nay, dƣới sự tác động của mặt trái cơ chế thị
trƣờng, một bộ phận sinh viên y khoa đã có những biểu hiện tiêu cực nhƣ: tự ý nghỉ
học, bỏ thực tập ở bệnh viện, gian lận trong thi cử, cờ bạc, rƣợu chè, ứng xử thiếu
văn hóa, vi phạm pháp luật và đặc biệt họ chƣa nhận thức đúng về y đức…


3

Từ thực trạng trên cho thấy, việc giáo dục y đức cho sinh viên y khoa
hiện nay là cần thiết và cấp bách. Đề tài “Giáo dục Y đức cho sinh viên y
khoa ở Việt Nam hiện nay” góp phần làm rõ nội dung và phƣơng pháp giáo
dục, rèn luyện đạo đức y học cho sinh viên.
2. Tổng quan, tình hình nghiên cứu đề tài
Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung, cho học sinh, sinh viên nói
riêng luôn đƣợc Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân đặc biệt quan tâm. Đây là một vấn
đề lớn, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và đã thu hút đƣợc sự quan tâm,
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhiều học giả dƣới những góc độ khác nhau,
trong đó tiêu biểu có những cơng trình:
Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” (Luận án Tiến sĩ Triết học- Trần Sỹ Phán,
1999); “Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị

trường ở Việt Nam hiện nay” (Luận văn thạc sĩ Triết học - Hồng Anh, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001); Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh
vào giáo dục đạo đức cho sinh viên ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” (Phạm
Xuân Tƣớc- Huỳnh Thị Gấm, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008); “Tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh với việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ trong sự
nghiệp đổi mới” (Võ Văn Hùng, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành CNXHKH,
trƣờng ĐHKHXH & NV ĐHQG TPHCM, 2007); "Đặc điểm lối sống sinh viên
hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên" (Đề
tài khoa học cấp Bộ, mã số B94-38-32); "Vai trò của giáo dục đạo đức cho sinh
viên đối với việc phát huy nguồn lực con người trong các doanh nghiệp thương mại
ở Việt Nam hiện nay" (Đề tài khoa học cấp Bộ, chủ nhiệm Lê Thị Loan, 2001);
“Đạo đức sinh viên trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Thực trạng, vấn đề và giải pháp” (Đề tài nghiên cứu
khoa học đặc biệt, mã số QG.01.18, Đại học quốc gia Hà Nội, 2003); “Giáo dục
với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên” (Hồng Anh, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2012)


4

Trong các cơng trình trên, các tác giả đã phân tích tầm quan trọng đặc biệt
của cơng tác giáo dục đạo đức; làm rõ lý luận về đạo đức và đạo đức cách mạng;
đánh giá, chỉ ra đƣợc thực trạng lối sống và những đặc điểm của sinh viên trong
giai đoạn hiện nay, trên cơ sở đó các tác giả đã đƣa ra một số phƣơng hƣớng, giải
pháp nhằm nâng cao đạo đức, phát triển nhân cách của sinh viên trong giai đoạn
hiện nay.
* Đối với vấn đề y đức liên quan trực tiếp đến đề tài có một số cơng trình
nghiên cứu, bài viết tiêu biểu sau đây:
“Phát triển sự nghiệp y tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” (Đỗ
Nguyên Phƣơng, Nxb. Y học, Hà Nội, 1996). Trong đó, tác giả đề cập đến vấn đề

y đức, y đạo và coi đó là một phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển y tế ở
nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay; “Một số vấn đề xây dựng ngành y tế phát triển
Việt Nam” (Đỗ Nguyên Phƣơng, Nxb. Y học, Hà Nội, 1998). Tác giả đã dành một
phần nội dung cuốn sách để làm rõ tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về y tế và đạo đức
của ngƣời thầy thuốc Việt Nam, bên cạnh đó tác giả cịn bàn luận nhiều về tấm
gƣơng đạo đức của giáo sƣ Đặng Văn Ngữ, giáo sƣ Hồng Đình Cầu và truyền
thống đạo đức của nhiều thầy thuốc tiêu biểu khác; “Y đức và đức sinh họcnguồn gốc và sự phát triển” (Ngô Gia Hy, Nxb. Y học, 1999);“Dạy và học đại
học y khoa” (Ngô Gia Hy, Nxb Trẻ, 2002). Tác giả dành 01 chƣơng để bàn về
vấn đề y đức, trong đó phác thảo những tƣ tƣởng y đức trong lịch sử nhân loại, tƣ
tƣởng y đức Việt Nam và làm rõ một số nội dung về quyền, nghĩa vụ của ngƣời
thầy thuốc trong mối quan hệ với bệnh nhân, với đồng nghiệp, với nghề nghiệp và
với khoa học…; “Đạo đức của người cán bộ y tế trong quá trình phát triến kinh
tế thị trường ở nước ta hiện nay - vấn đề và giải pháp” (Kim Thanh Hùng, Luận
văn cử nhân Chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh);
“Vấn đề y đức của cán bộ y tế trong giai đoạn hiện nay. Qua thực tế tại Nam
Định” (Lê Thanh Thuỷ, Luận văn Cao cấp lý luận chính trị, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh). Trong các tác phẩm này, các tác giả cũng đã
bàn về vấn đề đạo đức của ngƣời cán bộ y tế trong giai đoạn hiện nay, qua đó đã


