Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.77 KB, 21 trang )

1. Phần mở đầu
1.1. Lí do chọn sáng kiến
Giao tiếp là một hoạt động không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày, nhờ
có giao tiếp mà tâm lý con người được hình thành và phát triển. Ngồi việc có tri
thức, có sức khỏe, có đạo đức con người cịn cần phải có các kĩ năng sống như: kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng làm việc hợp tác, kĩ năng ứng xử, kĩ năng giải quyết mâu
thuẫn, kĩ năng lập kế hoạch. Đặc biệt kĩ năng giao tiếp được coi là chìa khóa để
mở cửa cho sự thành cơng của mỗi con người. Để mang lại sự thành công lớn
trong cuộc sống và trong các hoạt động học tập, mỗi người phải tự tìm hiểu, học
hỏi và rèn luyện để hình thành kĩ năng giao tiếp.
Trong thực tế, ở độ tuổi học sinh tiểu học, trẻ em đặc biệt là học sinh lớp 1
gặp khơng ít khó khăn, lúng túng trong năm đầu tiên cắp sách đến trường. Vào
lớp 1 là bước ngoặt trong cuộc đời trẻ: môi trường học tập, sinh hoạt thay đổi từ
chỗ học chủ yếu là chơi ở trường mầm non sang môi trường học tập mới với
những nội quy, quy định, với những yêu cầu cao hơn. Các mối quan hệ của trẻ
cũng được mở rộng hơn. Trẻ không biết giao tiếp như thế nào cho đúng với người
trên, với bạn bè, với em nhỏ. Bên cạnh những mối quan hệ phức tạp đó, trẻ cịn
phải lĩnh hội vốn tri thức bắt buộc của lớp học. Tất cả những yếu tố tác động
không nhỏ đối với cuộc đời trẻ. Kĩ năng giao tiếp ở các em như thế cho phù hợp
để các em có khả năng điều chỉnh và lựa chọn hành vi đúng đắn. Kĩ năng này
không chỉ đáp ứng yêu cầu của một giai đoạn nào đó mà cịn là hành trang cần
thiết cho cả đời người, đặc biệt là chuỗi ngày đi học. Vì vậy, giáo dục kĩ năng
giao tiếp trong trường học là một vấn đề rất quan trọng.
Vậy, nguyên nhân nào và cần làm gì để khắc phục được những khó khăn
trong giao tiếp của học sinh lớp 1; Điều gì sẽ là động lực thúc đẩy, nâng cao kĩ
năng giao tiếp và giáo dục toàn diện cho học sinh. Với tất cả những lý do trên đã
khiến tôi chọn sáng kiến “Rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 1” để nghiên
cứu.
1



1.2. Điểm mới của sáng kiến.
Đề tài về vấn đề tài rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh lớp 1 ở trường Tiểu
học được rất nhiều các học giả nghiên cứu nhưng ở phạm vi tổng quát dành cho
học sinh tiểu học nói chung ở các vùng miền khác nhau nhưng nó chưa thực sự
phù hợp với đặc thù của trường nơi tôi đang công tác. Là trường Tiểu học thuộc
vùng khó khăn, kinh tế cịn chậm phát triển, dân trí con thấp. Nhiều gia đình lo
làm kinh tế mà chưa quan tâm đến giáo dục phẩm chất cho học sinh, đặc biệt là
rèn kỹ năng giao tiếp cho các em lại càng khó khăn hơn; việc phối hợp giáo dục
tay ba “Nhà trường - Gia đình - Xã hội” cịn thiếu tích cực. Để các em học sinh
lớp 1 có kĩ năng giao tiếp đạt kết quả như mong muốn thì cần có những biện pháp
sát thực, cụ thể, phù hợp với đặc thù của đơn vị mình. Những sáng kiến trong đề
tài của tôi đã mang lại nhiều hiệu quả thiết thực trong việc rèn kĩ năng giao tiếp
cho các em học sinh nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng. Với những biện pháp
tích cực này, nếu được áp dụng phù hợp ở các trường bạn chắc chắn sẽ đưa lại
hiệu quả thiết thực. Trong đề tài này tôi đặc biệt quan tâm đến các biện pháp để
thực hiện quá trình giáo dục từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng
lực và phẩm chất cho người học. Từng bước làm thay đổi quá trình giáo dục
thành quá trình tự giáo dục rèn luyện của học sinh, học sinh dần tự trang bị cho
mình các năng lực, đặc biệt là năng lực - kĩ năng giao tiếp.

2


2. Phần nội dung
2.1. Thực trạng giao tiếp của học sinh lớp 1
Từ thực tế giảng dạy, với đặc điểm học sinh trường Tiểu học tôi đang dạy,
một trường ở địa bàn miền núi khó khăn thì kĩ năng giao tiếp của các em cịn
nhiều hạn chế. Qua tìm hiểu về kĩ năng giao tiếp của các em học sinh tôi nhận
thấy rằng khả năng tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và các hoạt động giáo dục của học
sinh khá nhanh. HS được tham gia nhiều hoạt động trong nhà trường, gia đình và

trong cuộc sống hằng ngày của các em. Các em thiết lập được nhiều mối quan hệ
giao tiếp khác nhau tạo nên môi trường giao tiếp khá đa dạng. Đa phần các em
đều ngoan, thích được tham gia vào các tiết hoạt động ngoài giờ, một số ít có
năng khiếu, mạnh dạn, tự tin, tích cực hoạt động trong giờ học, tham gia tốt các
phong trào của Liên đội, nhà trường tổ chức.
Song bên cạnh những ưu điểm trên, qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm
và giảng dạy lớp 1, tôi nhận thấy trong giao tiếp các em vẫn còn nhiều hạn chế.
- Đa số học sinh lớp 1 vẫn còn rụt rè trong giao tiếp với thầy cô giáo, thiếu
tự tin trong giao tiếp, hợp tác; lúng túng trước thầy cô, người lạ..., nhiều em khác
gặp phải khó khăn khi diễn đạt, đặc biệt là giao tiếp bằng nét mặt, cử chỉ, điệu bộ.
Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình giao tiếp hàng ngày cũng như tiếp
thu kiến thức tại trường của các em.
- Nhiều học sinh thường nói trống khơng, khơng có đầu, có cuối, đi khơng
chào, về khơng hỏi và đơi khi nói với người lớn rất khó nghe, thường lúng túng
trong cách diễn đạt.
- Một vài học sinh có dấu hiệu tự kỹ, thích chơi một mình, khơng hợp tác
với giáo viên trong quá trình học tập.
Từ thực trạng trên, chúng ta thấy được rằng nếu trẻ khơng có kĩ năng giao
tiếp sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình học tập cũng như quá trình giao tiếp
với mọi người xung quanh. Từ đó, làm trẻ mất tự tin, không mạnh dạn trước đám
đông.
Để nắm rõ hơn về kĩ năng giao tiếp của các em học sinh lớp 1B, bước vào
đầu năm học 2018 - 2019, sau khi nhận lớp được 3 tuần, tôi tiến hành khảo sát
điều tra như sau:

3


Bảng thống kê một số kĩ năng giao tiếp của học sinh lớp 1B, đầu năm học:
2018 - 2019

Tổng
Nói to, rõ
số học ràng, phát
sinh
âm đúng
đảm bảo tốc
độ

31

Nói hơi
chậm, 1 số
âm, tiếng
nói chưa
đúng trong
giao tiếp

Nói
ngọng,
nói lắp,
sai nhiều
trong
giao tiếp

Nói trống
khơng,
khơng rõ
nghĩa,
chưa biết
nhìn vào

đối tượng
giao tiếp.