5

đề ra phƣơng hƣớng và một số giải pháp cơ bản để nâng cao y đức trong đội ngũ
cán bộ nhân viên y tế; “Vai trò của y đức trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ y tế
ở nước ta hiện nay” (Hà Thị Loan, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học,
trƣờng ĐHKHXH & NV ĐHQG Hà Nội, 2004). Trong đó, tác giả làm rõ nội
dung và vai trò của y đức trong việc khám chữa bệnh cũng nhƣ chăm sóc sức
khỏe cộng đồng, đồng thời phân tích thực trạng, nguyên nhân và những giải pháp
nhằm nâng cao vai trò y đức trong đội ngũ cán bộ y tế ở nƣớc ta hiện nay.
Luận án Tiến sĩ “Tư tưởng triết học về con người qua các tác phẩm y học
của Hải Thượng Lãn Ơng” (Phạm Cơng Nhất, chun ngành Triết học, Học

viện Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001). Trong luận án này, tác giả đã đánh giá
một cách có hệ thống các giá trị trong tƣ tƣởng triết học về con ngƣời của Hải
Thƣợng Lãn Ông. Bên cạnh đó tác giả chỉ ra ý nghĩa của các giá trị tƣ tƣởng đó
đối với q trình đổi mới và phát triển ngành y tế hiện nay ở nƣớc ta trong đó có
vấn đề y đức; Luận án Tiến sĩ: “Phát huy vai trị của trí thức ngành y tế Việt
Nam trong cơng cuộc đổi mới” (Nguyễn Thị Hồ Bình, chuyên ngành Chủ nghĩa
Xã hội Khoa học, Học viện Hành chính quốc gia, Tp. HCM). Trong đó, tác giả
đã làm rõ đặc điểm, vai trò và dự báo xu hƣớng phát triển của đội ngũ cán bộ y
tế. Từ đó đƣa ra một số giải pháp nhằm phát huy vai trị của trí thức ngành y tế
Việt Nam trong công cuộc đổi mới; “Những bậc thầy nổi danh về y đức” (Quý
Long- Kim Thƣ sƣu tầm và biên soạn, Nxb Y học, 2013). Trong quyển này, tác
giả đã đã nêu lên một số quan niệm về nghề y và y đức của ngƣời thầy thuốc, đồng
thời tác giả đã nêu lên một số danh y, lƣơng y tiêu biểu về y đức cả trên thế giới và
Việt Nam, tập hợp một số bài viết bàn luận về vấn đề y đức của ngƣời thầy thuốc
trong giai đoạn hiện nay đã đƣợc đăng tải trên các phƣơng tiện thông tin đại
chúng;“Tâm lý và đạo đức y học” (Phạm Thi Minh Đức chủ biên, Nxb Giáo dục
Việt Nam, 2012). Trong đó, tác giả cũng đã khái quát lịch sử về đạo đức y học và
cơ sở lý luận của đạo đức y học, đồng thời tập hợp một số văn bản liên quan đến
vấn đề y đức, liên quan đến quyền và nghĩa vụ của ngƣời thầy thuốc, quyền và
nghĩa vụ của bệnh nhân và quyền của con ngƣời trong khám chữa bệnh.


6

Ngồi ra, trên báo mạng, tạp chí, báo giấy có một số bài viết nhƣ: “Giáo
dục y đức cho sinh viên ngành y” (Thạc sĩ Hoàng Thị Kim Oanh, Tạp chí Triết
học số 5 (204), 2008); “Coi trong việc giáo dục y đức cho học sinh, sinh viên
ngành y” (PGS., TS Vũ Đình Chính, hiệu trƣởng Trƣờng Đại học Kỹ thuật Y tế
Hải Dƣơng. Đăng trên , ngày 25/02/2011)…
Tác giả đã nêu lên thực trạng, nguyên nhân vi phạm y đức hiện nay

trong khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Cả hai tác giả đều thống
nhất nguyên nhân sâu xa của tình trạng đó là do cơng tác giảng dạy môn y đức
ở các trƣờng y khoa hiện nay chƣa đƣợc quan tâm, chú trọng nhƣ: số tiết học
ít, chƣa có giáo trình chuẩn chủ yếu là các trƣờng tự biên soạn, lƣợng thơng
tin, tính lý luận ít, đội ngũ giảng viên chƣa thống nhất…từ đó nêu lên một số
giải pháp khắc phục.
Trong số những cơng trình, bài viết trên đây, các tác giả đã đề cập đến
những vấn đề mang tính lý luận về y đức, lịch sử hình thành y đức, tƣ tƣởng y
đức của những triết gia trong lịch sử nhân loại, tƣ tƣởng y đức Hồ Chí Minh và
những quy định, nguyên tắc về y đức của các tổ chức y tế thế giới và Việt Nam
đối với ngƣời thầy thuốc; chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân của
tình trạng vi phạm y đức ở nƣớc ta hiện nay và đƣa ra một số phƣơng hƣớng, giải
pháp với mục đích nâng cao y đức cho đội ngũ cán bộ y tế. Cũng có một số tác
giả đã đề cập đến việc giáo dục y đức cho sinh viên ngành y nhƣng còn chung
chung, chƣa hệ thống.
Tóm lại, tất cả những cơng trình, bài viết trên đều khẳng định sự cần
thiết của việc giáo dục, nâng cao y đức cho cho đội ngũ cán bộ y tế, sinh viên
y khoa là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, cho đến nay, chƣa
thấy có đề tài nào nghiên cứu mang tính chất hệ thống, chuyên sâu về vấn đề
giáo dục y đức cho sinh viên y khoa ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, vấn đề giáo
dục y đức cho sinh viên y khoa cần phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ
thêm. Từ đó có những giải pháp phù hợp để xây dựng y đức cho đội ngũ sinh
viên này.


7

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm rõ lý luận về đạo đức, y đức và thực trạng giáo dục y đức cho

sinh viên y khoa hiện nay, luận văn xác định những giải pháp nhằm nâng cao chất
lƣợng giáo dục y đức cho sinh viên y khoa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ lý luận về đạo đức, y đức và vai trò của việc giáo dục y đức cho
sinh viên y khoa ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích làm rõ những tác động của kinh tế, văn hóa- xã hội, chính sách
đến việc giáo dục y đức cho sinh viên y khoa ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp giáo dục y đức cho sinh
viên y khoa ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu đối tƣợng sinh viên y khoa hệ đào tạo Bác sĩ Đa
khoa chính quy ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu trong giới hạn giáo dục y đức cho sinh
viên y khoa ở Việt Nam hiện nay. (qua khảo sát thực tế tại Học viện Quân y,
Đại học Y- Dƣợc Tp. HCM, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Đại học YDƣợc Cần Thơ).
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và
Nhà nƣớc Việt Nam về đạo đức, y đức, giáo dục đạo đức, y đức. Ngồi ra luận văn
có tham khảo kế thừa các kết quả ở những cơng trình nghiên cứu đã đƣợc cơng bố
có liên quan đến nội dung của đề tài.


8

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và

chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng một số phƣơng pháp cụ thể để nghiên
cứu và trình bày luận văn, trong đó chủ yếu là phƣơng pháp lịch sử và lơgíc,
phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, phƣơng pháp khảo sát và thống kê, phƣơng
pháp khái quá hóa, xin ý kiến chuyên gia …
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận của luận văn là góp phần làm sáng tỏ lý luận về đạo đức, y
đức và vận dụng chúng vào việc giáo dục y đức cho sinh viên y khoa.
Nội dung và kết quả của luận văn góp phần vào việc nâng cao chất lƣợng
giáo dục y đức cho sinh viên y khoa; đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo có ích cho sinh viên y khoa và đội ngũ cán bộ y tế trong việc học tập, rèn
luyện đạo đức nghề y.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có: phần mở đầu, hai chƣơng, sáu tiết, phần kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo.


9

Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC, Y ĐỨC VÀ GIÁO DỤC Y ĐỨC
1.1. LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC
1.1.1. Khái niệm về đạo đức
Với tƣ cách là một hình thái ý thức xã hội, những tƣ tƣởng đạo đức đã
đƣợc xuất hiện hơn 26 thế kỷ trƣớc đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Huy
Lạp cổ đại. Sự ra đời và phát triển của đạo đức do nhu cầu của đời sống xã hội,
của hoạt động và giao tiếp. Vì vậy, đạo đức từ lâu đã đƣợc nhân loại hết sức
quan tâm.
Đạo đức có gốc tiếng La tinh là “ moralis’’: mos (moris) có nghĩa là thói,
moralis có nghĩa liên quan đến lề thói, tập tục. Từ “ethos” có nghĩa là đạo đức
học, có gốc từ tiếng Hy Lạp, nó chỉ sự sống cùng nhau và các nguyên tắc sinh ra

do sự sống cùng nhau ấy. Ethos cũng có nghĩa là phong tục, khí chất, tính cách.
Nhƣ vậy khi nói đến đạo đức, ngƣời ta nói đến lề thói, tập tục, cả tính cách, phẩm
cách của con ngƣời hình thành trong quan hệ giữa họ với nhau và trong xã hội
con ngƣời nói chung. Về sau ngƣời ta hiểu “moral” là đạo đức còn “ethos” là đạo
đức học.
Trong tƣ tƣởng triết học phƣơng Đông, các học thuyết về đạo đức của
ngƣời Trung Quốc cổ đại xuất hiện sớm, đƣợc thể hiện trong quan niệm về đạo
đức của học. Đạo đức là một phạm trù quan trọng của triết học Trung Quốc cổ
đại. Đạo có nghĩa là con đƣờng, và quy luật (của tự nhiên và xã hội), ngồi ra nó
cịn có ý nghĩa là phƣơng pháp, quy tắc. Đạo cịn là con đƣờng sống của con
ngƣời trong xã hội, là năng lực phổ biến điều hành mọi sự vận động và biến hóa
khơng ngừng của vạn vật và sự việc quanh ta.
Khái niệm “Đức” lần đầu tiên xuất hiện trong Kinh văn đời nhà Chu và từ
đó trở đi nó đƣợc ngƣời Trung Quốc cổ đại sử dụng thƣờng xuyên. Theo Khổng
Tử, sống đúng luân thƣờng là có Đức. Theo tƣ tƣởng của Lão Tử thì tu thân tới
mức hiệp nhất với trời đất, an hòa với mọi ngƣời là có Đức. Đức là hiểu Đạo. Đức


10

là mức độ tập trung của Đạo ở một con ngƣời. Nói theo ngơn từ ngày nay, Đức là
trình độ năng lực nắm vững và vận dụng quy luật, kể cả quy luật tự nhiên lẫn quy
luật xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và là biểu hiện của đạo, là
đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Nhƣ vậy, có thể nói đạo đức theo quan niệm của
ngƣời Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống
đặt ra mà mỗi ngƣời phải tuân theo.
Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy
tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con ngƣời trong quan hệ với
nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng nhƣ tƣơng lai,
chúng đƣợc thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dƣ

luận xã hội. Hay nói cách khác, đạo đức là một dạng ý thức xã hội gồm những
nguyên tắc, chuẩn mực giá trị đƣợc xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều
chỉnh hành vi của con ngƣời trong quan hệ xã hội, gia đình, tập thể. Ý thức đạo
đức tạo cho con ngƣời quan niệm đúng về cái thiện và ác, cái xấu và tốt, lƣơng
tâm và trách nhiệm; để có thể ứng xử đúng với mình, với ngƣời khác, với tập thể
và xã hội. Đạo đức là nền tảng tinh thần xã hội, góp phần quan trọng ổn định và
phát triển xã hội. Xã hội càng phát triển, vai trò của đạo đức càng quan trọng. Đạo
đức đƣợc xem là khái niệm luân thƣờng đạo lý của con ngƣời, nó thuộc về vấn đề
tốt – xấu, đúng – sai, đƣợc sử dụng trong 3 phạm vi: lƣơng tâm con ngƣời, hệ
thống phép tắc đạo đức và trừng phạt, đơi lúc cịn đƣợc gọi là giá trị đạo đức; nó
gắn với nền văn hóa, tơn giáo, chủ nghĩa nhân văn, triết học và những luật lệ của
một xã hội về cách đối xử từ hệ thống này. Có nhiều dạng đạo đức: đạo đức cơng
dân, đạo đức tơn giáo, gia đình, xã hội… Trong sự nghiệp cách mạng, đạo đức là
nền tảng, là “cái gốc của ngƣời cách mạng”.
Đạo đức là một hiện tƣợng lịch sử và xét cho cùng, là sự phản ánh của các
quan hệ xã hội. Có đạo đức của xã hội nguyên thủy, đạo đức của chế độ chủ nô, đạo
đức phong kiến, đạo đức tƣ sản, đạo đức cộng sản. Lợi ích của giai cấp thống trị là
duy trì và củng cố những quan hệ xã hội đang có; trái lại, giai cấp bị bóc lột tùy theo
nhận thức về tính bất cơng của những quan hệ ấy mà đứng lên đấu tranh chống lại và