Học sinh
biết giao
tiếp bằng
nét mặt, cử
chỉ, điệu
bộ khi nói

SL

%

SL

%

SL/%

SL

%

SL

%

9


29

25

80

11/35

19

62

7

23

Biết dùng
từ khá
chính xác;
sử dụng
câu khá
phù hợp
với nội
dung, ngữ
cảnh giao
tiếp
SL
%
5


16

Theo bảng thống kê một số kĩ năng giao tiếp của học sinh lớp 1B, đầu năm
học: 2018 – 2019 kết quả cho thấy: Học sinh nói to, rõ ràng, phát âm đúng đảm
bảo tốc độ cịn ít , chiếm tỉ lệ 19%; Học sinh nói hơi chậm, 1 số âm, tiếng nói
chưa đúng trong giao tiếp cịn nhiều 25 em chiếm tỉ lệ 80%; tỉ lệ học sinh nói
ngọng, nói lắp, sai nhiều trong giao tiếp còn nhiều 35%; đặc biệt là tỉ lệ học sinh
nói trống khơng, khơng rõ nghĩa, chưa biết nhìn vào đối tượng giao tiếp chiếm tỉ
lệ lớn, trong khi đó số học sinh biết giao tiếp bằng nét mặt, cử chỉ, điệu bộ khi nói
và học sinh biết dùng từ ngữ khá chính xác; sử dụng câu khá phù hợp với nội
dung, ngữ cảnh giao tiếp cịn q ít. Đây là thực trạng làm tơi rất lo lắng, trăn trở
khi bắt đầu dạy học các em.
Từ thực trạng trên, tơi đã tìm hiểu được một số nguyên nhân ảnh hưởng đến
quá trình giao tiếp để có những giải pháp giáo dục phù hợp
- Một trong những nguyên nhân cơ bản là quan niệm về giáo dục kĩ năng
sống ở một số bộ phận phụ huynh còn hạn chế. Phụ huynh chưa quan tâm đúng
mức đến con cái, chưa tạo điều kiện cho trẻ giao tiếp như: chưa trò chuyện cùng
con, chưa chơi cùng con, thường thả cho các em tự chơi, sử dụng điện thoại di
động. Nhiều phụ huynh học sinh chỉ quan tâm đến việc học kiến thức mà khơng
quan tâm đến việc hình thành và phát triển các năng lực, phẩm chất của con em
mình. Đa số phụ huynh học sinh cho rằng: Việc giáo dục con em chủ yếu là ở nhà
trường chứ phụ huynh không cần thiết phải quan tâm.
4


- Giáo viên và người lớn chưa thật gần gũi, thân thiện với học sinh.
- Việc rèn kĩ năng giao tiếp trong các mơn học cịn hạn chế.
- Rèn kĩ giao năng tiếp qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui
chơi còn chưa sâu sát.
- Phần lớn các em được nuông chiều không được dạy bảo, uốn nắn ngay từ

khi học nói.
- Các em chuyển từ mơi trường học tập mầm non chủ yếu chơi sang môi
trường tiểu học với những yêu cầu cao hơn, có nội quy, quy chế,… Ở tiểu học,
môi trường giao tiếp ngày càng rộng, đối tượng giao tiếp ngày càng phong phú.
Trong khi đó, vốn từ của các em cịn hạn chế.
- Xét về nguyên nhân chủ quan đầu tiên cần phải kể đến là quan niệm của
giáo viên, một số giáo viên cịn xem nhẹ hoạt động nói của học sinh trước lớp,
chỉ chú trọng đến kĩ năng đọc, viết nên trong giờ học tiếng Việt thời lượng dành
cho hoạt động nói của học sinh q ít. Chính vì thời lượng ít nên số lượng học
sinh tham gia nói về nội dung bài không được nhiều mà chỉ qua loa một vài em
mà thôi. Chưa quan tâm nhiều đến những học sinh ít nói, nghèo nàn về ngơn ngữ,
vì sợ gọi những em này trả lời sẽ làm mất nhiều thời gian. Vấn đề này vơ tình
giáo viên đã làm cho những học sinh rụt rè ngày càng trở nên nhút nhát hơn. Nêu
câu hỏi chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp, câu hỏi dễ lại dành
cho học sinh khá, câu hỏi khó đơi khi muốn học sinh yếu trả lời,…
2.2. Các giải pháp thực hiện:
Với những thực trạng nêu trên, chúng ta phải nhận thấy rằng giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh đặc biệt là học sinh lớp 1 là rất quan trọng. Trong đó,
khơng thể khơng kể đến vai trị của rèn kĩ năng giao tiếp cho các em ngay từ
những ngày đầu tiên bước vào ngưỡng của trường tiểu học. Vậy vì sao phải giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh?
Có thể hiểu rằng kĩ năng sống của con người nói chung là khả năng điều
chỉnh và lựa chọn hành vi đúng đắn, giúp mỗi người có khả năng điều chỉnh nhu
cầu của bản thân một cách hợp lý và ứng phó trước những thử thách trong cuộc
sống hằng ngày.
Ở lớp 1 môi trường giáo dục đã có sự thay đổi, các em đã chuyển từ chơi
sang học đồng thời mối quan hệ cũng được mở rộng cho nên trẻ xuất hiện nhiều
khó khăn trong giao tiếp. Dù muốn tìm hiểu thế giới xung quanh, muốn làm
5



nhiều công việc nhưng trẻ lại dễ chán nản, mất lịng tin khi gặp khó khăn trở
ngại. Xoay quanh nhiều mối quan hệ, trẻ không biết ứng xử như thế nào cho
đúng, giao tiếp như thế nào cho phù hợp với chuẩn mực và quy tắc xã hội. Chính
vì thế, người thầy đóng vai trị vơ cùng quan trọng, phải hướng dẫn một cách tỉ
mỉ, chu đáo, thường xuyên tạo nên sự gần gũi thân thiện giữa thầy và trò, giữa
học sinh với học sinh, giữa bản thân các em với các đối tượng của xã hội.
Chính vì thế, tơi đưa ra một số giải pháp sau:
Giải pháp 1: Hình thành các kĩ năng giao tiếp và tạo động lực học tập
trong những tuần đầu tiên của lớp 1.
Đến với những tiết học đầu tiên ( đặc biệt là hai tuần 0) tất cả đều mới mẻ,
lạ lẫm đối với học sinh lớp 1, cần biết rằng mọi thao tác, mọi tư thế, mọi cách nói
năng, giao tiếp (nhận việc, trả lời)… được hình thành trong giai đoạn này là hết
sức quan trọng vì nó rất bền vững và sẽ theo suốt các em trong cả cuộc đời học
tập, công tác. Những thao tác, những thói quen, những tư thế, tác phong đúng,
đẹp sẽ rất có lợi cho lâu dài và ngược lại. Bởi thế rèn luyện các thao tác, động
hình, tư thế … trong tuần 0 cần phải hết sức chuẩn mực, rõ ràng, dứt
khốt (khơng sai, khơng thừa, nhẹ nhàng nhưng có kỉ luật). Để cho các buổi học
đầu tiên được diễn ra nhẹ nhàng, hấp dẫn mà hiệu quả, thực sự làm cho học sinh
lớp 1 thấy “ Đi học là hạnh phúc ”, “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” đòi
hỏi giáo viên lớp 1 phải đa dạng hóa việc tổ chức dạy học, đặc biệt cần coi trọng
việc tổ chức các trò chơi để củng cố kĩ năng đặc biệt là kĩ năng nói, kĩ năng giao
tiếp. Giáo viên khơng chỉ cần nói rõ kĩ cách tổ chức các trò chơi trong sách Thiết
kế mà cịn phải tìm hiểu nhiều trị chơi khác, cải tiến luật chơi, cách chơi để học
học sinh thường xuyên thấy mới lạ, hứng thú tạo được môi trường giao tiếp thơng
qua cách nói vói bạn, với cơ thầy, và thông qua thực hiện, trao đổi khi tham gia
chơi.
Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh biết cách phát âm
đúng, để nói đúng và giao tiếp tốt


6


Hướng dẫn cách phát âm là phương pháp quan trọng hàng
đầu, bởi thông qua phát âm đung các từ ngữ, các câu thì học
sinh mới có thể nói đúng, lưu lốt. Vì vậy, địi hỏi người giáo viên
phải có những hiểu biết, kinh nghiệm và cả kĩ năng hướng dẫn
tốt. Khi hướng dẫn học sinh phát âm, cần dùng lời nói rõ ràng,
mạch lạc, đơn giản để học sinh dễ hiểu và có thể tự mình phát
âm đúng.
a) Về âm:
– Giáo viên phải phát âm chuẩn để học sinh phát âm theo.Giáo viên chỉ phát âm
một lần, nhưng cần rõ ràng, và chính xác. Nhưng đối với các em cịn chậm,đặc
biệt các học sinh tiếp thu còn hạn chế, giáo viên cần quan tâm chú trọng đến các
em nhiều hơn. Nếu các em phát âm còn sai âm mới, giáo viên cần phát âm lại 2-3
lần, để giúp các em sửa chữa và nắm được và nắm chắc các âm đó.
– Cần nắm được đó là nguyên âm hay phụ âm( thơng qua phân biệt luồng hơi,
khẩu hình… trong khi phát âm).
* VD: Khi phát âm nguyên âm, luồng hơi ra tự do, có thể kéo dài được: a, o, ô, u,
ư, e…
Khi phát âm phụ âm, luồng hơi đi ra bị cản, không thể kéo dài được: b, h, c,
l….
- Đối với những âm dễ nhầm lẫn, giáo viên cần phải so
sánh, phân tích cụ thể cách phát âm (môi – răng – lưỡi, độ mở
khẩu miệng, tự phát âm và cảm nhận bằng luồng hơi đi ra, …)
VD: Khi học sinh sai lẫn âm s /x giáo viên cần hướng dẫn:
+ Âm s: lưỡi uốn cong, bật đầu lưỡi cho hơi thoát ra mạnh, dứt
khoát.
+ Âm x: Lưỡi


thẳng, cho hơi thoát ra đường mũi, sau đó mở

miệng cho hơi thoát ra trên mặt lưỡi, luồng hơi có thể kéo dài.
Với những học sinh vẫn chưa phát âm được, giáo viên có thể yêu
7


cầu các em dùng hai ngón tay, bóp mũi lại để đọc âm s (đối với âm
x, khi bóp mũi lại sẽ khơng thể đọc được rõ).
- Trong mơ hình TV1 – CGD có điểm khác so với chương trình Tiếng Việt
cũ là cách phát âm một số âm viết khác nhau nhưng phát âm giống nhau. Vì vậy
GV phải nắm chắc cách phát âm các âm đó.
VD:

Âm /c/, /k/, /q/ đều được đọc là /cờ/.
Âm đôi /iê/, /ia/, /yê/, /ya/ đều được đọc là /ia/; /uô/,/ua/ đều được đọc

là /ua/; /ươ/, /ưa/ đều được đọc là /ưa/.
b) Về vần
– Để học tốt phần vần của Tiếng việt lớp 1-CGD, trước hết các em phải
nắm chắc các âm đã học.
- Cần cho HS nắm chắc các mẫu vần để cho các em phát âm đúng, phân
biệt sự khác nhau giữa các mẫu vần.
VD: HS sai lẫn ở những âm đầu vần và cuối vần “ac” đọc
thành “at”:, giáo viên cần hướng dẫn:
+ ac: mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong chân lưỡi.
+ at: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên
mặt lưỡi.
c, Về tiếng:
- Hướng dẫn cho các em cách phát âm tiếng chứa dấu thanh.

VD: + Tiếng có thanh hỏi: giáo viên cần hướng dẫn cho học
sinh phát âm trầm, hơi luyến giọng, lên cao, kéo dài hơi. Có thể
kèm theo động tác ngửa cổ hướng mắt lên trên.
+ Tiếng có thanh nặng: phát âm thấp giọng và nặng, dứt
khốt (khơng kéo dài). Khi phát âm có thể làm động tác gật đầu.
+ Những tiếng có thanh ngã đọc nhấn mạnh, hơi kéo dài,
luyến giọng, lên cao giọng. ( VD: ngã ba ; hướng dẫn, đưa
võng,....)
8