11

đề ra quan niệm đạo đức riêng của mình. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức có tính
giai cấp. Đồng thời, đạo đức cũng có tính kế thừa nhất định. Các hình thái kinh tế xã hội thay thế nhau nhƣng vẫn giữ lại những điều kiện sinh hoạt, những hình thức
cộng đồng chung. Theo V.I. Lênin thì tính kế thừa của đạo đức phản ánh những luật
lệ đơn giản và cơ bản của bất kỳ cộng đồng ngƣời nào. Đó là những yêu cầu đạo đức
liên quan đến những hình thức liên hệ đơn giản nhất giữa ngƣời với ngƣời. Mọi thời
đại đều lên án cái ác, tính tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản bội… và biểu dƣơng cái
thiện, sự dũng cảm, chính trực, độ lƣợng, khiêm tốn…Ph. Ăngghen đánh giá rằng đã

có một sự tiến bộ về mặt đạo đức cũng nhƣ về tất cả các ngành tri thức khác của
nhân loại và điều đó khơng ai có thể nghi ngờ đƣợc. Quan hệ giữa ngƣời với ngƣời
ngày càng mang tính nhân đạo cao hơn. Ngay trong xã hội ngun thủy đã có những
hình thức đơn giản của sự tƣơng trợ và khơng cịn tục ăn thịt ngƣời. Với sự xuất hiện
của liên minh bộ lạc và nhà nƣớc, tục bào thù của thị tộc dần dần mất đi. Xã hội chủ
nô coi việc giết nô lệ là việc riêng của chủ nô. Đến xã hội phong kiến, việc giết nông
nô bị lên án. Đạo đức phong kiến bóp nghẹt cá nhân dƣới uy quyền của tơn giáo và
q tộc. Đạo đức tƣ sản giải phóng cá nhân, coi trọng nhân cách. Nhƣng theo Ph.
Ăngghen thì chúng ta vẫn chƣa vƣợt đƣợc khuôn khổ của đạo đức giai cấp. Một nền
đạo đức thực sự có tính nhân đạo, đặt lên trên sự đối lập giai cấp và mọi hồi ức về sự
đối lập ấy chỉ có thể có đƣợc khi nào xã hội đã đạt tới một trình độ mà trong thực
tiễn của đời sống, ngƣời ta khơng những thắng đƣợc mà cịn qn đi sự đối lập giai
cấp. Đó là trình độ của xã hội tƣơng lai, xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
Trƣớc C. Mác và Ph. Ăngghen, các nhà triết học (kể cả duy tâm và duy
vật) đều rơi vào quan điểm duy tâm khi xem xét đến vấn đề xã hội và đạo đức.
Họ khơng thấy đƣợc tính quy định của nhân tố kinh tế đối với sự vận động của
xã hội nói chung và đạo đức nói riêng. Khác với quan điểm trên, C. Mác và
Ph. Ăngghen đã từng chứng minh rằng, trƣớc khi sáng lập các quan điểm tƣ
tƣởng, lý luận, con ngƣời đã hoạt động thực tiễn, tức là đã sản xuất ra các tƣ
liệu vật chất cần thiết cho đời sống. Toàn bộ tƣ tƣởng thể hiện trong các hình
thái ý thức xã hội của một thời đại đều bắt nguồn từ điều kiện sinh hoạt vật


12

chất của xã hội đó. Ý thức xã hội của con ngƣời là sự phản ánh tồn tại xã hội
của họ. Các hình thức xã hội khác nhau phản ánh những mặt khác nhau của đời
sống xã hội. Đạo đức cũng vậy, nó là một hình thái ý thức xã hội phản ánh sự
ồn tại xã hội dƣới dạng các nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực nhằm điều chỉnh
hành vi của con ngƣời.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, chúng ta có thể hiểu khái quát
khái niệm đạo đức nhƣ sau:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, bao gồm
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm đánh giá và điều chỉnh những
hành vi ứng xử của con người trong xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin, bởi
truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Nhƣ vậy, đạo đức khơng phải có sẵn ở đâu đó, nó đƣợc hình thành từ khi có
xã hội lồi ngƣời và tồn tại vĩnh viễn cùng loài ngƣời. Tuy nhiên, hệ thống các
nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực đạo đức lại có tính lịch sử, vì với tƣ cách là một
hình thái ý thức xã hội, đạo đức luôn phản ánh tồn tại xã hội, mà tồn tại xã hội lại
khơng bất biến. Hình thái ý thức xã hội đạo đức giúp con ngƣời điều chỉnh hành vi
của mình, hƣớng con ngƣời tới “chân- thiện- mỹ”.
Với tƣ cách là hình thái ý thức xã hội, đạo đức xuất hiện từ rất sớm trong
lịch sử, nó đƣợc mọi xã hội, mọi giai cấp, mọi thời đại quan tâm. Bàn về nguồn
gốc đạo đức, cho đến nay, đã có nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm tôn giáo
cho đạo đức có nguồn gốc từ thần thánh, con ngƣời và xã hội chẳng qua chỉ là
những hình thái biểu hiện cụ thể khác của đấng thần linh và những chuẩn mực
đạo đức là do thần thánh tạo ra để giáo dục con ngƣời. Các nhà triết hoc duy tâm
khách quan cho rằng đạo đức là những hiện tƣợng siêu nhiên có trƣớc và bên
ngoài con ngƣời. Các nhà triết học duy tâm chủ quan thì nhìn nhận đạo đức nhƣ là
năng lực bẩm sinh, năng lực “tiên thiên” của lý trí con ngƣời, nó độc lập với
những hoạt động mang tính xã hội của con ngƣời.
Những ngƣời theo chủ nghĩa duy tâm, tơn giáo, duy vật trƣớc Mác đã nhìn
thấy đạo đức trong quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời. Nhƣng chỉ coi con ngƣời


13

là một thực thể trừu tƣợng, bất biến, con ngƣời nhân bản, nghĩa là con ngƣời ở bên
ngồi tiến trình lịch sử, đứng trên giai cấp, dân tộc và thời đại.

Những ngƣời theo quan điểm học thuyết Đácuyn về xã hội đã tầm thƣờng
hóa quan điểm duy vật, khi họ đồng nhất những phẩm chất đạo đức của con ngƣời
với bản năng bầy đàn của động vật. Đối với họ, đạo đức về thực chất cũng chỉ là
những năng lực đƣợc đem lại từ bên ngoài con ngƣời, ngoài xã hội, chứ không coi
đạo đức là cái phản ánh cơ sở xã hội hiện thực khách quan.
Khác với các quan niệm trƣớc đó, chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định đạo
đức là sản phẩm của điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. “Xét đến cùng, mọi
học thuyết về đạo đức đã có từ trƣớc đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh
tế - xã hội lúc bấy giờ” [44, tr.137]. Đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã
hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử. Toàn bộ tƣ tƣởng thể hiện trong các hình
thái ý thức xã hội của một thời đại đều bắt nguồn từ điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội, từ tồn tại xã hội của con ngƣời trong thời đại đó, ý thức xã hội của con
ngƣời là sự phản ánh tồn tại xã hội của con ngƣời. Các quan điểm đạo đức chẳng
qua là sản phẩm của các chế độ kinh tế, các thời đại kinh tế mà thôi.
Bản chất của đạo đức không phải là một cái gì có sẵn hoặc tiên định. Đạo
đức phản ánh mối quan hệ giữa ngƣời và ngƣời về cái thiện và cái ác. Tuy nhiên,
quan niệm về thiện, ác cũng có tính lịch sử. Đạo đức là hiện tƣợng xã hội có tính
ngƣời sâu sắc nhất. Nó có tính phổ biến và đa dạng vì nó có mặt trong tất cả các
mối quan hệ xã hội và trong các lĩnh vực hoạt động của con ngƣời. Đạo đức bị chi
phối bởi điều kiện kinh tế, xã hội và lịch sử. Mặt khác, đạo đức còn bao hàm cảm
xúc, trách nhiệm của con ngƣời trƣớc hoàn cảnh sống, trƣớc đồng loại. Do đó,
đạo đức là sản phẩm tổng hợp của những yếu tố khách quan và những nhân tố chủ
quan. Mặt khách quan là những hiện thực đƣợc phản ánh vào ý thức đạo đức. Mặt
chủ quan là những nỗ lực vƣơn tới của con ngƣời nhằm đạt tới những giá trị đạo
đức đích thực.
Trong xã hội có giai cấp, bản chất của đạo đức ln mang tính giai cấp.
Tính giai cấp của đạo đức là một trong những biểu hiện bản chất xã hội của đạo


14


đức. Các nhà triết học trƣớc Mác và ngồi mácxít hoặc là khơng thấy tính giai cấp
của đạo đức, hoặc là cố tình phủ nhận tính giai cấp của đạo đức. Mỗi hình thái
kinh tế - xã hội đều có một hình thái ý thức đạo đức tƣơng ứng nhƣ: đạo đức của
xã hội nguyên thủy đến đạo đức của xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tƣ bản
và cộng sản chủ nghĩa, đó là những nấc thang đánh dấu sự tiến bộ về mặt đạo đức
của lịch sử lồi ngƣời. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì khơng thể có một
nền đạo đức chung thống nhất cho mọi giai cấp, mà tƣơng ứng với mỗi giai cấp
nhất định là một hệ thống đạo đức nhất định biện hộ cho lợi ích của giai cấp đó.
Tuy nhiên, hệ thống đạo đức đƣợc áp đặt cho toàn xã hội bao giờ cũng là
đạo đức của giai cấp thống trị. Sự phân biệt giai cấp là một hiện tƣợng có tính lịch
sử, do vậy tính giai cấp của đạo đức cũng có tính lịch sử. Q trình phát triển đạo
đức là một quá trình phủ định biện chứng, một mặt các hình thái sau kế thừa các
hình thái trƣớc, mặt khác bản thân nó tự biến đổi để phù hợp với tồn tại xã hội
tƣơng ứng. Quy luật của sự biến đổi đạo đức bao giờ cũng theo xu hƣớng tiến bộ
và sáng tạo ra những giá trị mới. Nguyên nhân sâu xa là do lực lƣợng sản xuất xã
hội ngày càng phát triển và hoàn thiện. Nhƣng cũng phải thấy rằng, nếu con
ngƣời không tự cố gắng biến đổi mình cho phù hợp với yêu cầu cuộc sống thì ý
thức và quan niệm cũ về đạo đức sẽ trở thành vật cản đối với sự phát triển xã hội.
1.1.2. Cấu trúc và chức năng của đạo đức
Cấu trúc của đạo đức
Đạo đức vận hành nhƣ là một hệ thống tƣơng đối độc lập của xã hội. Cơ chế
vận hành của nó đƣợc hình thành trên cơ sở liên hệ và tác động lẫn nhau của những
yếu tố hợp thành đạo đức nhƣ ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức, hành vi đạo đức.
Ý thức đạo đức là sự thể hiện thái độ nhận thức của con ngƣời trƣớc hành vi
của mình trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực hành vi và những quy tắc đạo
đức xã hội đặt ra; nó giúp con ngƣời tự giác điều chỉnh hành vi hoàn toàn tự giác, tự
nguyện theo những nghĩa vụ đạo đức. Ý thức đạo đức là một thể thống nhất giữa các
yếu tố nhƣ: lý tƣởng đạo đức, tri thức đạo đức, niềm tin đạo đức và tình cảm đạo
đức, phản ánh nhu cầu đạo đức và hiện thực đời sống của con ngƣời và xã hội.