+ Những tiếng có thanh sắc: Đọc nhẹ nhàng hơn tiếng có
thanh ngã, hơi ngắn, đọc nhanh, không kéo dài. ( VD: gói bánh,
Thánh Gióng, chóng lớn,....) học sinh có thể dễ dàng phát âm và
đạt hiệu quả cao.
d, Về câu, đoạn và bài:
Câu, đoạn và bài là một thể tổng hợp lại các tiếng, từ đã học cấu thành một
sản phẩm mang nghĩa nào đó. Vì thế khi luyện phần này, GV phải đặc biệt chú ý
đến ngắt nghỉ, nhấn giọng và thực hiện tốt việc Đọc trong quy trình 4 việc của
mỗi bài.
Giải pháp 3: Rèn kĩ năng giao tiếp tích hợp trong chương trình dạy học
mơn Tiếng Việt Công nghệ và các môn học khác
Trong mỗi tiết dạy, tôi đã lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng giao tiếp ở
từng môn học. Đã liên hệ cuộc sống để các em khơng xa vời thực tế. Ngồi ra tơi
cịn thường xun tổ chức cho các em thảo luận sau đó trình bày trước lớp. Nếu
học sinh hiểu biết nhiều thì các em sẽ càng mạnh dạn, tự tin khi nói và nhờ đó lời
nói của các em sẽ rõ ràng, mạch lạc giúp người nghe dễ tiếp thu.
- Dạy học sinh giao tiếp thông qua môn Công nghệ Tiếng
Việt
Dạy môn Tiếng Việt (phân môn học vần) đều có mục luyện nói song khơng

phải cứ đến mục này thì các em mới được tham gia nói, mà trong quá trình đàm
thoại như khi bắt đầu vào học vần mới là nhận diện vần, các em đã được tham gia
nói, giáo viên định hướng, uốn nắn cho học sinh nói từ nói đúng đến nói đủ,
khơng nên trả lời trống khơng.
Ví dụ: Dạy bài vần ơt – ơt:
Dạy vần ôt: Sau khi cho học sinh đọc, phân tích vần, GV hỏi:
Vần ôt gồm mấy âm? (Học sinh trả lời: Vần gồm hai âm: Âm chính ơ, âm
cuối t). Đến đây giáo viên cũng cần uốn nắn ngay từ đầu để các em cần nói đúng,
đủ, kể cả học sinh khác tham gia nhận xét cũng vậy. (ví dụ: Em thưa cô bạn trả
lời đúng, đủ rồi ạ; hoặc bạn trả lời đúng (gần đúng) rồi ạ). Không nên để học sinh
trả lời cộc lốc như: đúng - sai qua ngơn ngữ nói

9


Khi dạy đến vần ơt, yêu cầu so sánh hai vần, giúp các em nói được: hai
vần giống nhau đều có âm cuối t; khác nhau vần ơt có âm chính ơ, vần ơt có âm
chính ơ. Như vậy cứ sau một hoạt động, giáo viên đều cho các em tự nhận xét về
câu trả lời của bạn, đó cũng chính là hình thức tăng cường Tiếng Việt (hay đó
chính là động viên các em phát triển lời nói tự nhiên). Giáo viên cần quan sát và
nếu cịn có học sinh luyện nói chưa tốt, giáo viên nên hướng dẫn cho các em thực
hành nói theo mẫu.
Phần luyện nói câu chứa tiếng là một nội dung nhằm phát triển ngôn ngữ
tự nhiên của trẻ, do vậy sau mỗi bài học nào cũng có mục luyện nói câu chứa
tiếng, nhằm huy động vốn hiểu biết của học sinh, qua đó học sinh biết diễn đạt ý
của mình thành câu rõ ràng.
Ví dụ học sinh đặt câu chứa vần oat: Em chơi bóng nóng ba bật quạt cho
em. Giáo viên giúp học sinh nói rõ ràng, gãy gọn hơn: Em đi chơi bóng về nóng
quá. Ba bật quạt cho em mát.
Đặc biệt là tổ chức cho học sinh luyện đọc theo nhiều hình

thức ( cá nhân - nhóm - dãy - lớp) kết hợp phân tích một số tiếng
chứa vần mới học để phát triển kĩ năng giao tiếp cho các em.
Trong quá trình HS nói, GV phải lắng nghe để giúp đỡ, sửa sai kịp
thời, triệt để. Lưu ý, trong quá trình HS nói, nếu các em mắc lỗi
về phát âm một số tiếng thì GV nên dừng lại điều chỉnh, sửa sai
bằng cách phân tích, đánh vần theo cơ chế phân đôi từ đó tạo
môi trường học tập và giao tiếp một cách linh hoạt trong khi học
môn Tiếng Việt cho các em và từ đó các em áp dụng vào giao tiếp hàng
ngày tốt hơn.
Trong hoạt động ứng dụng, liên hệ thực tế, tôi thường đặt các câu hỏi gần
gũi với cuộc sống thường ngày của học sinh để các em dễ dàng chia sẻ, nói được
những hiểu biết của mình về chủ đề mà giáo viên yêu cầu. Hoạt động này, tơi
thường tổ chức cho học sinh nói theo nhóm nhỏ để các em tự nói với nhau, thơng
qua đó rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh.
Khi học sinh nhận biết rõ những kiến thức, cách giao tiếp thì nếu gặp trường
hợp đó ở ngồi thực tế các em sẽ áp dụng tốt.
10


- Dạy môn đạo đức bên cạch hướng dẫn HS tìm hiểu nội
dung bài bằng một số câu hỏi phù hợp để tạo cho học sinh được
phát biểu, được nói để giao tiếp phù hợp trong mỗi bài học.
Ví dụ: Dạy dạng bài “Nói lời cảm ơn, xin lỗi” đạo đức lớp 1
Các em biết trong những tình huống nào nên nói lời cảm ơn: Khi người khác
làm cho mình việc tốt. Em cần xác định đối tượng là ông, bà, bác, hay là anh chị
để nói lời cảm ơn cho phù hợp, lịch sự. Chẳng hạn, anh lớp trên nhặt hộ em cái
bút em đánh rơi, thì em cần nói để anh vui, khi giao tiếp với anh nên thể hiện thái
độ vui vẻ, phấn khởi: “Em cảm ơn anh nhé!” hoặc “Anh thật tốt! Em cảm ơn
anh !”
Khi làm phiền, làm người khác buồn em cũng cần xác định đúng đối tượng

để nói lời xin lỗi, lần này thái độ hồn tồn ngược lại với cảm ơn vì mình là
người có lỗi. (Làm bạn ngã đau, giữa đám đơng vì đang vội nên em muốn đi
trước,..)
- Dạy mơn tự nhiên xã hội tôi luôn lồng ghép từ cung cấp kiến thức cho đến
rèn kĩ năng giao tiếp cho các em
Ví dụ: Dạy bài “Nhà ở” tiết Tự nhiên xã hội 1
Sau khi cho học sinh hoạt động nhóm kể về ngơi nhà của mình, tơi u cầu
học sinh kể về ngơi nhà của mình cho cả lớp nghe, qua đó giúp học sinh rèn kĩ
năng giao tiếp trước đám đơng, mạnh dạn và tự tin, nói năng lưu lốt hơn. Khi kể
xong, tơi cho học sinh nêu cảm nhận của mình về ngơi nhà của bạn để giúp các
em tự tin khi trao đổi một vấn đề nào đó.
- Hay trong tiết Tốn, khi học sinh đánh giá, nhận xét bài làm của bạn, các
em đã được rèn kĩ năng giao tiếp và kĩ năng chia sẽ một cách đúng mực. Chẳng
hạn: Bạn làm sai, nhận xét là “Theo tớ, cách giải thế này” chứ khơng nói “Cậu
làm sai rồi” hoặc nhận xét một cách không tế nhị,…
Giải pháp 4: Dạy kĩ năng giao tiếp thông qua việc tổ chức lớp học.
Trong mỗi tiết học, tôi thường tổ chức cho học sinh trao đổi, thảo luận về
một vấn đề nào đó cần giải quyết. Thơng qua hoạt động thảo luận nhóm tạo cơ
hội cho mọi đối tượng được nói, được trình bày miệng trước nhóm, được mạnh
dạn trình bày và biết cách trình bày một vấn đề nào đó trước tập thể. Từ đó, học
sinh rèn kỹ năng giao tiếp, biểu hiện thái độ cử chỉ khi trình bày để tăng thêm sức
11


biểu cảm, tăng sức thuyết phục của vấn đề mà mình trình bày, cũng nhờ đó, các
em tự tin hơn trong giao tiếp, mạnh dạn hơn khi nói trước đơng người.
Ví dụ: Khi dạy Tự nhiên xã hội 1: Tổ chức cho học sinh hoạt động theo
nhóm, với nhiệm vụ mỗi em trong nhóm cùng thảo luận bàn bạc và đi đến thống
nhất một nội dung mà giáo viên yêu cầu thảo luận. Khi thực hiện xong nhiệm vụ,
tổ chức cho các nhóm trình bày trước lớp để cả lớp cùng nhận xét về cách trình

bày của nhóm bạn. Giáo viên thận trọng quan sát tất cả hoạt động giao tiếp của
học sinh, sau đó nhẹ nhàng nhắc nhở.
Trong khi tổ chức cho học sinh hoạt động cả lớp thì giáo viên nêu yêu cầu
qua cách đặt câu hỏi như: Em nào có ý kiến? Em nào trả lời câu hỏi? Nhóm nào
trình bày trước lớp? Em nào có ý kiến khác? Với cách giao tiếp như vậy, học sinh
cảm thấy tiết học nhẹ nhàng, thân thiện cởi mở không gị bó, các em có cảm giác
thoải mái, tiết học thực sự hứng thú, tạo nên tiết học sinh động mang lại hiệu quả
cao hơn.
Hoặc, qua việc tổ chức học nhóm các mơn Tiếng Việt, Đạo đức,.. học sinh tự
giác và chủ động tìm và nói ra kiến thức đã khám phá.
Mỗi khi báo cáo kết quả, giáo viên chú ý rèn học sinh ý thức tôn trọng và
lắng nghe ý kiến của bạn, của nhóm khác, tự tin và tự giác cùng trao đổi, bàn bạc
để hoàn thành nhiệm vụ chung của nhóm, dám nói ra suy nghĩ hoặc bảo vệ ý kiến
của nhóm mình trước tập thể, trước các nhóm khác một cách đúng đắn, theo
hướng tích cực.
Một hình thức dạy học tạo được hứng thú cho học sinh là trị chơi học tập.
Đây là hình thức học tập có hiệu quả đối với học sinh, đặc biệt là những em ngại
nói, tức là ngại giao tiếp, trị chơi học tập sẽ làm cho các em hứng thú hơn trong
học tập. Thơng qua trị chơi, học sinh được luyện tập, làm việc cá nhân, làm việc
trong đơn vị nhóm, đơn vị lớp theo sự phân cơng và tinh thần hợp tác. Trò chơi
tạo cơ hội cho học sinh tự hoạt động, tự củng cố kiến thức, tự hoàn thiện kĩ năng
giao tiếp của chính mình.
Các trị chơi học tập có thể tổ chức cho học sinh trong giờ tự học, giờ ra
chơi hoặc giờ sinh hoạt lớp hay trong phần củng cố của mỗi giờ học. Qua các trò
chơi này, học sinh được tăng cường rèn luyện các kiến thức vừa được học, từ đó
sẽ nhớ bài và vận dụng vào việc giao tiếp trong đời sống hằng ngày.
Ví dụ: Trị chơi phỏng vấn (Bài Gia đình em – Đạo đức 1)
12



Luyện cho học sinh cách tự giới thiệu về gia đình mình với bạn bè hoặc
người xung quanh.
Cách chơi: Một học sinh giới thiệu về gia đình mình (quê quán, gia đình gồm có
mấy người, nói về từng người trong gia đình, mọi người sống với nhau như thế
nào,...)
Giáo viên cần chú ý rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh không chỉ trong học
tập, trong sinh hoạt Đội mà cả trong cả các hoạt động tập thể, bao gồm: Sinh hoạt
sao, sinh hoạt lớp,…
Tiết sinh hoạt sao, sinh hoạt lớp chính là tiết sinh hoạt tập thể. Tiết sinh hoạt
tập thể ở trường Tiểu học được tiến hành đánh giá các hoạt động, công việc của
lớp diễn ra trong tuần và xây dựng nhiệm vụ cho tuần học tới. Bởi vậy tiết sinh
hoạt tập thể là thời điểm mà mỗi học sinh có quyền dân chủ trao đổi ý kiến của
mình trước tập thể về đánh giá các cơng việc trong tuần cũng như bàn bạc để xây
dựng kế hoạch hoạt động cho tuần tới. Đây là cơ hội cho một số em được rèn
luyện kĩ năng giao tiếp trước nhóm, tổ và trước tập thể lớp. Để rèn được kĩ năng
giao tiếp, giáo viên phải cùng sinh hoạt với các em, lắng nghe đồng thời hướng
học sinh giao tiếp một cách lịch sự, khơng chỉ chích nhau trong tiết sinh hoạt mà
chỉ khuyên các bạn cố gắng khắc phục những khuyết điểm, phát huy những ưu
điểm để thực hiện một cách tốt hơn trong tuần tiếp theo…
Ví dụ: Khi tổ chức sinh hoạt sao, tôi đã chú ý đến rèn kỹ năng giao tiếp
thông qua các hoạt động như: Dưới sự chỉ đạo của người phụ trách sao, các em
lần lượt kể lại những việc đã làm của mình trong tuần qua. Qua cách trình bày,
lúc đầu tơi thấy một số em biết kể những việc làm tuy nhiên cách diễn đạt còn
lúng túng hay khi trả lời những câu hỏi của anh chị phụ trách sao còn chưa được
tự nhiên. Khi đó tơi cùng người phụ trách sao hướng dẫn các em cách trả lời rõ
ràng, trình bày mạch lạc, tự tin. Mỗi câu trả lời của các em tơi đều dùng hình thức
khuyến khích khen ngợi nên dần dần các em đỡ tự ti, mặc cảm và ngày càng
muốn giao tiếp nhiều hơn. Mặt khác, khi các em đã biết mạnh dạn để trao đổi thì
tơi mới đưa thêm các câu hỏi theo chủ đề, chủ điểm của tháng sinh hoạt sao để
các em có cơ hội bộc lộ ngơn ngữ nói của mình trước các bạn.