15

Lý tƣởng là mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất, là những khát khao ƣớc vọng
con ngƣời muốn đạt tới. Lý tƣởng đạo đức có vai trị to lớn đối với hoạt động của
con ngƣời, có lý tƣởng đạo đức cao đẹp thì sẽ là động lực thơi thúc con ngƣời
vƣơn tới những chuẩn mực đạo đức cao đẹp, từ đó con ngƣời sẽ sống lƣơng thiện,
lành mạnh, có phẩm chất tốt và luôn đặt ra yêu cầu cao đối với chính bản thân
mình, có tinh thần trách nhiệm đối với ngƣời khác, đối với xã hội.
Tri thức đạo đức là sự hiểu biết của con ngƣời về những chuẩn mực đạo
đức mà nó quy định hành vi của họ trong mối quan hệ của con ngƣời với ngƣời
khác và với xã hội. Tri thức đạo đức là yếu tố quan trọng đầu tiên chi phối tới
hành vi đạo đức của con ngƣời. Tri thức đạo đức là cơ sở lý tính quan trọng để
chủ thể đạo đức lựa chọn và tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức, những nguyên
lý đạo đức tốt đẹp, trong sáng. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ giữa hiểu biết các tri
thức đạo đức khác với việc học thuộc lòng các tri thức đạo đức. Trong hoạt động
thực tiễn tri thức đạo đức giúp con ngƣời biết phân biệt giữa cái thiện và cái ác,
cái đúng và cái sai, giữa chủ nghĩa cá nhân ích kỷ và tinh thần tập thể trên cơ sở
những chuẩn mực đạo đức xã hội.
Niềm tin đạo đức, đó là sự tin tƣởng một cách sâu sắc của con ngƣời vào
tính đúng đắn, tính chân lý của các chuẩn mực đạo đức và sự thừa nhận tính tất yếu
phải tơn trọng triệt để các chuẩn mực đạo đức đó. Niềm tin đạo đức là cơ sở để con
ngƣời hình thành nên ý chí và phẩm chất đạo đức của mình. Khi có niềm tin vào lý
tƣởng và chuẩn mực đạo đức đúng đắn, con ngƣời có động lực để làm việc, phấn
đấu, thực hiện và bảo vệ những chuẩn mực đạo đức trong sáng. Ví dụ nhƣ: nếu
chúng ta có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chủ nghĩa xã hội và con đƣờng
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta hiện nay, sẽ cho ta động lực phấn đấu để thực
hiện bằng đƣợc mục tiêu đó.
Tình cảm đạo đức là thái độ, là sự rung cảm của cá nhân đối với ngƣời khác

và với xã hội. Trong cấu trúc nhân cách thì tình cảm đạo đức ln ln là hạt nhân,
nó định hƣớng nhân cách, chi phối thế giới quan, nhân sinh quan của con ngƣời, nó
chi phối đến mọi tình cảm khác của cá nhân. Tình cảm đạo đức là kim chỉ nam, là


16

cơ sở nền tảng tạo nên những tình cảm khác. Tình cảm đạo đức là yếu tố quan
trọng trong quá trình chuyển hóa từ tri thức đạo đức sang hành vi đạo đức đúng
đắn. Nếu khơng có tình cảm đạo đức trong sáng, lành mạnh thì dẫn đến hành vi
phản đạo đức mặc dù có thể rất hiểu biết về đạo đức.
Quan hệ đạo đức là hệ thống những quan hệ xác định giữa con ngƣời và con
ngƣời, giữa cá nhân và xã hội về mặt đạo đức. Quan hệ đạo đức là một dạng quan
hệ xã hội, là yếu tố thể hiện bản chất xã hội của con ngƣời. Các quan hệ đạo đức
khơng chỉ hình thành nên giữa các cá nhân, mà còn giữa cá nhân với xã hội, giữa
các giai cấp với nhau liên quan đến đến đạo đức (nhƣ vấn đề thiện ác, tốt xấu,
lƣơng tâm, trách nhiệm...), đƣợc thể hiện trong cuộc sống, trong hoạt động giao
tiếp, ứng xử. Quan hệ đạo đức đƣợc hình thành và phát triển nhƣ những qui luật tất
yếu của xã hội, nó thể hiện nhu cầu khách quan của cá nhân và xã hội. Quan hệ đạo
đức tồn tại một cách khách quan và luôn luôn biến đổi qua các thời đại lịch sử và
chính nó là một trong những cơ sở để hình thành nên tình cảm và ý thức đạo đức.
Hành vi đạo đức là những hành động đạo đức của con ngƣời đƣợc thể hiện
trong đời sống hàng ngày nhƣ: cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, lời nói, hành động và thái
độ ứng xử của con ngƣời với con ngƣời, trong hoạt động thực tiễn; mặt khác nó
cịn đƣợc biểu hiện nhƣ sự tƣơng trợ, giúp đỡ, cử chỉ nghĩa hiệp, hành động nghĩa
vụ giữa con ngƣời với con ngƣời, với cộng đồng xã hội. Hành vi đạo đức là q
trình hiện thực hố ý thức đạo đức trong cuộc sống, nó đƣợc nảy sinh trên cơ sở ý
thức đạo đức. Ý thức đạo đức trong sáng, phù hợp với những chuẩn mực, giá trị
đạo đức sẽ là cơ sở để thúc đẩy hành vi đạo đức đúng đắn, phù hợp với lợi ích của
xã hội và do đó, sẽ thúc đẩy xã hội phát triển, ngăn ngừa đƣợc những hành vi phản

đạo đức.
Ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức, hành vi đạo đức luôn ln có mối quan
hệ biện chứng với nhau, chúng thƣờng xuyên bổ sung cho nhau tạo nên bản chất
đạo đức của con ngƣời, của một giai cấp, của một chế độ xã hội và của một thời
đại lịch sử. Ý thức đạo đức phải đƣợc thể hiện bằng hành động thì mới đem lại
những lợi ích xã hội và ngăn ngừa đƣợc cái ác. Nếu tách ra khỏi thực tiễn đạo