Hay tiết sinh hoạt lớp, trước hết các em ổn định tổ chức lớp học và hát
một số bài hát mở đầu, lớp trưởng lên đánh giá nhận xét và sơ kết thi đua theo
chủ điểm. Sau đó các cá nhân sẽ được trình bày ý kiến của mình qua phần nhận
xét của lớp trưởng. Các em đã mạnh dạn thẳng thắn trao đổi chỉ ra được những
13


điều chưa đồng ý với phần nhận xét của bạn lớp trưởng. Qua việc làm này, tôi
thấy các em đã dám đấu tranh đúng với sự thật, giúp các bạn sửa sai những
khuyết điểm và phấn đấu thực hiện tốt những việc mình làm đúng. Mặt khác, khi
trình bày các em đã tập cho mình kĩ năng giao tiếp trước tập thể một cách tự
nhiên, bộc lộ được những điều mình muốn nói với bạn, với cơ giáo. Sau đó giáo
viên phụ trách sẽ là người kết luận về kết quả đạt được hoặc chưa đạt dựa trên
báo cáo, thảo luận và thực tế của lớp. Sau đó tổ chức cho lớp xây dựng kế hoạch
hoạt động cho tuần tới dựa trên kế hoạch của nhà trường đề ra.
Như vậy khi tổ chức một tiết sinh hoạt thành công tôi thấy các em đã đánh
giá được hoạt động của mình tuần qua và xây dựng bản kế hoạch hoạt động thực
tế cho tuần sau. Mặt khác qua việc làm này, tôi thấy các em tự tin hơn, biết bộc lộ
ý kiến, nêu lên suy nghĩ của mình, nhằm rèn luyện kĩ năng nói, kĩ năng diễn đạt
trước tập thể từ đó dần dần giúp các em mạnh dạn hơn, tự nhiên hơn khi nói
trước đám đơng hoặc thuyết trình một vấn đề nào đó.
Giải pháp 5: Giáo dục kĩ năng giao tiếp thơng qua các hoạt đợng ngồi giờ
lên lớp.
Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, trường tôi đã tổ chức các hoạt động
tập thể, giờ ngoại khóa để các em được tham gia vào hoạt động thực tiễn của
cuộc sống, giúp các em giao lưu với nhiều người, tạo cơ hội bộc lộ những suy
nghĩ, tình cảm, biết chia sẻ, hịa đồng. Từ đây, tính rụt rè, sợ sệt giảm bớt đi, để
sự tự tin, dũng cảm, hòa đồng, thân thiện sẽ được thể hiện và phát triển.
Nội dung giáo dục về kĩ năng sống rất phong phú: văn nghệ trong các ngày
lễ 20/10, 20/11, thi diễn thuyết, thuyết trình, thể thao, tham quan danh lam thắng

cảnh, đài tưởng niệm, thăm bà mẹ Việt Nam anh hùng,... trong dịp kỉ niệm ngày
22/12. Khi nhà trường tổ chức cuộc thi hùng biện tôi đã nhận thấy khi lên hùng
biện về cuộc thi, thì các em khơng những lớn lên về kiến thức mà kĩ năng giao
tiếp, tự khẳng định mình, mạnh dạn, nói lưu lốt, logic, tự tin, phấn khởi. Tôi
nghĩ việc học sinh tham gia vào các hoạt động tập thể, hoạt động ngoại khóa của
Đội, Sao, của lớp, trường, của địa phương nhằm giúp các em phát triển về trí tuệ,
óc quan sát. Từ đó, cịn rèn cho học sinh kĩ năng về giao tiếp, sự tự tin trong giao
tiếp, hòa đồng với bạn bè, biết chia sẻ, quan tâm với những người xung quanh.
Ngoài ra khi dạy các môn học cần tổ chức hoạt động nhóm, tổ, lớp để các em tự
giới thiệu về bản thân, gia đình, lớp, trường mình.
14


Nhà trường tạo điều kiện để rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học sinh tiểu
học qua việc thành lập các câu lạc bộ theo sở thích, năng khiếu của các bạn học
sinh. Các câu lạc bộ với các lĩnh vực như: CLB Hị khoan Lệ Thủy, vẽ tranh,
bóng bàn, cờ vua…Việc tổ chức hoạt động các câu lạc bộ này sẽ tạo ra môi
trường thuận lợi để các bạn học sinh có thể thể hiện tài năng và niềm u thích
của mình. Khơng những thế, khi sinh hoạt trong các câu lạc bộ sẽ giúp các bạn
rèn luyện được kĩ năng giao tiếp trong mơi trường có phạm vi lớn hơn lớp học.
Các bạn học sinh có thể học được các kĩ năng giao tiếp tốt hơn trong môi trường
này.
Hoạt động vui chơi, đặc biệt là trong giờ ra chơi, học sinh thường có
những biểu hiện khơng tốt bằng trong giờ học. Phần lớn học sinh mắc lỗi vào giờ
ra chơi. Vì thế trong giờ ra chơi, giáo viên cần theo dõi, quán xuyến đến mọi học
sinh trong trường, trong lớp, chú ý xem các em chơi trò chơi gì, nói năng với
nhau ra sao, nhắc nhở những học sinh cịn nói năng chưa phù hợp. Có như vậy
học sinh mới chú ý rèn cách nói của mình cho đúng cho phù hợp. Qua một vài
lần được cô quan tâm các em sẽ có những giờ ra chơi thực sự vui vẻ và bổ ích,
khi vào lớp tiết học càng thêm hứng thú, lơi cuốn. Vì vậy giáo viên cần hướng

học sinh tham gia các trò chơi lành mạnh, có ý nghĩa, có tinh thần tập thể như:
chơi chuyền, chắt, nhảy dây, đá cầu, kéo co. Có như vậy mới giáo dục được cho
học sinh kĩ năng giao tiếp với nhau và tạo ra tinh thần đồng đội.
Giải pháp 6: Liên hệ chặt chẽ với cha mẹ học sinh để giúp đỡ, hổ trợ học
sinh trong khi nói và giao tiếp.
Ngay từ đầu năm học, khi được phân công chủ nhiệm giảng dạy lớp 1B.
Bản thân tôi đã trực tiếp hướng dẫn học sinh giao tiếp từ cách chào hỏi, nói với
bạn, nói với thầy cơ, nói với các anh chị, cách sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ, nét
mặt, .... Tuy nhiên thời gian ở lớp khơng có nhiều để rèn luyện kỉ năng giao tiếp
cho học sinh trong khi đó mơi trường giao tiếp của gia đình chiếm vị trí hết sức
quan trọng, cần thiết, quyết định đến việc hình thành nhân cách trẻ. Để phối hợp
với phụ huynh giúp đỡ các em trong giao tiếp, đặc biệt là về số học sinh cịn nói
lắp, khơng muốn giao tiếp và học sinh thực hiện giao tiếp chưa tốt.
Để việc điều tra tiện lợi, tốn ít thời gian mà hiệu quả lại cao, tôi đã lập phiếu
và tiến hành điều tra gia đình từng học sinh. Cụ thể:
15


-

Lập phiếu điều tra như sau:
+ Họ tên học sinh…
+ Những biểu hiện chưa tốt trong giao tiếp:….
+ Tên bố mẹ hoặc người đỡ đầu học sinh…
+ Thuộc thôn nào trong xã…
+ Điều kiện về kinh tế, giáo dục của gia đình:…
+ Các nguyên nhân dẫn đến học sinh giao tiếp chưa tốt:….
+ Đề xuất các biện pháp giáo dục:…
Trên cơ sở các phiếu điều tra của từng học sinh, giáo viên sắp xếp thời gian


hợp lý, có biện pháp rèn kĩ năng nói và kĩ năng giao tiếp cho từng em, từng nhóm
học sinh có những điểm tương đồng. Ngồi mơi trường học tập, trong các mơi
trường gia đình hay xã hội, cha mẹ học sinh cũng luôn đồng hành và khuyến
khích con tự tin trước bất cứ mơi trường nào.
Vì vậy, trong quá trình dạy học hay tổ chức các hoạt động giáo dục cho học
sinh, tôi thường nhắc nhở học sinh khi nói cần hết sức bình tĩnh, tự tin đồng thời
phải chú ý theo dõi thái độ, diễn biến tâm lí, sự hứng thú của người nghe đối với
lời nói của mình, để kịp thời điều chỉnh cách nói và nội dung nói cho phù hợp
yêu cầu đề bài và hứng thú người nghe. Lựa chọn và sử dụng những nghi thức lời
nói đúng với vai trị giao tiếp. Khi nói cần đảm bảo tính văn hóa của lời nói: nói
đúng lúc, đúng chỗ, khơng nên nói trống khơng, tránh thái độ thờ ơ hoặc q
nóng nảy, gay gắt khi khơng đồng tình với ý kiến của người khác. Tránh lối nói
đều đều, như học thuộc lịng, phải nói một cách chủ động, tự nhiên với ngữ điệu
phù hợp với từng kiểu lời thoại, ...
Bên cạnh đó tơi thường gặp gỡ, tun truyền và lơi cuốn phụ huynh tham
gia vào các hoạt động học tập của học sinh do lớp, trường tổ chức để phụ huynh
hiểu và biết được những chuẩn mực đạo đức, những kĩ năng sống cần thiết của
học sinh, đặc biết là kĩ năng giao tiếp. Thường xuyên trao đổi với phụ huynh học
sinh về tâm lí, nhận thức của trẻ. Nhận thức của trẻ giống như một trang giấy
trắng, thầy cô giáo và người thân là những người tô, vẽ vào những tờ giấy trắng
16


ấy đầu tiên. Cho nên, không được nuông chiều, bênh vực tật xấu, dạy trẻ từ lời
nói, tiếng chào. Chẳng hạn: Tuyệt đối khơng được nói trống khơng, đi phải chào,
về phải hỏi, ra đường gặp người trên phải chào hỏi lễ phép, phải biết cảm ơn khi
người khác làm việc tốt cho mình, biết xin lỗi khi mình làm phiền người khác, ra
ngoài khi các lớp khác đang học phải đi nhẹ, nói khẽ, khơng gây ồn ào, làm mất
trật tự, ảnh hưởng đến công việc của những người xung quanh.....Những điều đó
tưởng chừng quá nhỏ nhặt nhưng nếu thầy cơ, gia đình khơng dạy bảo cẩn thận

thì các em khơng thể biết được những điều ấy. Nói đến thói hư, tật xấu trong giao
tiếp thì những người thân phải biết phân tích, điều chỉnh, chỉ ra chỗ sai giúp trẻ
khắc phục. đồng thời, phải biết động viên, khen ngợi kịp thời mỗi lúc trẻ ngoan
ngoãn, cư xử tốt. Mỗi lần trẻ được khen như thế sẽ giúp các em phát huy hơn nữa
những gì mình làm tốt.
Muốn dạy được những đứa con ngoan như thế thì thầy cơ giáo, người thân
trong gia đình phải làm gương, lời nói, việc làm, hành động, cuộc sống của các
thành viên trong gia đình ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý, tình cảm, cách học ăn,
học nói, cư xử của trẻ.
Giải pháp 7: Động viên khen thưởng kịp thời là cách rèn kỹ năng
giao tiếp tốt
Những lời khen, lời nhận xét của cô giáo, của các bạn và của phụ huynh
thực sự động viên các em rất nhiều, nó có sức mạnh rất lớn để tạo ra kết quả tích
cực. Để rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh tiểu học thì một trong những phương
pháp hiệu quả là khen thưởng và động viên kịp thời đối với các bạn học sinh có
cố gắng và tự tin giao tiếp đạt được những kết quả cao. Đây sẽ là động lực vô
cùng lớn để các bạn học sinh thi đua tích cực trong quá trình rèn luyện kỹ năng
giao tiếp cho học sinh tiểu học.
2.3. Kết quả thực hiện.
Qua một thời gian tìm hiểu thực trạng, nghiên cứu tìm ra phương pháp giáo
dục và áp dụng vào công tác giảng dạy, giáo dục trong năm học 2018-2019.
Những biện pháp trên đã đem lại hiệu quả nhất định.

17


Bảng thống kê một số kĩ năng giao tiếp của học sinh lớp 1B, cuối năm học:
2018 - 2019
Tổng


Nói to, rõ

Nói hơi

số học ràng, phát âm chậm, 1 số
sinh

đúng đảm

âm, tiếng

bảo tốc độ

nói chưa
đúng trong
giao tiếp

Nói
ngọng,
nói

lắp,

sai nhiều
trong giao
tiếp

Nói trống

Biết giao


Biết dùng

khơng,

tiếp bằng

từ khá

khơng rõ

nét mặt, cử

chính xác;

nghĩa, chưa chỉ, điệu bộ

sử dụng câu

biết nhìn

khá phù

khi nói

vào đối

hợp với nội

tượng giao


dung, ngữ

tiếp.