17

đức, thì ý thức đạo đức khơng đạt tới giá trị và sẽ rơi vào trừu tƣợng theo kiểu các
giáo lý tôn giáo. Ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức, hành vi đạo đức là những yếu
tố tạo nên cấu trúc đạo đức. Trong đó, Mỗi yếu tố khơng tồn tại độc lập, mà liên
hệ tác động nhau, tạo nên sự vận động, phát triển và chuyển hóa bên trong của hệ
thống đạo đức.
Chức năng của đạo đức
Chức năng nhận thức, thẩm định giá trị đạo đức
Với tƣ cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận
thức thơng qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Sự phản ánh của đạo đức với hiện thực
có đặc điểm riêng khác với các hình thái ý thức khác. Đạo đức là phƣơng thức
đặc biệt của sự chiếm lĩnh thế giới con ngƣời. Nếu xét dƣới góc độ bản thể luận,
đạo đức là hệ thống tinh thần, đƣợc quy định bởi tồn tại xã hội. Nhƣng xét dƣới
góc độ xã hội học thì hệ thống tinh thần (nhận thức đạo đức) không tách rời thực
tiễn- hành động của con ngƣời. Do vậy, đạo đức là hiện tƣợng xã hội vừa mang
tính tinh thần vừa mang tính hành động hiện thực.
Những tƣ tƣởng đạo đức và chuẩn mực đạo đức xã hội có trở thành các quan
hệ đạo đức trong đời sống xã hội hay không, điều đó khơng chỉ phụ thuộc vào tính
đúng đắn, tƣ tƣởng đạo đức, của các chuẩn đạo đức, vào việc tuyên truyền, giáo
dục trong xã hội, mà còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng tiếp nhận và chuyển hố
nó trong hoạt động nhận thức và trong hành vi của mỗi chủ thể đạo đức. Thông qua

sự lựa chọn, đánh giá của các chủ thể đạo đức về những tƣ tƣởng, chuẩn mực đạo
đức, trong bản thân họ hình thành niềm tin, lý tƣởng đạo đức và các nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức trong quan hệ ứng xử của chính họ.
Hoạt động nhận thức đạo đức cũng bao gồm hai trình độ: tình cảm và tƣ
tƣởng đạo đức, kinh nghiệm và lý luận đạo đức.
Nhận thức đạo đức ở trình độ kinh nghiệm hoặc tình cảm đạo đức gắn liền
với hoạt động thực tiễn, với các quan hệ đạo đức của xã hội và luôn chịu ảnh
hƣởng của dƣ luận, tập quán, truyền thống đạo đức. Quá trình này hình thành nên ở
chủ thể đạo đức nhƣng hình ảnh, những "thần tƣợng" đƣợc coi là chuẩn mực trực


18

tiếp cho việc đánh giá, điều chỉnh hành vi đạo đức của họ. Chẳng hạn, một đứa trẻ
thƣờng thông qua việc quan sát những hành vi ứng xử của bố mẹ nó với bạn bè, với
những ngƣời thân trong gia đình, với cơng việc... nó cũng sẽ làm nhƣ bố mẹ đã làm
trƣớc đây.
Nhận thức đạo đức ở trình độ tƣ tƣởng hoặc lý luận là nhận thức có tính
ngun tắc đƣợc chỉ đạo bởi lý tính và những lợi ích căn bản của giai cấp, của
xã hội.
Thông qua quá trình nhận thức cũng nhƣ hoạt động thực tiễn, chủ thể đạo
đức phân tích, đánh giá, lựa chọn các tƣ tƣởng đạo đức và các chuẩn mực đạo đức
trong xã hội để trên cơ sở đó, chứng minh, lý giải các tƣ tƣởng đạo đức và các
chuẩn mực đạo đức đƣợc hình thành trong bản thân nó là đúng đắn và hợp lý, để
tiếp thu cái đúng, cái hợp lý và phê phán những sai trái trong các tƣ tƣởng và
chuẩn mực đạo đức khác.
Chức năng định hướng giáo dục
Chức năng giáo dục đƣợc thực hiện thông qua sự giáo dục của xã hội và sự
tự giáo dục của mỗi cá nhân. Con ngƣời là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ
thể của lịch sử. Con ngƣời tạo ra hồn cảnh đến mức nào thì hồn cảnh cũng tạo

ra con ngƣời đến mức ấy. Khi sinh ra con ngƣời đã có sẵn hệ thống đạo đức của
xã hội. Hệ thống ấy tác động đến con ngƣời và con ngƣời tác động lại hệ thống.
Hệ thống đạo đức do con ngƣời tạo ra, nhƣng sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn
tại nhƣ là cái khách quan hoá tác động, chi phối con ngƣời. Xã hội có giai cấp
hình thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức mà các cá nhân chịu sự tác động.
Giáo dục đạo đức là quá trình tuyên truyền những tƣ tƣởng, những chuẩn
mực đạo đức xã hội, biến nó thành thƣớc đo đánh giá, điều chỉnh hành vi của mỗi
cá nhân nhằm đạt tới một sự phù hợp giữa hành vi cá nhân với lợi ích xã hội.
Trong q trình hoạt động sinh sống, mỗi cá nhân khơng chỉ mƣu cầu lợi
ích vật chất, lợi ích tinh thần, mà cịn mƣu cầu sự tiến bộ của bản thân và đều
muốn đƣợc dƣ luận thừa nhận và biểu dƣơng. Do đó, những tƣ tƣởng và những
chuẩn mực đạo đức xã hội trở thành mục tiêu, thành những định hƣớng cho hoạt