cảnh giao
tiếp

SL
%
SL
%
SL/%
SL % SL %
SL
%
31
31
100
1
3
1/3
0
0
31 100 27
87
Theo bảng thống kê kết quả cho thấy: Học sinh nói to, rõ ràng, phát âm
đúng đảm bảo tốc độ đảm bảo tỉ lệ 100%; Học sinh nói hơi chậm, 1 số âm, tiếng
nói chưa đúng trong giao tiếp còn 1 em chiếm tỉ lệ 3%; học sinh nói ngọng, nói
lắp, sai nhiều trong giao tiếp 1 do bẩm sinh di truyền từ bố mẹ, đặc biệt là tỉ lệ

học sinh nói trống khơng, khơng rõ nghĩa, chưa biết nhìn vào đối tượng giao tiếp
khơng cịn em nào nữa. Đa số các em đã biết giao tiếp bằng nét mặt, cử chỉ, điệu
bộ khi nói và học sinh biết dùng từ ngữ khá chính xác; sử dụng câu khá phù hợp
với nội dung, ngữ cảnh giao tiếp. Từ kết quả đánh giá, tôi thấy kĩ năng giao tiếp
của các em đã cải thiện đáng kể, các em khơng cịn lỗi phát âm khi nói, chất
lượng đọc được nâng lên, học sinh hứng thú học tập, tạo khơng khí thoải mái khi
học, học mà chơi, chơi mà học. Các em cảm thấy rất hứng thú, nghe và hiểu được
hiệu lệnh, hiểu được lời nói của giáo viên. Nhiều em trả lời được rành mạch, nói
đủ câu rõ ràng. Đặc biệt là các em có khả năng giao tiếp tốt, mạnh dạn, tự tin hơn
trong học tập và thực hành cũng như cách ứng xử với cô và bạn bè, nắm chắc
được về ngữ âm, về luật chính tả, đọc tốt, viết tốt.

18


3. Phần kết luận
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến
Với việc áp dụng một số biện pháp trên, bản thân tôi nhận thấy học sinh có
chiều hướng tiến bộ tích cực. Từ chỗ đầu năm nhận lớp, các em đang còn rụt rè
trong giao tiếp với thầy cô giáo, nhiều em nói trống khơng, gặp mọi người khơng
chào hỏi, lúng túng trong cách diễn đạt, thích chơi một mình, khơng hợp tác với
thầy cô trong hoạt động học tập nhưng sau vài tháng học ở trường tiểu học các
em thay đổi hẳn cả về ý thức trách nhiệm trong công việc, trong giao tiếp ứng xử
với thầy cô, bạn bè, cha mẹ. Các em ngày càng tự tin, mạnh dạn và bộc lộ ý kiến
của mình một cách thẳng thắn, trung thực, tham gia các hoạt động, phong tào
nhiệt tình. Các em hòa đồng, dễ gần gủi, trao đổi với nhau hơn.
Tuy thời gian chưa nhiều, song kết quả thu được là rất đáng mừng, số học
sinh biết giao tiếp tốt tăng lên rõ rệt. Các em đã biết tự quản trong lớp, trong các
tiết học các em đã mạnh dạn trao đổi, chia sẽ việc học, mạnh dạn nêu ý kiến của
mình. Việc học sinh trả lời cộc lốc đã giảm đi rõ rệt. Học sinh có khó khăn trong

giao tiếp đã biết hợp tác với giáo viên để hoàn thành việc học, em đã biết chia sẽ
với cô giáo những điều em muốn.
Với những kết quả đạt được, tôi nghĩ việc học hỏi, tìm tịi và sáng tạo trong
hoạt động dạy học là nhiệm vụ mỗi ngày của người giáo viên, hoạt động đó phải
được diễn ra thường xuyên có như vậy mới đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
sự nghiệp phát triển giáo dục và thực hiện tốt phong trào xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực.
3.2. Bài học kinh nghiệm:
Qua thời gian làm cơng tác chủ nhiệm lớp 1, cũng như qua thực tế giảng
dạy và rèn các kĩ năng nghe - đọc - nói - viết, rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh.
Bản thân tôi nhận thấy, để giúp HS lớp 1 mạnh dạn tự tin giao tiếp với mọi người
19


xung quanh thì người giáo viên bên cạnh sự kiên trì, nhẫn nại thì cần phải tìm
tịi, nghiên cứu học hỏi từ sách báo, đồng nghiệp. Có như vậy, việc rèn kĩ năng
giao tiếp cho học sinh lớp 1 mới đạt hiệu quả.
Với những suy nghĩ như trên, tôi rút ra được một số kinh nghiệm sau:
1. Phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ. Không ngừng trang bị và trau dồi cho mình những kĩ năng nghiệp vụ
cũng như các kĩ năng mềm cơ bản khác như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nói ngắn
gọn, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng hoạt náo, kĩ năng ca hát, kĩ năng tin học
để có thể ứng dụng trong mỗi bài giảng và các hoạt động trên lớp.
2. Giáo viên phải nắm vững tâm, sinh lí của học sinh lớp 1. Gần gũi chia sẻ
với các em học sinh, tạo khơng khí lớp học thân thiện, cởi mở để không gây áp
lực cho các em. Đồng thời giúp học sinh biết cách độc lập tư duy, tập trung suy
nghĩ khi trình bày, bày tỏ ý kiến của bản thân.
3. Giáo viên cần giúp học sinh nắm chắc cấu trúc các dạng ngôn ngữ lời nói.
Từ đó, khuyến khích các em mạnh dạn giao tiếp với mọi người xung quanh.
4. Giáo viên thường xuyên trao đổi với phụ huynh để phụ huynh nắm được

tình hình của con em để kịp thời hỗ trợ, giúp đỡ các em.
5. Người thầy phải yêu nghề, quý trẻ, nắm được hồn cảnh gia đình để giúp
trẻ hịa nhập với môi trường học tập, vui chơi, giao lưu với mọi người, có cách
ứng xử cho phù hợp, trẻ tự tin, mạnh dạn, hoạt bát, ngơn ngữ nói tốt, trẻ thấy yêu
trường, yêu lớp, thấy được “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, học được bao
điều bổ ích, thú vị từ nhà trường.
Tóm lại, kĩ năng giao tiếp là một trong những kĩ năng mềm
cực kỳ quan trọng trong thế kỷ XXI. Rèn luyện kĩ năng giao tiếp
cho học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 1 là một việc làm có ý nghĩa hết
sức quan trọng trong q trình giáo dục tồn diện học sinh và hình thành nhân
cách cho các em.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã thực hiện và đạt kết quả tốt. Sáng
kiến đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và hình thành nhân cách của học
sinh. Tơi mong rằng, sáng kiến nhỏ này sẽ được áp dụng vào các lớp 1 trong
những năm học tới đạt kết quả tốt hơn nữa. Vì thời gian nghiên cứu có hạn nên
bản sáng kiến kinh nghiệm này có thể vẫn cịn những hạn chế nhất định. Rất
20


mong q thầy cơ giáo, các bạn đồng nghiệp góp ý để bản sáng kiến kinh nghiệm
của tơi hồn thiện hơn.

21



×