19

động cá nhân của nó. Những hành vi đạo đức có tính chất lặp đi lặp lại, tạo nên
các quan hệ đạo đức tƣơng đối ổn định và nó thƣờng xuyên đƣợc duy trì, củng cố
bằng dƣ luận xã hội sẽ trở thành thói quen, tập quán, truyền thống đạo đức trở
thành nhân tố trực tiếp tác động đến sự hình thành đạo đức của thế hệ ngƣời tiếp
theo. Nhƣ vậy, giá trị đạo đức trong trƣờng hợp này đƣợc hình thành, phát triển ra
sao ln phụ thuộc vào tính đúng đắn, khoa học của những tƣ tƣởng và những
chuẩn mực đạo đức đƣợc tuyên truyền, giáo dục trong xã hội.
Tự giáo dục đạo đức của cá nhân, trƣớc hết thể hiện ở chỗ, mỗi cá nhân
thông qua sự tự phán xét của lƣơng tâm về hành vi của mình để củng cố các
chuẩn mực đạo đức cá nhân, để đạt tới hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn
mực đạo đức đó. Mặt khác, dựa vào dƣ luận xã hội, họ tự điều chỉnh hành vi và
điều chỉnh ngay cả những chuẩn mực đạo đức cá nhân khi nhận thấy nó sai lệch
với chuẩn mực xã hội. Giá trị đạo đức trong trƣờng hợp này đƣợc xác định phụ
thuộc vào sự nhạy cảm, sự cầu thị của chủ thể trong việc tu dƣỡng, rèn luyện đạo

đức cho phù hợp với tƣ tƣởng, chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi
Đạo đức là một phƣơng thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi
làm cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển, bảo đảm quan hệ lợi ích cá nhân
và cộng đồng. Loài ngƣời sáng tạo ra nhiều phƣơng thức điều chỉnh hành vi,
trong đó có chính trị, pháp quyền và đạo đức…
Sự điều chỉnh hành vi của đạo đức đƣợc thực hiện dƣới hai hình thức chủ
yếu. Một là, thơng qua dƣ luận xã hội, ca ngợi, khuyến khích cái thiện, cái tốt, lên
án, phê phán cái ác, cái xấu. Trong trƣờng hợp này, giá trị của hành vi đạo đức
phụ thuộc vào sức mạnh và tính đúng đắn của dƣ luận. Mỗi khi dƣ luận xã hội
đƣợc củng cố và phát triển, đƣợc mọi ngƣời đồng tình ủng hộ, nó sẽ trở thành sức
mạnh to lớn trong việc điều chỉnh đạo đức. Dân tộc ta có câu ca: "Trăm năm bia
đá thì mịn, ngàn năm bia miệng vẫn cịn trơ trơ". Quả thật, cái "bia miệng" (dƣ
luận xã hội) hàng ngàn năm vẫn lƣu truyền, nó lâu bền hơn cả sắt đá và trở thành
công cụ lợi hại trong việc điều chỉnh hành vi đạo đức. Do đó, nếu dƣ luận xã hội


20

mỗi khi đƣợc hƣớng dẫn bởi những học thuyết đạo đức tiên tiến, sẽ góp phần điều
chỉnh hành vi đạo đức, làm cho nó phù hợp với sự tiến bộ xã hội, tạo nên những
giá trị đạo đức đích thực. Hai là, bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành
vi của mình theo những chuẩn mực đạo đức xã hội. Cách thức điều chỉnh này phụ
thuộc vào việc giáo dục, giác ngộ của chủ thể đạo đức. Bởi lẽ, trong quan hệ đạo
đức chủ thể đạo đức vừa tham gia vào hành vi ứng xử, vừa là ngƣời phán xét hành
vi ứng xử của chính mình. Khi thực hiện hành vi ứng xử, chủ thể đạo đức dựa vào
các chuẩn mực đƣợc hình thành trong bản thân họ (chuẩn mực này đã tiếp thu
chuẩn mực đạo đức xã hội và do điều kiện sinh sống và các quan hệ xã hội cụ thể
của cá nhân chủ thể tạo thành). Nếu các chuẩn mực đó phù hợp với chuẩn mực đạo
đức xã hội, nó sẽ trở thành cơ sở khách quan làm cho hành vi đạo đức của cá nhân

phù hợp với lợi ích xã hội, đƣợc dƣ luận đồng tình ủng hộ. Ngƣợc lại, mỗi khi
chuẩn mực cá nhân sai lệch với chuẩn mực xã hội sẽ dẫn đến những hành vi đạo
đức cá nhân không phù hợp với lợi ích xã hội. Trong trƣờng hợp này, dƣ luận xã
hội sẽ lên án, phê phán. Khi phán xét hành vi ứng xử của mình, chủ thể đạo đức
căn cứ vào chuẩn mực đạo đức của cá nhân họ. Nếu nhƣ vì thiếu nhiệt tình, chƣa cố
gắng hết sức mình, nên khơng thực hiện đƣợc một quan hệ đạo đức nào đó đúng
nhƣ chuẩn mực của bản thân, thì lƣơng tâm họ bị cắn rứt, họ cảm thấy ân hận, xấu
hổ về hành vi của mình. Ngƣợc lại, mỗi khi họ thực hiện đƣợc những quan hệ đạo
đức đúng nhƣ chuẩn mực đã hình thành ở họ, thì lƣơng tâm họ cảm thấy thanh
thản, họ tự hào về hành vi của mình.
Nhƣ vậy, với cách thức điều chỉnh này, giá trị đạo đức phụ thuộc vào các
chuẩn mực đạo đức đƣợc hình thành trong mỗi chủ thể đạo đức, đó là cơ sở cho
hành vi đạo đức của mỗi cá nhân phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ xã hội.
1.1.3. Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức có vai trị rất lớn trong đời sống xã hội, trong đời sống con ngƣời,
đạo đức là vấn đề thƣờng xuyên đƣợc đặt ra và giải quyết nhằm đảm bảo cho cá
nhân và cộng đồng tồn tại phát triển. Sống trong xã hội ngƣời ta ai cũng phải suy
nghĩ về những vấn đề đạo đức để tìm ra con đƣờng, cách thức và phƣơng tiện hoạt


×